Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nghệ thuật Thị giác Việt Nam, cần được hỗ trợ cách khác doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.13 KB, 12 trang )

Nghệ thuật Thị giác Việt Nam,
cần được hỗ trợ cách khác
Nghệ thuật Thị giác (Visual Arts), với đa số người Việt Nam, được
hiểu là thế giới của những Dali, Picasso v.v… nói chung, là thế giới
của những cái gì hết sức “cao sang”, “siêu phàm”, không can dự gì
đến cuộc sống của mình-biết cũng được, không biết cũng chẳng sao.
Oái oăm là ngay cả những người đang điều hành các thiết chế văn
hóa-nghệ thuật ở Việt Nam, dường như cũng đang hiểu vấn đề theo
kiểu như vậy. Họ cũng chỉ muốn làm sao cho có thật nhiều Dali, thật
nhiều Picasso-Việt Nam…

Đôi điều nhìn lại
Trước hết, Nghệ thuật Thị giác là gì?
Nghệ thuật Thị giác (Visual Arts) là tên gọi chung chỉ các loại hình
nghệ thuật ĐƯỢC TIẾP NHẬN, cơ bản, thông qua KÊNH thị giác, và
ĐƯỢC SÁNG TẠO, chủ yếu, dựa trên các đặc thù của TƯ DUY thị
giác…
Nghệ thuật Thị giác bao trùm một phạm vi rộng, gồm: Kiến trúc, Nghệ
thuật Môi trường (một không gian đô thị, một thắng cảnh…), Hội họa,
Điêu khắc, Nhiếp ảnh, Nghệ thuật Sắp đặt, Nghệ thuật Thực địa, Thủ
công Mỹ nghệ, Đồ họa ứng dụng, Thời trang, Tạo dáng công nghiệp
v.v…
Nghệ thuật Thị giác có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống con
người và xã hội?
Mỗi người, mỗi ngày mở mắt ra là chung đụng với cơ man sản phẩm
Nghệ thuật Thị giác. Và, trong đời sống mỗi ngày, ai cũng phải thường
xuyên phán đoán, đánh giá, lựa chọn đủ thứ theo các tiêu chuẩn Nghệ
thuật Thị giác: từ việc chọn một bộ đồ để mặc, đến chọn mua những
thứ vụn vặt như một cái hộp quẹt, một cái mũ v.v… Các tiêu chuẩn
này, ý thức hay không ý thức, đều có 2 khía cạnh: một, là khía cạnh
thẩm mỹ (đẹp/xấu), và hai, là khía cạnh đẳng cấp tượng trưng (sành


điệu/không sành điệu, cao cấp/bình dân, tân tiến/lạc hậu…). Tóm lại,
sự tiếp nhận, đánh giá và lựa chọn các sản phẩm Nghệ thuật Thị giác là
một trong các yếu tố quan trọng làm nên DIỆN MẠO VĂN HÓA một
con người. Làm nên hình ảnh người đó trong mắt nhìn người khác. Và
đó, là một trong những yếu tố quan trọng (bên cạnh vấn đề năng lực)
quyết định sự thành/bại, được tôn trọng/không được tôn trọng của
người đó trong xã hội… Do đó, ý thức về Nghệ thuật Thị giác, tích lũy
kinh nghiệm xúc cảm thị giác, nâng cao và mở rộng năng lực đánh
giá thế giới sự vật chung quanh và biết sáng tạo hình ảnh bản thân
mình theo các tiêu chuẩn Nghệ thuật Thị giác là điều kiện cần để
mỗi cá nhân hòa nhập vào thế giới đương đại.
Nghệ thuật thị giác, như đã nói ở trên, thực chất là toàn bộ các yếu
tố làm nên THẾ GIỚI SỰ NHÌN của một cộng đồng văn hóa. Các
yếu tố: Một, tạo nên sự đồng cảm của các thành viên trong cộng đồng
đó (ví dụ; người Hà Nội tự hào về hồ Hoàn Kiếm, về Phố Cổ-đi đâu
cũng nhớ về…). Hai, góp phần làm nên cái gọi là bản sắc (tượng
trưng)-một mặt, tác động lên tâm tư, tình cảm người dân địa phương,
khiến họ tự hào và phải sống sao cho xứng đáng (như người Huế tự hào
là dân đất Thần Kinh và phải sống sao cho ra “Mệ”; như người Hà Nội
tự hào là dân Thủ đô và phải sống sao cho lịch duyệt…); mặt khác, tác
động đến người khác, từ nơi khác đến, như những giá trị độc đáo, hấp
dẫn… cần được khám phá…Xin lưu ý thêm một chút về chuyện hình
ảnh. Hình ảnh không phải là sản phẩm của một cú bấm máy (ảnh) hay
cái gì giới hạn trong không gian hai, ba chiều. Hình ảnh là sản phẩm
tổng hợp được mã hóa trong nhận thức mỗi người về một đối tượng
được nhìn thấy. Hình ảnh một con người trong xã hội không phải là
một tấm chân dung, mà là tổng hợp của tất cả, từ áo, quần, tóc tai, từ cử
chỉ, ngôn ngữ đến hành vi v.v Kể cả vai trò và vị trí xã hội của người
đó. Tóm lại, hình ảnh luôn là một tượng trưng. Ba, sự đa dạng về loại
hình, sự phong phú và độc đáo về hình thức…, thể hiện một năng lực

sáng tạo năng động thích ứng với điều kiện tự nhiên và có một ý thức
xuyên suốt về bản sắc của Nghệ thuật Thị giác, là yếu tố phản ánh
TRÌNH ĐỘ VĂN MINH và TÍNH CÁCH VĂN HÓA của một cộng động.
Đó là các yếu tố làm nên SỨC HẤP DẪN và THẾ GIÁ của một cộng
đồng giữa bao cộng đồng khác… Nó quyết định sự thành bại của một
THỊ TRƯỜNG DU LỊCH , và làm nên HÌNH ẢNH ĐỊA PHƯƠNG…
Cơ chế tương tác ảnh hưởng này diễn ra như thế nào?
Nhìn ra thế giới, bất cứ ai cũng đều dễ dàng nhận thấy, mọi nền nghệ
thuật có sức sống đều tồn tại trong một chỉnh thể văn hóa nghệ thuật.
Chỉnh thể tự nhiên có mô hình kim tự tháp, mà đỉnh là những tìm tòi
sáng tạo mang tính tiên phong, độc sáng của các thành phần ưu tú. Và
đáy, là đại chúng với khả năng tiêu thụ và sản xuất. Ðỉnh và đáy có
quan hệ hữu cơ. Ðỉnh chỉ lên cao khi đáy không ngừng được mở rộng.
Và đáy chỉ mở rộng khi những giá trị mang tính bác học tìm thấy ở
đỉnh được chuyển hóa thành những giá trị mang tính phổ cập làm
nguồn dinh dưỡng bồi bổ cho đáy. Chính nhờ những mối quan hệ này
mà những giá trị nghệ thuật được chuyển hóa thành những giá trị văn
hóa. Và cũng chính nhờ những mối quan hệ này mà những giá trị văn
hóa mang tính truyền thống (và ngoại lai) được tích hợp, biến đổi trong
những giá trị mỹ thuật làm nên những truyền thống (văn hóa) mới thích
nghi với thời đại.
Đóng vai trò trung gian giữa đỉnh và đáy là giới phê bình, giới truyền
thông, giới giáo dục các cấp và cả môi trường văn hoá của xã hội nữa.
Ở những nơi có trình độ dân trí cao, việc ứng dụng mỹ thuật vào đời
sống hàng ngày phổ biến, sinh hoạt phê bình và giới thiệu mỹ thuật
nhạy bén và lành mạnh, những sáng tạo lớn, ở điểm đỉnh nhanh chóng
được cảm nhận và nhìn nhận, từ đó, đi vào quần chúng. Khi nhận được
sự hỗ trợ của quần chúng, các sáng tạo càng dễ được đẩy mạnh và có
cơ hội phát triển rực rỡ, qua đó, càng có ảnh hưởng sâu rộng đến xã
hội.



Những bất cập và hậu quả
Trong cách hiểu của số đông người Việt Nam, Nghệ thuật Thị giác nếu
không bị hiểu chệch theo hướng “nghệ thuật truyền thần”, nghệ thuật
minh họa” vốn đã hết sức lạc hậu, thậm chí đã trở thành phản động…,
thì lại bị hiểu ngã theo hướng là thế giới của những Dali, những
Picasso…-nói chung, là những gì hết sức “sang trọng”, “cao siêu”-vượt
qua tầm hiểu biết và cũng không can hệ gì đến cuộc sống của họ.
Thật ra,nhắm đến những thành tựu cao và lớn như thế không phải là
điều sai. Tuy nhiên, đó sẽ chỉ là ảo tưởng nếu người ta không tập trung
xây dựng những mặt bằng văn hoá cần thiết để làm nẩy nở các tài năng
thiên phú. Điều đáng nói là ngay cả những người đang làm công việc
quản lý, điều hành các thiết chế văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam lâu
nay, dường như cũng hiểu, cũng có cái nhìn thiên lệch như vậy. Họ có
vẻ chỉ quan tâm đến hoặc các mục tiêu bên ngoài nghệ thuật, hoặc đến
chuyện làm sao cho có thật nhiều Dali, Picasso… Việt Nam… Cứ nhìn
vào các đầu sách Nghệ thuật Thị giác đã được xuất bản, vào các cuộc
triển lãm nghệ thuật thị giác lớn, nhỏ tổ chức rất nhiều-trong nước và
quốc tế-và, vào cung cách nói năng, ứng xử của số đông họa sĩ là có thể
thấy ngay điều này. Dường như chúng ta đã đặt ra những tiêu chuẩn
“quá cao” và chấp chới với nó. Nhiều vô cùng ví dụ về sự “với cao” và
“chấp chới” này. Chẳng hạn, chúng ta tự hào là đã “nghệ thuật hóa”
sơn mài. Nhưng, chưa nói đến chuyện “sơn mài nghệ thuật” đã được
đưa lên cao và xa đến đâu, trước mắt chỉ thấy, nó hầu như chẳng gây
được ảnh hưởng gì đáng kể thúc đẩy sự phát triển của sơn mài trang trí,
sơn mài mỹ nghệ. Chuyện khác, chúng ta tự hào rằng, kể từ khi có
trường Mỹ thuật Đông dương, chúng ta “có tác giả” hiểu theo nghĩa là
có “những cái tôi trong nghệ thuật”. Tự hào như vậy cũng được nhưng
chúng ta không thể không thấy một số hạn chế của sinh hoạt mỹ thuật

lâu nay: đỉnh của chúng ta chưa cao mà mặt bằng thì cũng không rộng
và càng không chắc. Cho đến ngày nay, có mấy người Việt Nam biết
cách tiếp thu chuyển hóa các hiểu biết về Nghệ thuật Thị giác thành
kỹ năng sống? và, có mấy người Việt Nam biết cách khai thác, tận
dụng các thành tựu của Nghệ thuật Thị giác để phục vụ cho các lợi
ích thực tế hơn của cả cộng đồng? Cứ nhìn vào cái “thế giới đồ vật”
do chúng ta sản xuất, từ cái hộp quẹt, các loại đồ lưu niệm cho đến các
cảnh quan du lịch… hẳn thấy rõ điều này. Tại sao mọi thứ lại có thể
nghèo nàn và “lởm khởm” đến vậy?!
Khi vấn đề ảnh hưởng của Nghệ thuật Thị giác lên cuộc sống chưa
được ý thức đầy đủ, cả nền Nghệ thuật Thị giác Việt Nam cũng
không có được bệ đỡ thực tế để phát triển. Nó chứng tỏ, Nghệ thuật
Thị giác Việt Nam không thực sự có công chúng. Công chúng Nghệ
Thuật thị giác mà chúng ta vẫn hay nói đến, chiếm số đông, rất đông,
chỉ là công chúng của những bức tranh “Phố Hoa”, tranh “Bờ Hồ”,
tranh của những thứ “hoài niệm vu vơ” hay “triết lý vụn” v.v… sản
phẩm hay biến thể, biến tướng của “nghệ thuật truyền thần”, “nghệ
thuật minh họa”… Trong không gian của những công chúng như vậy,
những Biểu hiện, Siêu thực, Lập thể hay Trừu tựợng, cho dù có thực sự
là những bước tiến của Nghệ thuật Thị giác, làm cho Nghệ thuật Thị
giác có thể biểu hiện được những điều sâu kín và tinh tế hơn trong tâm
hồn con người, cũng chỉ được xem là “chạy theo hình thức”, là “suy
đồi”… Còn các nghệ sĩ, cho dù có sáng tác như một vượt thoát (ra
ngoài “vườn an cư truyền thống” với các khuôn mẫu văn hóa và nghệ
thuật ngày càng trở nên chật chội đối với tư duy, và, sự câu thúc của
đời sống thường nhật cùng bao nhiêu hệ lụy ngày càng trở nên tù túng
đối với đời sống tinh thần…), như sự thăng hoa (của những cảm xúc, ý
thức và lý tưởng thẩm mỹ được nuôi dưỡng bởi niềm khao khát-như là
nghiệp chướng-nơi kẻ sáng tạo…), như là biểu hiện đầu tiên và cơ
bản nhất của tự do-nhân tính (dám nghi ngờ và từ bỏ tất cả những

thiên kiến, định kiến, thành kiến, những nguyên tắc, những ước thác
bày đặt để sống “là mình” với bản thể hồn nhiên nơi tư duy…) v.v…
Và, cuối cùng, có thể như một tác động mang tính khai phóng (mở ra
những chân trời mới cho nhận thức về thế giới, cho ý thức về cuộc
sống…,thổi bùng các ngọn lửa nhiệt tình…), thì, luôn luôn, vẫn là
những kẻ “lập dị”, “điên rồ”… Không có công chúng trong nước, tức
không được tiếp nhận, tiêu thụ bởi người trong nước, Nghệ thuật Thị
giác Việt Nam sẽ chẳng bao giờ có được “cái tiền phong” của mình.
Phần lớn nghệ sĩ đã hướng ra các đối tượng công chúng nào đó ngoài
nước-thường là “bình dân”. Điều này về mặt văn hóa, rất nguy hại,
nhưng rất tiếc là khó và chưa bao giờ được nhận diện đúng mức. Nó
dẫn cả nền Nghệ thuật Thị giác đến chỗ “vô sinh”-bản sắc mới
không được sáng tạo, chỉ có “truyền thống” bị “ăn mòn”, bị làm cho
biến dạng, trở thành “ao tù nước đọng”, và chỉ có các kiểu a-dua, ăn
theo thô thiển, sống sít những thứ “đương đại” vô duyên, vô cớ…
Ngoài ra, cho dù “tưởng” Nghệ thuật Thị giác chỉ là thế giới của những
Dali, Picasso, và “mơ” sẽ nhanh chóng có được những Dali, Picasso
Việt Nam, nhưng, cũng trớ trêu, lại chẳng có mấy ai thực sự quan tâm
đến chuyện làm thế nào để có được những Dali, Picasso của mình.
Nghệ sĩ Việt Nam, hết thế hệ này đến thế hệ khác “cứ mãi ăn đong”: ít
có cơ hội cập nhật kiến thức về nghệ thuật và môi trường hoạt động
nghệ thuật; ít có cơ hội tiếp xúc, trao đổi với đồng nghịệp trong nước
và quốc tế về quan niệm nghệ thuật cũng như về phương pháp sáng tác;
ít có cơ hội và điều kiện để giới thiệu rộng rãi công việc sáng tác và tác
phẩm nghệ thuật của mình… v.v… Những khó khăn này, đã dẫn họ
vào thế “ếch ngồi đáy giếng”, rất khó làm được việc gì thực sự “tầm
cỡ”…

Nên như thế nào?
Các ngành Nghệ thuật Thị giác Việt Nam, xưa nay, vẫn luôn được hỗ

trợ. Không nhỏ. Từ nhiều nguồn khác nhau-từ phía nhà nước, từ một số
cá nhân và tổ chức nước ngoài, từ các thiết chế kinh doanh nghệ thuật
trong và ngoài nước v.v… Tuy nhiên, hiệu quả, xem ra rất không đáng
kể.
Về phía nhà nước, các quán tính của lối tư duy thời chiến và lối tư duy
thời bao cấp còn nặng nề. Sự quan tâm đến Nghệ thuật Thị giác còn
quá thiên trọng các vấn đề chính trị, cụ thể là các vấn đề văn hóa-tư
tưởng, đã biến mọi sự hỗ trợ từ phía nhà nước trở thành những nỗ lực
vá víu cho những mục tiêu ngắn hạn nào đó mà thôi. Ít ai thấy: cái
nhiệm vụ chính trị của Nghệ thuật Thị giác, nếu cần phải đặt ra, thì
cũng phải đặt ra ở sự nhìn nhận cái đặc trưng này: nhiệm vụ phải sáng
tạo, phải làm giàu, làm riêng cho nền văn minh thị giác Việt Nam.
Về phía các cá nhân và tổ chức nước ngoài-cụ thể là từ Tây phương-tuy
sự hỗ trợ có thể xuất phát từ thiện chí, nhiệt tình, nhưng khó tránh khỏi
sự chi phối của cái nhìn “siêu thực dân” tồn tại tự nhiên trong tâm lý.
Hầu như không có người Tây phương nào không nhận thấy, nghệ thuật
Tây phương là vùng ảnh hưởng “truyền thống” đối với nghệ thuật Việt
Nam và không kém logic chút nào khi họ thấy Nghệ thuật Thị giác Việt
Nam quả đúng là lạc hậu! Họ sẵn sàng ủng hộ-vô tư-nhất là khi các
nghệ sĩ Việt Nam, đa số, đều tỏ ra “dễ thương” và cũng đang nóng lòng
muốn “hòa nhập”, muốn sớm thành “đương đại” v.v… Sự hỗ trợ này,
dễ dẫn các nghệ sĩ vào “mê lộ” của cái nhìn “dĩ Âu vi trung” vốn đã rất
lạc hậu, khiến “không còn biết mình là ai nữa”…
Còn các thành phần trong cơ chế thị trường, thì xưa nay và ở đâu cũng
vậy, chỉ xem nghệ sĩ là “những con gà đẻ trứng vàng” mà thôi. Thị
trường “chỉ nuôi những thứ bán được”… !
Nói chung, đừng chờ đợi thị trường khiến cả nền Nghệ thuật Thị giác
Việt Nam sẽ “tự điều chỉnh”, cũng đừng mơ người nước ngoài sẽ “hiểu
ta như ta” mà sắp xếp hết mọi việc thay ta. Cần phải “thức tỉnh”, “định
nghĩa” lại mọi chuyện theo cách của minh-làm sao vừa bảo đảm được

sự độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm được khả năng thích nghi với các yêu
cầu của thời đại…
Từ cách hiểu của mình về Nghệ thuật Thị giác nói chung, tôi cho rằng,
để nghệ thuật thị giác Việt Nam có thể phát triển bình thường-như một
chỉnh thể văn hóa nghệ thuật, có được nguồn năng lượng nội sinh như
đã nói-ít nhất, cần phải thực hiện ngay hai việc:
Thứ nhất, xây dựng một chương trình quốc gia đề xuất và hỗ trợ các
dự án hướng đến các mục tiêu nối kết các thành phần trong cả nền
văn hóa nghệ thuật, và, thúc đẩy ứng dụng, tiêu dùng nghệ thuật.
Nghệ thuật không thể phát triển nếu không có công chúng. Thúc đẩy
tiêu thụ, ứng dụng chính là cách hỗ trợ tốt nhất để Nghệ thuật Thị giác
phát triển. Quá trình thúc đẩy này cũng chính là: a/ quá trình nối kết các
thành phần, tạo ra công chúng trong nước, tạo ra thị trường nghệ thuật
nội địa… b/ quá trình đưa nghệ thuật vào những không gian “đối
thoại”, xác định các tiêu chuẩn của sự “hòa nhập”, “tiến bộ”… c/ quá
trình ra điều kiện, nêu đòi hỏi của công chúng đối với những người
sáng tác, buộc nghệ thuật phải sáng tạo, phải đổi mới…
Chỉ có thể thúc đẩy ứng dụng, tiêu thụ được khi làm cho mọi người
thấy, nghệ thuật không xa lạ, xa vời-có thể mang lại cho họ một hình
ảnh khác, mở rộng khả năng của họ… Như vậy, trước hết là phải phổ
cập, tuyên truyền về Nghệ thuật Thị giác. Đương nhiên. Nhưng đồng
thời, quan trọng cũng không kém-thậm chí quyết định sự thành bại-là
phải khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và lớn mạnh một lực lượng
curator “nội địa”-những chuyên gia thực sự trong hoạt động tổ chức các
sự kiện nghệ thuật. Trong giai đoạn đầu, chưa thể có các curator, nên
chú ý đến các chuyên gia tổ chức các sự kiện truyền thông trong các
lãnh vực khác ở khắp mọi nơi. Khi có kiến thức và yêu thích Nghệ
thuật Thị giác, họ có thể, sẽ làm được rất nhiều việc…
Xây dựng chương trình này là để huy động sự tham gia của tất cả mọi
người. Hiệu quả, chắc chắn không chỉ giúp các ngành Nghệ thuật Thị

giác phát triển mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành
kinh tế, văn hóa, xã hội khác… Xin lưu ý, nghệ thuật bao giờ cũng làm
cho người ta dễ hiểu nhau hơn, dễ gần nhau hơn. Trong các loại hình
nghệ thuật, do ít bị giới hạn bởi dị biệt ngôn ngữ, Nghệ thuật Thị giác
có thể dễ dàng đi khắp mọi nơi, đi sâu vào tâm hồn mỗi con người-bất
kể quốc tịch. Nó, do đó, là nhịp cầu tốt nhất để nối kết các quan hệ
ngoại giao và thương mại…
Thứ hai, xây dựng một thiết chế truyền thông hệ thống hóa thông tin
về Nghệ thuật Thị giác Việt Nam và thế giới đáng tin cậy, được cập
nhật thường xuyên và dễ truy xuất, để: a/ các nghệ sĩ giới thiệu công
việc sáng tác và tác phẩm nghệ thuật của mình; b/ công chúng có thể
tìm hiểu, học hỏi về nghệ thuật thị giác; c/ người mua tranh, các nhà
sưu tập, các nhà nghiên cứu về nghệ thuật có thể tham khảo; d/ các nhà
quản lý dễ tiếp cận, hình dung hiện tình sinh hoạt nghệ thuật thị giác
trên cả nước và thế giới; e/ các nghệ sĩ có thể gặp nhau để trao đổi quan
điểm, kiến thức và các vấn đề nghệ thuật v.v…
Xin lưu ý, với môi trường internet và điều kiện số hóa các cơ sở dữ liệu
ngày càng thuận lợi như hiện nay, việc xây dựng các đầu mối thông tin
như vậy tương đối dễ dàng. Khó là làm thế nào để cập nhật thông tin.
Nhưng ngay cả việc này, cũng không phải là quá khó, khi được điều
hành bởi những người: a/ am hiểu các khía cạnh và các vấn đề của nghệ
thuật thị giác Việt Nam và thế giới; b/ có thể liên kết các thành phần
trong nền nghệ thuật thị giác Việt Nam và thế giới; c/ có thể đề xuất các
ý tưởng, tổ chức các sự kiện nhằm kích thích nhiệt tình thúc đẩy nhanh
việc cung cấp và cập nhật thông tin v.v…
Thực ra, còn rất nhiều việc phải làm. Nhưng, làm gì, có lẽ, cũng nên
lưu ý từ nền tảng: Mỗi nền nghệ thuật, trước hết, là một hệ thống tự
qui chiếu. Nó bao giờ cũng cần phải được nhìn nhận như một chỉnh
thể văn hóa nghệ thuật. Chỉ trong sự tiếp cận đó, chúng ta mới có thể
có được một hình dung tương đối đầy đủ hiện trạng với các mối liên

hệ nội tại và ngoại tại của nó, mới có thể tìm thấy các tiêu chuẩn
đánh giá nó, mới có thể xác định được các căn cứ để dự đoán về
tương lai của nó v.v…


×