Tải bản đầy đủ (.doc) (198 trang)

bài giảng luật kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.36 KB, 198 trang )

BÀI 1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM VỀ LUẬT KINH TẾ
Để tìm hiểu về Luật kinh tế Việt Nam cần có sự phân tích khái
niệm này trong bối cảnh trước và sau đổi mới. Trong thời kỳ kinh tế
kế hoạch hóa tập trung và bao cấp, các doanh nghiệp hầu hết là quốc
doanh và tập thể, hoạt động theo một cơ chế mang tính hành chính-
mệnh lệnh. Nhà nước quản lý toàn diện và chặt chẽ hoạt động của
các xí nghiệp quốc doanh bằng một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh,
do vậy, luật kinh tế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành, quy định chế độ quản lý chặt chẽ và toàn diện đối
với các đơn vị xí nghiệp quốc doanh, từ việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản đến tổ chức hoạt động sản xuất, phân phối nhằm
thực hiện đường lối kế hoạch hóa tập trung và bao cấp của nhà nước.
Luật kinh tế thời kỳ này có một số đặc điểm sau:
- Pháp luật kinh tế được xây dựng dựa trên nền tảng chế độ công
hữu đối với tư liệu sản xuất.
Thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể. Các thành
phần kinh tế khác được cải tạo và tiến tới triệt tiêu, nếu còn tồn tại thì
cũng mang tính hình thức. Luật kinh tế thời kỳ này chủ yếu điều
chỉnh quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau hoặc
giữa quốc doanh với các đơn vị kinh tế tập thể.
- Sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh do nhà nước ban hành và
áp đặt cho các doanh nghiệp nhà nước (xí nghiệp quốc doanh).
Do đó sự năng động, sáng tạo của doanh nghiệp không được đề
cao.Việc hoàn thành chỉ tiêu nhà nước giao một cách thụ động là tiêu
chí duy nhất để đánh giá doanh nghiệp. Yếu tố thị trường cũng như
người tiêu dùng không nằm trong phạm trù hoạt động của doanh
nghiệp.
1
- Hệ thống các quy phạm pháp luật kinh tế thời kỳ này mang tính


chất mệnh lệnh quyền uy.
Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển từ nền
kinh tế chủ yếu hai thành phần: quốc doanh và tập thể sang nền kinh
tế nhiều thành phần đã tạo nên những thay đổi cơ bản trong quan
niệm Luật kinh tế. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã
khẳng định: “… Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15).
Pháp luật kinh tế trong kinh tế thị trường thừa nhận sự tồn tại
nhiều loại hình doanh nghiệp, đại diện cho nhiều hình thức sở hữu
khác nhau. Mặt khác, nó cũng thay đổi quan hệ nhà nước và doanh
nghiệp theo hướng nhà nước chỉ quản lý chung, có tính định hướng
và hỗ trợ, còn doanh nghiệp là một pháp nhân, có quyền tự do trong
tổ chức hoạt động kinh doanh theo những nguyên tắc của thị trường
và phải được đối xử bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Luật kinh tế Việt Nam đã xuất hiện các quy định như việc thừa
nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể kinh doanh,
quyền tự do kinh doanh, giao kết hợp đồng, nguyên tắc bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh doanh, không phân biệt
thành phần kinh tế…
Như vậy, Luật Kinh tế được hiểu là hệ thống các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, Luật kinh tế còn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
2

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA
LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là tổng thể những quan
hệ xã hội mà ngành luật đó tác động, chi phối. Đối tượng điều chỉnh
của ngành Luật kinh tế là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động kinh doanh và quản lý nhà nước về kinh tế. Do tính chất đa
dạng, phức tạp của hoạt động kinh doanh, các quan hệ này thường
không đơn lẻ mà liên kết hữu cơ, tương tác nhau. Chẳng hạn, trong
quan hệ mua bán hàng hóa bao gồm nhiều quan hệ phát sinh như: vận
tải, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, giám định, thanh toán… Hơn nữa khái
niệm thương mại hiện nay không đơn thuần là mua bán hàng hóa
theo nghĩa là mua bán những động sản hữu hình, mà thương mại hiện
nay còn bao gồm cả những lĩnh vực như thương mại đầu tư, thương
mại sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ. Vì vậy, không nên hiểu đối
tượng điều chỉnh của Luật kinh tế là những quan hệ kinh tế đơn lẻ mà
phải hiểu là những nhóm quan hệ. Những nhóm quan hệ này bao
gồm:
a) Quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp
Nhóm quan hệ này rất phổ biến, bao gồm các quan hệ như mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương
mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật,
licence, tài chính, ngân hàng…
- Chủ thể: của nhóm quan hệ này là các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế
- nội dung: của nhóm quan hệ này là các quyền và nghĩa vụ phát sinh
giữa các chủ thể độc lập và có mục tiêu lợi nhuận.
- khách thể: của nhóm quan hệ này chủ yếu là quan hệ tài sản, hoặc
những quan hệ dịch vụ có liên quan đến yếu tố tài sản và hình thức

pháp lý là các hợp đồng kinh doanh, thương mại.
3
b) Quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
với các doanh nghiệp
Chủ thể quan hệ này một bên là cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế, một bên là đơn vị kinh doanh. Theo Luật Doanh nghiệp hiện
hành, nội dung quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm:
- Ban hành, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về
doanh nghiệp và các văn bản có liên quan.
- Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh
bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng
phát triển kinh tế xã hội.
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho
người quản lý doanh nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ
cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng,
mục tiêu của chiến lược, quy hoạch phát triển
- Kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của
cá nhân, tổ chức khác theo quy định.
c) Quan hệ phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp
Trong một doanh nghiệp như công ty chẳng hạn, giữa các bộ
phận cấu thành nên bộ máy tổ chức quản lý như: Hội đồng thành
viên, Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc, Ban kiểm
soát tồn tại nhiều quan hộ. Các quan hệ này được điều chỉnh chủ yếu
bởi điều lệ doanh nghiệp. Khi có tranh chấp trong nội bộ doanh
nghiệp, vấn đề thường được giải quyết dựa trên những quy định tại
điều lệ, nếu điều lệ không quy định hoặc điều lệ quy định không
đúng pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền dựa trên những quy định
của pháp luật để giải quyết.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế

Phương pháp điều chỉnh của ngành kinh tế là những cách thức
được nhà nước sử dụng để tác động và các quan hệ kinh tế.
4
Đặc điểm của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mặt nhà nước tôn trọng
và bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, mặt khác, yêu cầu quản lý mang tính định hướng
nền kinh tế đòi hỏi nhà nước phải có sự can thiệp để hạn chế những
sai lệch của thị trường, đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng.
mục tiêu đã được vạch ra. Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của Luật
kinh tế chủ yếu gồm cả hai phương pháp là mệnh lệnh và thỏa thuận
bình đẳng.
- Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh
nhóm quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ
thể kinh doanh.
Trong phương pháp này, nhà nước ban hành các quyết định, chỉ
thị mang tính mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể kinh doanh phải chấp
hành nhằm bảo đảm trật tự kinh tế. Chẳng hạn, các quyết định về
đăng ký kinh doanh, quản lý sổ sách, con dấu của doanh nghiệp, về
chế độ quản lý tài chính, nghĩa vụ thuế…
- Phương pháp thỏa thuận bình đẳng: được sử dụng chủ yếu để điều
chỉnh quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau.
Trong phương pháp này, nhà nước ban hành các quy định nhằm
hình thành nên hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp như:
các quy định về quyền nghĩa vụ, về hợp đồng, về các biện pháp bảo
đảm trong kinh doanh, về trọng tài thương mại…
Việc áp dụng phương pháp nào hoàn toàn tùy thuộc vào các mối
quan hệ khác nhau, cũng như tùy thuộc vào các chủ thể và nội dung
của các quan hệ pháp luật.
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ

Nguồn của Luật kinh tế là những văn bản pháp luật do nhà nước
ban hành, điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực kinh tế. Ngoài ra,
nguồn của Luật kinh tế còn bao gồm các điều ước quốc tế và cả tập
quán quốc tế về thương mại nữa.
5
Hệ thống nguồn Luật kinh tế ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Hiến pháp 1992 (2001) của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nguồn cơ bản của Luật kinh tế. Xét về nguyên tắc
trong toàn bộ hệ thống pháp luật, Hiến pháp là đạo luật có giá trị
pháp lý cao nhất, là nguồn của tất cả các ngành luật, trong đó có Luật
kinh tế. Những quy định của Hiến pháp là cơ sở, nguyên tắc chung
cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật kinh tế khác. Hiến pháp
1992 có một số nội dung quan trọng điều chỉnh chế độ kinh tế
(chương II). Chẳng hạn, nguyên tắc thừa nhận sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế, nguyên tắc công nhận và tôn trọng quy luật vận
hành của cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc tôn trọng và bảo hộ
quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà kinh doanh…
- Các đạo luật do Quốc hội ban hành, điều chỉnh trực tiếp hoạt động
kinh doanh như: Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp,
Luật hợp tác xã, Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật phá sản… Ngoài
ra, còn phải kể đến các đạo luật tùy thuộc những ngành luật khác
nhưng có quan hệ điều chỉnh mật thiết tới hoạt động kinh doanh như:
Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ, Luật đất đai
- Các Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế
- Các Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ quốc hội như: Pháp lệnh trọng
tài thương mại, Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với người có
thu nhập cao, Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu
vào Việt Nam…
- Các văn bản dưới Luật về kinh tế như: Nghị quyết, Nghị định của
Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, Quyết định,

Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ…
Bên cạnh hệ thống luật quốc gia là nguồn luật chủ yếu của Luật
kinh tế, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, các Điều ước quốc
tế về thương mại cũng trở thành một nguồn luật quan trọng. Khái
niệm Điều ước quốc tế dùng để chỉ những Công ước, Hiệp ước, Hiệp
định quốc tế đa phương và song phương. Trong những năm qua, Việt
Nam đã lần lượt gia nhập các Điều ước quốc tế thương mại như:
6
Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả, Hiệp định TRIPs về khía
cạnh thương mại của sở hữu trí tuệ, Thỏa ước Madrid về nhãn hiệu
hàng hóa, các Hiệp định hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), các Hiệp định thương mại song phương như: Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại Việt Nam-EU.
Mặt khác, khi trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Việt Nam cũng phải tuân thủ toàn bộ các cam kết quốc tế và
các quy định của tổ chức này.
Tập quán thương mại trong mua bán hàng hóa quốc tế từ lậu đã
được áp dụng trong thực tiễn thương mại ở nước ta. Hiện nay, Luật
thương mại 2005 đã chính thức quy định về Tập quán thương mại.
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt
động thương mại trên một vùng, miền, hoặc trên một lĩnh vực thương
mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, cần
lưu ý là Tập quán thương mại không phải là một nguồn luật đương
nhiên, chúng chỉ trở thành nguồn luật khi hai bên thỏa thuận thành
một điều khoản trong hợp đồng hoặc khi các Điều ước quốc tế mà hai
bên dẫn chiếu trong hợp đồng quy định.
IV. VAI TRÒ CỦA LUẬT KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
Nền kinh tế thị trường là một phương thức tổ chức vận hành

kinh tế xã hội mà đặc trưng phổ biến là sự liên hệ mua bán giữa hai
bên trong hoạt động sản xuất hàng hóa và trao đổi mua bán. Cơ chế
kinh tế thị trường theo cách hiểu chung là một cơ chế mà trong đó
các nhân tố cơ bản của đời sống kinh tế vận hành dưới sự chi phối
của quy luật thị trường, vận hành trong môi trường cạnh tranh vì mục
tiêu lợi nhuận. Đặc điểm này chi phối sự hình thành và phát triển các
quy phạm pháp luật kinh tế mà dù muốn hay không, các quốc gia lực
chọn đình hướng này phải tuân thủ. Kinh tế thị trường dù mang sắc
7
thái khác nhau tùy vào điểm xuất phát, mục tiêu chiến lược của từng
nước, nhưng nhìn chung đều có những đặc trưng chung là:
- Trong nền kinh tế cùng tồn tại nhiều loại hình sở hữu với nhiều
thành phần kinh tế khác nhau.
- Nền kinh tế vận hành trong môi trường tự do cạnh tranh và động lực
cơ bản chi phối là lợi nhuận.
- Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh kinh tế thị trường chủ yếu bằng
các chính sách kinh tế và ban hành hệ thống pháp luật kinh tế.
Bản thân nền kinh tế thị trường có những ưu điểm không thể
phủ nhận, song nền kinh tế thị trường cũng chứa nhiều khiếm khuyết
nhất định mà nếu thiếu một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ và
phù hợp thì hiện tượng lệch lạc gây tổn thất cho xả hội là điều khó
tránh khỏi. Ngay ở những quốc gia có nền kinh tế và luật pháp phát
triển lâu đời như phương Tây, nhiều khi cũng có những hiện tượng vi
phạm, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các
quốc gia luôn phải đối mặt với những thách thức, những mâu thuẫn
xã hội cần phải giải quyết. Đó là yêu cầu bảo đảm sự hài hòa giữa
kinh tế vả xã hội. Nói cách khác, làm thế nào vừa đảm bảo yêu cầu
phát triển kinh tế vừa bảo đảm công bằng xã hội và giải quyết tốt các
vấn để phát triển bền vững. Phát triển nền kinh tế thị trường tức là
thừa nhận quyền hợp pháp của nhà kinh doanh trong việc sử dụng

các phương pháp để mang lại lợi nhuận tối đa. Mặt khác, phải bảo
đảm lợi ích cho toàn xã hội, bảo vệ người lao động, người tiêu dùng,
không để tình trạng làm ăn bất hợp pháp, phá hoại môi trường, coi
thường sức khỏe và tính mạng con người…Pháp luật và chỉ có pháp
luật mới đóng vai trò dung hòa được hai mặt đối lập đó.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, pháp luật có vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến kinh tế, đó
là:
- Pháp luật kinh tế tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho các
quan hệ kinh tế tồn tại một cách tự do, bình đẳng.
8
- Pháp luật kinh tế khắc phục các tiêu cực của chính cơ chế thị
trường, bảo đảm sự kết hợp hoài hòa giữa phát triển kinh tế và công
bằng xã hội.
- Pháp luật kinh tế góp phần phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
9
BÀI 2
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
I. KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật
điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp. Trước hết là Luật công
ty và Doanh nghiệp tư nhân (1990), điều chỉnh hai loại doanh nghiệp
mới xuất hiện sau những cải cách, đổi mới bắt đầu từ năm 1986.
Năm 1999, Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp nhằm điều
chỉnh hoạt động của các loại hình Công ty và Doanh nghiệp tư nhân
với nhiều nội dung phù hợp với yêu cầu của gia đoạn cải cách đi vào
chiều sâu. Đạo luật này đã góp phần đáng kể vào việc thực thi vai trò

nhà nước trong việc thực thi vai trò quản lý nhà nước đối với các chủ
thể kinh tế, thực hiện có hiệu quả chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Nhà nước. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp vận hành
trong điểu kiện còn tồn tại nhiều đạo luật điều chỉnh hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp khác như: Luật doanh nghiệp nhà nước,
Luật đầu tư nước ngoài…do vậy xuất hiện tình trạng xung đột trong
các quy phạm pháp luật có liên quan, gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt
động quản lý và làm hạn chế sự nhất quán trong môi trường đầu tư.
Yêu cầu thống nhất các quy phạm điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp
vào một đạo luật chung, ngõ hầu tạo ra một môi trường pháp lý đồng
nhất, ổn định cho hoạt động doanh nghiệp trở nên cần thiết, đặc biệt
là trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật doanh
nghiệp mới, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, thay thế Luật
doanh nghiệp năm 1999. Phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp
này bao gồm: các quy định về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
10
danh, nhóm công ty và doanh nghiệp tư nhân. Luật cũng điều chỉnh
việc tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài
tại Việt Nam và pháp luật chung về doanh nghiệp.
1. Khái niệm
Tại Điều 4, Khoản 1, Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa:
Doanh nghiệp là tổ chức tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Từ định nghĩa pháp lý nêu trên, có thể thấy rằng sự phân biệt
doanh nghiệp với các loại tổ chức khác trong xã hội là ở chỗ doanh
nghiệp được thành lập nhằm hoạt động kinh doanh.

2 Đặc điểm
Doanh nghiệp có một số đặc điểm như sau:
a) Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh độc lập
Tính độc lập được thể hiện ở chỗ doanh nghiệp có tên riêng, có
tài sản riêng, có trụ sở, được thuê mướn sử dụng lao động vào mục
đích kinh doanh, hạch toán kinh doanh độc lập, tự định đoạt và chịu
trách nhiệm về tài sản của doanh nghiệp.
b) Địa vị pháp lý của doanh nghiệp được xác lập bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền
Muốn thành lập doanh nghiệp,nhà đầu tư phải đăng ký kinh
doanh và chỉ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bởi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp mới đảm bảo tính
chất hợp pháp của sự tồn tại và hoạt động doanh nghiệp.
c) Mục đích hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận
Tất nhiên, mục đích này không hoàn toàn đúng trong trường hợp
các doanh nghiệp công ích, hợp tác xã. Song, về cơ bản doanh nghiệp
ra đời là nhằm hoạt động kinh doanh, tim kiếm lợi nhuận. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp với các tổ chức xã hội khác.
11
3. Các loại doanh nghiệp trong nền kinh tế ở Việt Nam
Theo Luật doanh nghiệp 2005 và các Luật điều chỉnh hoạt động
của các chủ thể kinh doanh khác, ở Việt Nam hiện nay có các loại
hình doanh nghiệp sau:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
- Công ty cổ phần
- Công ty hợp danh
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp nhà nước (Công ty nhà nước)
- Nhóm công ty (Công ty mẹ - Công ty con, Tập đoàn kinh tế)

Theo Luật hợp tác xã (2003) thì Hợp tác xã hoạt động như một
loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích
lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã. Đây cũng chính là những
yếu tố pháp lý cơ bản của một doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, còn tồn tại các chủ
thể kinh doanh như hộ kinh doanh (NĐ 88/2006), các tổ hợp tác.
Những chủ thể này tuy mang một số đặc điểm của doanh nghiệp,
nhưng cũng có một số tính chất pháp lý đặc thù, vì vậy, Nhà nước
thường ban hành các văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh hoạt động
của các chủ thể này.
12
II. QUY CHẾ THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ
DOANH NGHIỆP
1. Quy chế thành lập doanh nghiệp
a) Các điều kiện thành lập doanh nghiệp
Theo Luật doanh nghiệp 2005, việc thành lập doanh nghiệp phải
đáp ứng một số điều kiện sau:
Thứ nhất: Điều kiện về thành lập và quản lý
Mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có
quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, trừ những
trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử
dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp (hoặc góp vốn vào
doanh nghiệp khác) kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị
mình.
- Cán bộ, công chức theo qui định của pháp luật về cán bộ, công
chức.
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng thuộc Quân đội; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp thuộc Công

an nhân dân.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100%
vốn sở hữu Nhà nước, trừ trường hợp được cử làm đại diện quản lý
phần vốn góp Nhà nước trong doanh nghiệp khác.
- Người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự.
- Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án cấm hành nghề
kinh doanh.
- Người chủ doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản (sẽ bị cấm từ 01 đến 3 năm - Điều 94 Luật phá sản).
Thứ hai: Điều kiện về vốn và tài sản
Tài sản, vốn góp có thể là:
- Tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng
13
- Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu, vật liệu…
- Công nghệ, bản quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật về đất đai
- Các quyển vể tài sản khác.
Tài sản là vốn góp vào công ty phải chuyển quyền sở hữu cho
công ty. Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu thì việc góp vốn
phải thực hiện bằng việc giao nhận tài sản và phải có xác nhận bằng
biên bản. Đối với loại tài sản có đăng ký sở hữu hoặc giá trị quyền sở
dụng đất, thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài
sản đó cho doanh nghiệp hay công ty.
Tài sản góp vốn được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá
theo nguyên tắc nhất trí, nếu không thỏa thuận được thì nhờ tổ chức
giám định chuyên nghiệp để định giá.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Nếu tài sản góp vốn được
định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các
thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm đối với khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng phần chênh lệch

giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
điểm kết thúc định giá… Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động
do doanh nghiệp và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một
tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định
giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người
góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận; nếu tài sản góp vốn được định
giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn
hoặc tổ chức định giá và người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị thời điểm
kết thúc định giá (Điều 30, Khoản 2, 3, Luật Doanh nghiệp).
Thứ ba: Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Theo Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp có quyền hoạt
động đăng ký kinh doanh mà không cần phải xin phép bất cứ cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nào, nếu ngành nghề đó không thuộc những
14
ngành nghề bị cấm kinh doanh. Những ngành bị cấm kinh doanh theo
Luật Doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay (NĐ
139/2007), gồm:
- Kinh doanh vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài,
phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả
phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho
lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết
bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng.
- Kinh doanh ma túy các loại
- Kinh doanh hóa chất tại bảng 1 (theo Công ước quốc tế)
- Kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín, dị
đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách.
- Kinh doanh các loại pháo
- Kinh doanh các loại đồ chơi, trò chơi nguy hiểm, đồ chơi, đồ chơi,

trò chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới
an ninh, trật tự toàn xã hội.
- Kinh doanh các loại thực vật, động vật hoang dã, gồm cả vật sống
và các bộ phận của chúng đã được chế biến,thuộc Danh mục điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các loại thực vật,
động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác, sử dụng.
- Kinh doanh mại dâm, tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em.
- Kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức.
- Kinh doanh dịch vụ điều tra bí mật xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
- Kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài.
- Kinh doanh dịch vụ môi giới nhận cha, mẹ, con nuôi, nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.
- Kinh doanh các loại phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường.
- Kinh doanh các loại sản phẩm, hàng hóa và thiết bị cấm lưu hành,
cấm sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành-sử dụng tại Việt Nam.
- Các ngành, nghề cấm kinh doanh khác được qui định tại các Luật,
Pháp lệnh và Nghị định chuyên ngành.
15
Việc kinh doanh các ngành, nghề bị cấm như quy định trên,
trong một số trường hợp đặc biết áp dụng theo quy định của các Luật,
Pháp lệnh hoặc Nghị định chuyên ngành có liên quan.
Ngoài những ngành nghề bị cấm vừa nêu, Luật quy định một số
ngành nghề thuộc diện kinh doanh có điều kiện, phải có chứng chỉ
hành nghề, phải có vốn pháp định.
Ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện
khi kinh doanh như: an toàn trật tự, an toàn giao thông, phòng cháy
chữa cháy, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm …
Để hạn chế tình trạng các ngành, địa phương tùy tiện đặt ra các

quy định hạn chế quyền kinh doanh, Nghị định 139/CP/2006 của
Chính phủ ngày 05/09/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật doanh nghiệp quy định: Ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện và điểu kiện kinh doanh áp dụng theo các quy định của các Luật,
Pháp lệnh, Nghị định chuyên ngành hoặc Quyết định có liên quan
của Thủ tướng Chính phủ (gọi chung là Pháp luật chuyên ngành).
Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
- Giấy phép kinh doanh
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
- Chứng chỉ hành nghề
- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
- Xác nhận vốn pháp định
- Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
- Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc có mới
được quyền kinh doanh ngành nghề đó mà không xác nhận, chấp
thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề
Chứng chỉ hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy
16
quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm
nghề nghiệp về một ngành nghề nhất định.
Chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực
tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác. Đối với doanh
nghiệp kinh doanh ngành nghề phải có chứng chỉ hành nghề theo quy
định của pháp luật thì việc đăng kí kinh doanh hoặc đăng ký bổ sung
ngành, nghề kinh doanh đó phải thực hiện theo quy định dưới đây:
- Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luât yêu cầu
Giám đốc doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải

có chứng chỉ hành nghề thì Giám đốc của doanh nghiệp hoặc người
đứng đầu cơ sở kinh doanh đó phải có chứng chỉ hành nghề.
- Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu
Giám đốc và người khác phải có chứng chỉ hành nghề thì Giám đốc
của doanh nghiệp đó và ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định
của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề.
- Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà pháp luật không
yêu cầu Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có
chứng chỉ hành nghề thì ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy
định của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề.
Ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định
Chủ tịch hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty và Giám
đốc/Tổng giám đốc (đối với công ty TNHH), Chủ tịch hội đồng quản
trị và Giám đốc/Tổng giám đốc (đối với CTCP), tất cả Thành viên
hợp danh (đối với CTHD) và Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân (đối
với DNTN) phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của
số vốn được gọi là vốn pháp định khi thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có nghĩa vụ bảo đảm mức vốn điều lệ thực tế
không thấp hơn mức vốn pháp định đã được xác nhận trong cả quá
trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Người trực tiếp xác
17
nhận vốn pháp định cùng liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực của số vốn tại thời điểm xác nhận.
Thứ tư: Điều kiện về tên gọi doanh nghiệp
Tên doanh nghiệp phải viết đựơc bằng tiếng Việt, có thể kèm
theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm đựơc và có ít nhất hai thành tố
là: loại hình doanh nghiệp và tên riêng.
Tên doanh nghiệp bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch ra
tiếng Việt, được viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt trên các
bảng hiệu, giấy tờ giao dịch. Tên viết tắt của doanh nghiệp được viết

tắt từ tên tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước ngoài.
(Không được sử dụng tên cơ quan Nhà nước, đơn vị lực lượng vũ
trang, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị
xã hội- nghề nghiệp làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh
nghiệp, trừ khi có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị đó)
Doanh nghiệp không được đặt tên trùng hoặc tên tương tự gây
nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh trước đó.
Thứ năn: Điều kiện về trụ sở của doanh nghiệp
Trụ sở chính của doanh nghiệp là điạ điểm liên lạc, giao dịch
của doanh nghiệp. Trụ sở chính phải đặt trên lãnh thổ Việt Nam; có
địa chỉ được xác định rõ ràng, gồm: số nhà, tên đường, phường (xã),
quận (huyện), thành phố (tỉnh), số điện thoại, fax, email, website…
Doanh nghiệp phải thông báo vể thời gian mở cửa tại trụ sở
chính cho cơ quan đăng kí kinh doanh trong vòng 15 ngày, kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Doanh nghiệp
được quyền mở chi nhánh và văn phòng đại diện ở trong và ngoài
nước.
18
b) Trình tự, thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh
Thứ nhất: Hồ sơ đăng ký kinh doanh
Luật doanh nghiệp 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành đã quy
định cụ thể hồ sơ ĐKKD đối với từng loại hình doanh nghiệp như
sau:
* Hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với Công ty TNHH hai thành viên
trở lên, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh
- Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (theo mẫu quy định)
- Dự thảo Điều lệ công ty
- Danh sách thành viên đối với Công ty TNHH hai thành viên trở lên
và Công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập đối với Công ty cổ
phần và bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân

theo quy định; các bản sao quyết định thành lập, giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của thành viên là tổ chức
- Văn bản xác nhận vốn pháp định đối với công ty kinh doanh ngành
nghề mà theo pháp luật phải có vốn pháp định
- Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của các thành viên hợp danh
đối với Công ty hợp danh, của Giám đốc/Tổng giám đốc và cá nhân
khác quy định đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy
định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với công ty TNHH một thành viên
- Giấy đề nghị kinh doanh (theo mẫu quy định)
- Dự thảo Điều lệ công ty mà có đầy đủ chữ ký của Chủ sở hữu công
ty, Người đại theo pháp luật của công ty.
- Bản sao hợp lệ một diện trong các giấy tờ chứng thực theo quy
định…
- Danh sách người đại diện uỷ quyền
- Văn bản uỷ quyền của Chủ sở hữu cho người được ủy quyền đối
với trường hợp chủ sở hữu công ty là tổ chức.
- Văn bản xác nhận vốn pháp định đối với công ty kinh doanh ngành
nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định
19
- Bản sao chứng chỉ hành nghề của Giám đốc/Tổng giám đốc và cá
nhân khác theo quy định đối với công ty kinh doanh ngành nghề phải
có chứng chỉ hành nghề.
Lưu ý:
Đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam
phải tuân theo các quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư.
Cụ thể là:
- Trường hợp doanh nghiệp dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài hơn 49% vốn điều lệ thì phải có dự án đầu tư và thực
hiện đăng ký đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế theo quu định

của Pháp luật về đầu tư. Trong trường hợp này, doanh nghiệp được
cấp Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
- Trường hợp doanh nghiệp dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài không quá 49% vốn điều lệ thì việc thành lập doanh
nghiệp thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp về đăng ký
kinh doanh.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với Doanh nghiệp tư nhân
- Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (theo mẫu quy định)
- Bản sao hợp lệ của một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân hợp
pháp của Chủ doanh nghiệp tư nhân như: Giấy chứng minh nhân dân
còn hiệu lực hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với công dân Việt Nam
trong nước; Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài); Hộ chiếu nước ngoài; Thẻ thường trú do cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và Hộ chiếu còn hiệu lực đối
với người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam.
- Văn bản xác nhận vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh
ngành, nghề mà theo quy định phải có vốn pháp định.
- Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của Giám đốc/Tổng giám đốc
và cá nhân khác quy định đối với Doanh nghiệp tư nhân kinh doanh
các ngành nghề phải có chứng chỉ hành nghề.
20
Thứ hai: Nộp hồ sơ, tiếp nhận và cấp giấy chứng nhận ĐKKD
- Hồ sơ được nộp tại Phòng ĐKKD cấp tỉnh nơi doanh nghiệp dự
định đặt trụ sở chính. Người thành lập doanh nghiệp tự mình nộp hồ
sơ hoặc cử người đại diện hoặc có thể ủy quyền cho người khác.
Lưu ý:
Hiện nay, do nhu cầu quản lý điện tử hoạt động ĐKKD, pháp
luật quy định người thành lập doanh nghiệp có thể nộp trực tiếp hoặc
qua thư điện tử (email). Trong trường hợp đăng ký bằng thư điện tử,

khi đến nhận Giấy chứng nhận ĐKKD thì phải mang theo một bộ hồ
sơ để lưu.
- Trong vòng 10 ngày từ khi nhận hồ sơ, nếu nội dung hồ sơ đủ điều
kiện thì doanh nghiệp được nhận Giấy chứng nhận ĐKKD. Nếu hết
thời hạn trên mà không được cấp, doanh nghiệp có thể khiếu nại tại
Phòng ĐKKD nơi nhận hồ sơ.
- Sau khi được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp tiến hành
xin làm con dấu tại sở Công an; đăng ký mã số thuế tại Cục thuế.
- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
ĐKKD, doanh nghiệp phải đăng báo 03 số liên tiếp trên một tờ báo
Trung ương hay địa phương hoặc qua trang web thông tin doanh
nghiệp của cơ quan ĐKKD. Quy định này cũng áp dụng khi có thay
đổi nội dung ĐKKD.
2. Tổ chức lại doanh nghiệp
a) Chia doanh nghiệp
Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần có thể chia thành một số
công ty cùng loại. Sau khi đăng ký kinh doanh cho các công ty mới,
công ty bị chia chấm dứt tồn tại. Pháp luật xem việc chia doanh
nghiệp là quyền của các chủ thể kinh doanh và chỉ quan tâm đến việc
giải quyết nghĩa vụ tài sản, xử lý nợ và cách thức doanh nghiệp giải
quyết quyền lợi của người lao động.
Luật Doanh nghiệp quy định công ty bị chia chấm dứt tồn tại
sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh. Các công ty mới
21
phải cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị
chia.
b) Tách doanh nghiệp
Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần có thể tách bằng cách
chuyển một phần tài sản của công ty hiện có (công ty bị tách) để

thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (công ty được tách);
chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách sang công ty
được tách mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách.
Sau khi ĐKKD, công ty bị tách và công ty được tách phải cùng
nhau liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ, hợp đồng lao động
và các nghĩa vụ khác của công ty bị tách.
c) Hợp nhất doanh nghiệp
Hai hoặc một số công ty cùng loại có thể hợp nhất thành một
công ty mới (công ty hợp nhất); chuyển toàn bộ tài sản, quyền và
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
Sau khi ĐKKD, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công
ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, phải chịu
trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và
các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị hợp nhất.
d) Sáp nhập doanh nghiệp
Một hoặc một số công ty cùng loại có thể sáp nhập vào một
công ty khác (công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài
sản, quyền và nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp
nhập và chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Sau khi ĐKKD, các công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; công
ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, phải
22
chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao
động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.
e) Chuyển đổi công ty
Công ty TNHH có thể chuyển đổi thành Công ty cổ phần và
ngược lại. Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty được hưởng các
quyền và lợi ích hợp pháp, phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ
chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của

các công ty được chuyển đổi.
Thủ tục chung của các trường hợp tổ chức lại
Trước hết, công ty phải thông qua các quyết định tổ chức lại
bằng nghị quyết hợp lệ, sau đó phải gửi hồ sơ đề nghị tổ chức lại
công ty đến Phòng ĐKKD. Công ty cũng phải có nghĩa vụ thông báo
cho chủ nợ, những người có quan hệ hợp đồng và người lao động
trong công ty biết về việc tổ chức lại công ty. Việc tổ chức lại doanh
nghiệp chỉ hoàn tất khi cơ quan đăng kí kinh doanh hoàn tất thủ tục
cấp Giấy chứng nhận ĐKKD mới.
Một trong những vấn đề tổ chức thực hiện Luật doanh nghiệp
trong thực tiễn là việc giải quyết yêu cầu của các Chủ doanh nghiệp
tư nhân khi họ muốn chuyển đổi sang hình thức Công ty TNHH.
Nhiều năm qua, việc chuyển đổi chưa được quy định trong Luật
doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn. Nghị định 139/2007 của
Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật doanh nghiệp, đã quy
định về việc chuyển đổi và những điều kiện chuyển đổi từ doanh
nghiệp tư nhân thành công ty TNHH.
Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành Công ty TNHH
theo quyết định của Chủ doanh nghiệp tư nhân nếu có các điều kiện
sau đây:
- Có đủ các điểu kiện quy định để được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD
theo Luật doanh nghiệp.
23
- Chủ doanh nghiệp tư nhân phải là Chủ sở hữu của công ty (đối với
trường hợp chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên là cá
nhân), hoặc Thành viên (đối với trường hợp chuyển đổi thành Công
ty TNHH hai thành viên trở lên).
- Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm
cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ
chưa thanh toán của Doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ

số nợ khi đến hạn.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên
của hợp đồng chưa thanh lý về Công ty TNHH được chuyển đổi thực
hiện và tiếp nhận các loại hợp đồng đó.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc thỏa thuận
bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và
sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân
Hồ sơ chuyển đổi bao gồm:
- Điều lệ công ty
- Giấy đề nghị chuyển đổi và đăng ký kinh doanh
- Danh sách chủ nợ và số nợ chưa thanh toán, gồm cả nợ thuế, thời
hạn thanh toán; danh sách người lao động hiện có; danh sách các hợp
đồng chưa thanh lý và các tài liệu tương ứng.
- Giấy chứng nhận ĐKKD của doanh nghiệp tư nhân
- Danh sách thành viên trong trường hợp chuyển đổi thành công ty
TNHH hai thành viên trở lên.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận hồ sơ, cơ quan
ĐKKD xem xét và cấp Giấy chứng nhận ĐKKD đối với công ty
TNHH, nếu có đủ các điều kiện quy định. Trường hợp từ chối, phải
trả lời bẳng văn bản nêu rõ lý do và hướng dẫn những yêu cầu cần
sửa đổi, bổ sung.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng
nhận ĐKKD, cơ quan ĐKKD hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư
có thẩm quyền phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên
24
quan; đồng thời xóa tên Doanh nghiệp tư nhân đã chuyển đổi trong
sổ ĐKKD.
3. Giải thể doanh nghiệp
Trong một số trường hợp, sau một thời gian hoạt động, vì những
lý do khác nhau, doanh nghiệp có thể giải thể. Việc giải thể doanh

nghiệp thường kéo theo việc giải quyết nợ nần, thanh lý hợp đồng,
giải quyết quyền lợi cho người lao động…Vì vậy Luật doanh nghiệp
quy định khá chi tiết về giải thể doanh nghiệp.
a) Các trường hợp
- Kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ mà doanh nghiệp
không xin gia hạn
- Theo quyết định của Chủ doanh nghiệp tư nhân, của tất cả Thành
viên hợp danh (Công ty hợp danh), của Hội đồng thành viên, Chủ sở
hữu (Công ty TNHH), của Đại hội đồng cổ đông (Công ty cổ phần).
- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo luật định
trong thời hạn 06 tháng liên tục.
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận ĐKKD.
b) Điều kiện giải thể
Luật Doanh nghiệp quy định điều kiện giải thể là: Doanh nghiệp
chỉ được giải thể khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác. Điều này giúp phân biệt giữa giải thể và phá sản;
đồng thời làm cơ sở xác định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
những chủ nợ, những người có quan hệ hợp đồng.
c) Thủ tục giải thể doanh nghiệp
Việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện theo những quy định
sau:
- Trước hết, doanh nghiệp thông qua quyết định giải thể, Quyết định
giải thể phải nêu lý do giải thể, thời hạn, cách thức tiến hành thanh lý
tào sản, phương án xử lý các nghĩa vụ tài sản…
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×