Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

HIỂU BIẾT HIỆN NAY VỀ BỆNH UNG THƯ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.07 KB, 8 trang )

Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

HIỂU BIẾT HIỆN NAY VỀ BỆNH UNG THƯ
Nguyễn Chấn Hùng*
MỞ ĐẦU
Muốn phòng chống ung thư hiệu quả, mọi người
cần hiểu rõ căn bệnh này. Vài thập niên vừa qua,
thành quả nghiên cứu ở nhiều lónh vực đã đem lại sự
hiểu biết rất sâu rộng về ung thư. Các phương thức xử
trí hợp lý hơn, đa diện hơn và hiệu quả hơn. Tài liệu
này cố gắng cập nhật được các thành tựu nóng hổi,
làm tăng niềm tin vào cuộc chiến đấu chống căn
bệnh này. Bài báo cáo này chỉ xin đề cập đến vài
thành tựu nổi bật:
- Dòch tễ học ung thư hay là tình hình mắc bệnh
ung thư trên toàn thế giới và ở nước ta.
- Cơ chế sinh bệnh ung thư: gen và ung thư.
- Các phương pháp điều trò ung thư: các liệu pháp
mới được bổ sung vào kho vũ khí chống ung thư.
DỊCH TỄ HỌC UNG THƯ
Con người thường bò các loại ung thư
gì? Hay là tình hình bệnh ung thư trên
toàn thế giới
Cơ quan quốc tế nghiên cứu ung thư (IARC) đã
cho một cái nhìn toàn diện về tình hình bệnh ung
thư trên thế giới phỏng đònh có khoảng 8,1 triệu
người mới bò ung thư vào năm 1990. Vào năm 1985
con số này là 7,6 triệu. Các loại ung thư thường gặp
tính chung hai giới nam nữ là : phổi 13%; dạ dày
10%; vú 10%; đại trực tràng (ruột già) 10%; gan 5,4%;
tuyến tiền liệt 5%; cổ tử cung 4,6% và thực quản 4%.


Các ung thư đại trực tràng và tuyến tiền liệt thường
gặp ở các nước phát triển, còn ở các nước đang phát
triển thì chủ yếu là bò các ung thư cổ tử cung, hốc
miệng họng, gan và thực quản.
Các loại ung thư thường gặp trên toàn
cầu (%)
Theo D.Maxwell Parkin, the Lancet
Oncology, 2001, 533-543

Ung thư phổi:
Chiếm tỉ lệ cao nhất trên toàn cầu: Ung thư này
còn được gọi là ung thư phế quản (cuống phổi) luôn
chiếm tỷ lệ cao nhất ở các nước phát triển và đang
phát triển.
Nữ Số ca
mới

suất
Nam Số ca
mới
Tử
suất

Cổ tử cung
Đại – Trực tràng
Phổi
Bao tử
Gan
Buồng trứng
Thực quản

Lymphôm không
Hodgkin
Tụy tạng
Bệnh bạch cầu
Hốc miệng
Bọng đái
Các cơ quan khác
22
10
9
7
7
4
4
3
3

2
2
2
2
21
14
9
9
11
9
6
4
4

3

4
3
2
1
20
Phổi
Bao tử
Tuyến tiền liệt
Đại –Trực tràng
Gan
Thực quản
Bọng đái
Bệnh bạch cầu
Lymphôm không
Hodgkin
Hốc miệng
Tụy tạng
Thận
Các cơ quan khác
17
11
10
9
8
5
5
3
3


3
2
2
22
23
12
6
7
11
6
3
3
3

2
3
2
19
Ung thư dạ dày (bao tử)
Có khoảng 780.000 ca mới hàng năm trên
hành tinh chúng ta. Vi khuẩn Helicobacter Pylori
nhân gấp đôi nguy cơ ung thư bao tử, khoảng 30%
số ca xuất hiện ở các nước phát triển và 47% ở các
nước đang phát triển được coi là liên hệ với bệnh
nhiễm trùng này.
Ung thư vú
Được phỏng đònh là có khoảng 796.000 ca mới
vào năm 1990 và có cơ nguy là sẽ lên tới con số 1,2
triệu hàng năm trong vòng hai mươi năm.

Ung thư đại trực tràng
Chiếm 10% tổng số các loại ung thư, thường
gặp ở các nước công nghiệp hơn là các nước đang
phát triển.
Ung thư gan
Ước tính là có 437.000 ca mới, nên 50% được coi
là liên quan đến viêm gan siêu vi B và 25% dính líu
đến viêm gan siêu vi C.
Ung thư tuyến tiền liệt
(396.000 ca mới hàng năm) sẽ tăng lên gấp đôi
trong vòng 20 năm tới do sự gia tăng số người cao
Ung Thư
115
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Tổng Quan

tuổi; sự gia tăng tử suất có liên hệ mật thiết với số
tuổi. Ở Hoa Kỳ loại ung thư này chiếm tỉ lệ cao nhất
ở đàn ông.
Ung thư cổ tử cung
(371.000 ca mới hàng năm trên toàn cầu) có liên
hệ mật thiết với virút HPV (Human Papillomavirus).
Người ta cho là nguy cơ do HPV khoảng 82% ở các
nước đang phát triển. Phỏng đònh là loại ung thư này
sẽ gia tăng 32% trong vòng hai mươi năm.
Nhìn chung, số người bệnh ung thư tăng đều
hàng năm: 6 triệu người năm 1975; 7,6 triệu vào
1985 và 8,1 triệu vào năm 1990 (phỏng đònh sẽ có 13
triệu ca mới vào năm 2010). Có thể giải thích bằng sự
gia tăng dân số và sự lão hoá. Mặt khác, nếu vào năm
1990, sự phân phối tỉ lệ ung thư giữa các nước giàu và

các nước nghèo là 50%, thì tỉ lệ nầy sẽ là 40% cho
nhóm trên là 60% cho nhóm dưới vào 2010.
Những loại ung thư thường gặp ở nước ta
Từ năm 1995, chúng ta đã có được số liệu ghi
nhận ung thư quần thể tại Hà Nội và TP.Hồ Chí
Minh. Kết quả của việc ghi nhận này cho biết được có
bao nhiêu người mới được chẩn đoán ung thư trên
100.000 dân hàng năm hay là xuất độ (XĐ) ung thư
- Hai bản sau đây cho thấy mười loại ung thư thường
gặp ở Hà Nội và TP.HCM:
Møi Vò Trí Ung Thư Thường Gặp Tại Hà Nội Và TPHCM, 1998
TP. HỒ CHÍ MINH HÀ NỘI
Nam Nữ Nam Nữ
Số TT
Vò trí XĐ Vò trí XĐ Vò trí XĐ Vò trí XĐ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Gan
Phổi
Dạ dày
Đại trực tràng
Tuyến tiền liệt

Hốc miệng
Vòmhầu
Thực quản
Lymphôm KH
Bệnh bạch cầu
26.6
25.6
17.0
14.8
4.8
4.6
4.5
4.3
3.9
3.6
Cổ tử cung

Đại trực tràng
Phổi
Dạ dày
Gan
Buồng trứng
Tuyến giáp
Thân tử cung
Bệnh bạch cầu
28.6
16.0
10.0
8.7
8.2

5.6
5.2
3.8
3.1
3.0
Phổi
Dạ dày
Gan
Đại trực tràng
Vòm hầu
Thực quản
Da
Thanh quản
Tuyến tiền liệt
Khoang miệng
34.0
26.7
17.0
9.5
6.5
4.1
2.1
2.0
1.5
0.8

Dạ dày
Phổi
Đại trực tràng
Cổ tử cung

Buồng trứng
Gan
Thân tử cung
Tuyến giáp
Khoang miệng
20.3
13.0
8.6
6.4
4.6
4.3
4.0
3.4
2.0
0.3

Có sự tương tự ở nam giới ở phía Bắc và phía Nam:
Các ung thư thường gặp nhất là ở phổi, gan, bao tử và
ruột già. Ung thư phổi liên hệ rõ ràng với thói quen hút
thuốc lá; viêm gan siêu vi giải thích tỉ lệ cao của ung
thư gan; ung thư bao tử vẫn còn hoành hành ở các
nước đang phát triển, nơi người dân vẫn còn thói quen
ăn các thức dự trữ lâu như khô cá muối, thức ăn hun
khói, các thức dưa muối. Ung thư ruột già, các thầy
thuốc chuyên khoa gọi là ung thư đại - trực tràng, có lẽ
cũng bắt đầu gia tăng theo chế độ dinh dưỡng ở xã hội
công nghiệp hóa: ngày càng nhiều thức ăn nhanh (fast
foods) và ăn ít rau quả.
Có sự khác biệt rất có ý nghóa ở phụ nữ ở hai
thành phố: Ở Hà Nội, ung thư vú là loại thường gặp

nhất. Hàng năm có xuất độ là 20.3, nghóa là có thêm
21 người bệnh mới trên 100.000 phụ nữ. Ở Thành
phố Hồ Chí Minh, loại ung thư này có xuất độ thấp
hơn nhiều 16.0, đứng hàng thứ hai. Ung thư cổ tử
cung là loại thường gặp nhất ở TP.HCM, với xuất độ
rất cao, vượt trội tất cả các loại ung thư ở nữ giới và
nam giới khác. Loại ung thư này hiện nay rất ít ở phụ
nữ miền Bắc. Chúng tôi đang cố gắng lý giải sự khác
biệt quan trọng và thú vò này bằng các công trình
nghiên cứu sắp tới.
Các loại ung thư thường gặp ở nam giới là các
loại khó trò, hầu hết được phát hiện trễ và cho tỉ lệ tử
vong cao: ung thư phổi, gan, bao tử. Nhưng các loại
này thì lại có thể phòng ngừa được: phòng chống tác
hại thuốc lá, loại bỏ viêm gan siêu vi gồm việc điều trò
và chủng ngừa. Đối với ung thư bao tử thì chế độ
dinh dưỡng có nhiều rau quả và thức ăn tươi được coi
là phòng ngừa. Điều này cũng đúng với ung thư đại –
trực tràng.
Đối với phụ nữ, ung thư cổ tử cung và ung thư vú
Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngành
116
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

đều có thể phát hiện sớm và có thể trò tốt. Hiện nay
chúng ta có đủ phương tiện để chẩn đoán sớm và
điều trò rất hiệu quả. Ung thư cổ tử cung có thể phòng
ngừa được.
GEN VÀ UNG THƯ

Vài mươi năm trở lại đây, các nhà khoa học đã
tiến rất xa trong việc khám phá và ứng phó với căn
bệnh ung thư.
Bác só Bert Vogelstein, nhà nghiên cứu về gen
ung thư nổi tiếng, làm việc tại Đại học John Hopkin ở
Baltimore (Hoa Kỳ) đã tuyên bố: “Tế bào ung thư là
cái hộp đen, nay cái hộp này được mở ra; với tư cách
là các nhà nghiên cứu, chúng tôi cảm thấy tràn đầy
hy vọng”.
Các tiến bộ mới đây của di truyền học và sinh
học phân tử đã cải tiến sự hiểu biết của chúng ta về
các sinh hoạt bên trong của tế bào, các cấu trúc cơ
bản của cơ thể. Hơn bao giờ hết điều này đưa chúng
ta đến gần sự khám phá chính xác tại sao và cách nào
các ung thư có thể phát triển. Ung thư có khuynh
hướng liên hệ đến đa đột biến: Các ung thư thì phát
sinh do sự tích lũy các đột biến liên hệ đến các
oncogen, các gen đè nén bướu và các gen sửa chữa tế
bào. Nói cách khác muốn tạo ra tế bào ung thư cần
phải có sự thả lỏng cái thắng của sự tăng trưởng tế
bào (các gen đè nén bướu) đồng thời với việc đạp líp
ga (các oncogen).
Các oncogen là gì ?
Các oncogen (gen ung bướu – oncogenes) là
các dạng đột biến của gen, chúng khiến các tế
bào bình thường tăng trưởng quá đà (thoát khỏi
sự kiểm soát). Chúng là các đột biến từ vài gen
bình thường của tế bào gọi là prôtôoncogen hay là
tiền oncogen, tiếng Anh là protooncogenes. Các
prôtôoncogen là các gen mà bình thường thì có

vai trò kiểm soát sự sinh sản của tế bào và sự
chuyên biệt hóa của tế bào (các nhà chuyên môn
gọi là sự biệt hóa của tế bào). Khi một
prôtôoncogen bò đột biến (thay đổi) thành
oncogen, nó trở thành hoạt hóa thường xuyên mà
lẽ ra thì không được phép làm như vậy. Một khi
điều này xảy ra thì tế bào sinh sản quá nhanh, từ
đó dẫn đến ung thư, giống như cái đạp ga xe,
dính chặt không nhả ra được.
Người ta đã biết nhiều oncogen. Sau đây là các
oncogen được hiểu rõ nhất :
HER 2/NEU : Tên khác là ERB_B2, gặp ở vài loại ung thư vú
RAS : Gặp ở vài loại ung thư đại tràng, phổi…
MYC : Thấy ở vài loại ung thư phổi, lymphom
BCR – ABL : Cần cho sự phát triển của bệnh bạch cầu tủy
mạn
Nhờ các nhà khoa học biết thêm về các oncogen,
họ có thể làm ra các loại thuốc để ức chế hoặc ngăn
Ung Thư
117
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Tổng Quan

chận chúng. Có vài loại nhằm vào các oncogen đang
được triển khai như là các thuốc chống ung thư.
Các gen đè nén ung thư là gì ?
Các gen đè nén (hay kềm chế – tumor
suppressor genes) ung thư là các gen bình thường có
nhiệm vụ làm chậm sự phân bào, sửa chữa các lỗi
lầm của DNA và truyền lệnh cho tế bào khi nào thì
chết (một quá trình được biết như là cái chết được

chương trình hóa của tế bào). Một khi các gen đè nén
ung thư không hoạt động đàng hoàng, các tế bào có
thể tăng trưởng không kiểm soát được, từ đó đưa đến
ung thư. Có khoảng 30 gen kềm chế ung thư đã được
biết rõ, kể cả p53, BRCA1, BRCA2, APC và RB.
Có thể dùng oncogen và gen đè nén
ung thư để phòng bệnh không ?
Một thế hệ thuốc đặc trò được điều chế nhắm tới
các gen bất thường đã tạo ra các tế bào ung thư ngay
từ lúc còn “trứng nước”. Bác só Denns Slamon, Đại học
UCLA (bang California-Hoa Kỳ) rất phấn khởi: “Bây giờ
chúng tôi bắt đầu nhìn rõ cái gì rạn vỡ, cái gì hư hỏng
trong tế bào ung thư và cố gắng nhắm vào đó”.
Vì mỗi gen cầm chòch cho một protein, nên các
gen hư hỏng sẽ cho các protein hư hỏng; như vậy có
khi một protein được chế tạo quá yêu cầu, có khi một
protein nào khác quá ít hoặc một protein lầm lạc
không làm đúng chức năng. Thế hệ thuốc mới nhắm
vào các protein bệnh hoạn này để trói tay chúng lại,
để bẽ gãy chúng bằng rất nhiều cách. Các thuốc điều
trò ung thư thế hệ mới khác với phương pháp hóa trò
đang dùng, đó là các loại “chặn đứng ung thư” chứ
“không giết bỏ ung thư”.
Vài sự thay đổi của gen (các đột biến) có thể di
truyền và làm tăng nguy cơ bò ung thư ở người nào
đó. Vậy thì có thể dùng các sự đột biến của các loại
gen này để tiên liệu cho một số người có thể có nguy
cơ cao bò vài loại ung thư nào đó.
Các oncogen và các gen đè nén ung
thư nào có thể được dùng để hướng

dẫn điều trò ung thư ?
Các xét nghiệm phát hiện oncogen hoặc các đột
biến của các gen đè nén ung thư có thể giúp các bác
só xác đònh được người bệnh bò loại ung thư nào. Một
sự thay đổi đặc hiệu của gen có thể giúp tiên liệu
bệnh nhân nào có thể có dự hậu tốt hoặc xấu và bệnh
nhân nào nên được chọn loại trò liệu nào thì tốt hơn.
Một số xét nghiệm về các đột biến thì rất nhạy để tìm
xem ung thư có còn sót hay tái lại sau khi điều trò.
Các oncogen và các gen đè nén ung thư
có thể được dùng điều trò ung thư ?
Việc khám phá và hiểu rõ được các loại gen này
đã hướng tới việc phát triển các liệu pháp mới cho
ung thư. Nhiều nhà nghiên cứu rất lạc quan về tương
lai của các liệu pháp dùng oncogen và các gen đè nén
ung thư. Hiện có rất nhiều thử nghiệm lâm sàng
đang tiến hành và hi vọng sẽ có nhiều liệu pháp tốt
hơn nữa.
CÁC LIỆU PHÁP CHỐNG UNG THƯ THẾ
HỆ MỚI
Hiện nay, phẫu trò, xạ trò và hóa trò là ba liệu pháp
chuẩn trong điều trò bệnh ung thư. Phẫu trò ung thư
được Halsted hệ thống vào cuối thế kỷ 19; xạ trò bắt
đầu với Henri Becquerel, Marie Curie vào đầu thế kỷ
20 và hóa trò chỉ mới manh nha sau Thế chiến II. Ba
liệu pháp này mỗi lúc được phát huy mạnh mẽ và đã
chứng tỏ là càng lúc càng có hiệu quả tốt cho người
bệnh. Nguyên lý kết hợp nhuần nhuyễn phẫu – xạ –
hóa trò hay là liệu pháp đa mô thức được vận dụng
cho kết quả tối ưu.




Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngành
118
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

Mới đây, kho vũ khí chống ung thư lại được tăng
cường những liệu pháp mới, đã ra khỏi các labô, và
một số đang được thử nghiệm lâm sàng, rất hứa hẹn
trong tương lai gần và một số đã thực sự được dùng
điều trò có chỉ đònh rõ ràng với hiệu quả phấn khởi.
Chúng ta thử điểm qua hiện tình của một số liệu
pháp mới.
Các liệu pháp sinh học
Một phương pháp điều trò đầy hứa hẹn được thêm
vào kho vũ khí chống bệnh ung thư là liệu pháp sinh
học hay là liệu pháp miễn dòch. Liệu pháp này dùng khả
năng miễn dòch của cơ thể để chống lại bệnh ung thư.
Ngày nay liệu pháp miễn dòch cũng được xem
như là “mô thức thứ tư” hay là vũ khí thứ tư chống
bệnh ung thư. Ba mô thức kia là phẫu trò, xạ trò và
hóa trò. Liệu pháp miễn dòch có khi được dùng riêng
lẻ, nhưng thường thì được sử dụng như một liệu
pháp hỗ trợ (nghóa là dùng cặp với hoặc dùng tiếp sau
liệu pháp khác), để giúp thêm tác dụng chống ung
thư của liệu pháp chính. vài năm trở lại đây, đã có
tiến bộ đáng kể trong lónh vực này và nhiều nhà
nghiên cứu lấy làm lạc quan là các liệu pháp miễn

dòch hiệu quả hơn đang được triển khai.
Các vacxin kháng ung thư (các liệu pháp
miễn dòch chủ động đặc hiệu)
Hiện nay, các vacxin này đangđược thử nghiệm
lâm sàng với các bệnh nhân bò mêlanôm ác (ung thư
da loại hắc tố) ung thư tế bào thận, ung thư đại và
trực tràng, ung thư tuyến tiền liệt và các lymphôm
(ung thư hạch).
Các liệu pháp kháng thể đơn dòng hay là
liệu pháp miễn dòch thụ động
Trong loại liệu pháp miễn dòch thụ động này, các
kháng thể được sản xuất với số lượng lớn ở bên ngoài
cơ thể. Liệu pháp kháng thể đơn dòng (KTĐD) là liệu
pháp miễn dòch thụ động vì các kháng thể được sản
xuất tại các la-bô chớ không phải do hệ thống miễn
dòch của người bệnh và cũng vì chúng có thể vẫn có
hiệu quả ngay cả khi hệ thống miễn dòch của bệnh
nhân quá yếu. Các kiểu điều trò nầy không đòi hỏi hệ
thống miễn dòch của người bệnh có vai trò chủ động
chống lại ung thư.
Các KTĐD trơn
Cơ quan thức ăn và thuốc (FDA) của Hoa Kỳ đã
chấp thuận cho dùng các thuốc Rituxan (rituximab)
và Herceptin (trastuzumab). Rituxan được dùng điều
trò lymphô không Hodgkin tế bào B (một loại ung thư
lymphô). Herceptin được dùng cho ung thư vú giai
đoạn nặng. Đã có những kết quả phấn khởi. Liệu
pháp miễn dòch loại nầy đã giúp được một số người
bệnh khi các cách điều trò chuẩn hết hiệu quả. So với
các phương pháp hóa trò qui ước thì kháng thể đơn

dòng ít gây tác dụng phụ hơn.
Các KTĐD có gắn thuốc hoặc chất phóng xạ
Các kháng thể đơn dòng loại này được dùng như
các phương tiện chuyên chở mang các loại thuốc
chống ung thư hoặc chất phóng xạ đi thẳng đến tế
bào ung thư để giết nó.
Liệu pháp miễn dòch dùng điều trò một số loại ung
thư
Tại Hoa Kỳ một số liệu pháp miễn dòch được cho
phép chính thức dùng cho một số loại ung thư. Các
liệu pháp miễn dòch đó gồm BGG, các cytokin. IFN
alpha và Interleukin-2, các KTĐD rituximab (Rituxan)
dùng cho lymphôm không Hodgkin và trastuzumab
(Herceptin) dùng cho các ung thư vú tiến xa/ di căn.
Các liệu pháp miễn dòch khác cũng cho thấy hiệu quả
hứa hẹn và đang được đánh giá qua thử nghiệm lâm
sàng ở pha I, pha II và pha III.
Các liệu pháp nhắm trúng đích
Các liệu pháp nhắm trúng đích (LPNTĐ) là gì?
Các liệu pháp này dùng các loại thuốc để khóa sự
tăng trưởng và lan tràn của ung thư. Chúng can thiệp
vào các phân tử đặc hiệu trong cơ chế sinh ung và sự
tăng trưởng của khối bướu. Vì các nhà nghiên cứu gọi
các phân tử này là “ các đích phân tử”; nên các liệu
pháp này được gọi là các liệu pháp nhắm trúng phân
tử hay là các liệu pháp nhắm trúng đích. Đa số các
liệu pháp này còn ở giai đoạn thử nghiệm tiền lâm
sàng; nhưng vài loại cũng đã ở giai đoạn thử nghiệm
lâm sàng và một số thì đã được phê chuẩn (đặc biệt
do FDA) để tung ra thò trường. Các LPNTĐ được

nghiên cứu để dùng riêng lẽ hoặc kết hợp với nhau,
Ung Thư
119
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Tổng Quan

hoặc kết hợp với các liệu pháp khác như là hóa trò.
Vài loại LPNTĐ:

Các loại thuốc phân tử nhỏ còn được gọi là các
chất ức chế sự dẫn truyền tín hiệu. Glivec hay
Gleevec (STI – S71, hay là imatinib mesylate) là một
loại thuốc phân tử nhỏ được FDA phê chuẩn (năm
2002) để điều trò bướu mô đệm bao tử – ruột (một
loại ung thư hiếm gặp của đường tiêu hóa bao tử –
ruột) và vài loại bệnh bạch cầu tủy mạn. Glivec nhắm
vào các protein bất thường hay là các enzym; chúng
được sản sinh bên trong các tế bào ung thư và kích
thích sự tăng trưởng vô tổ chức – Iressa ( ZD1839)
hay là gefinitib được FDA công nhận trong điều trò
ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến xa.
Thuốc này nhằm khống chế EGFR (epidermal growth
factor receptor – thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì),
thụ thể này bò sản xuất quá lố do nhiều loại tế bào
ung thư. Còn nhiều loại thuốc phân tử nhỏ đang được
thử nghiệm lâm sàng tại Hoa Kỳ. Erbitux
(Cetuximab) là một kháng thể đơn dòng nhắm vào
đích là EGFR. Erbitux cho thấy có vai trò hứa hẹn
trong điều trò ung thư đại trực tràng trong di căn.
Các thuốc gây chết tế bào bằng cách can thiệp
vào các protein dính líu tới quá trình này (còn gọi là

sự tự vẫn tế bào) – Thuốc Velcade (boctezomib) được
FDA công nhận để trò đa u tủy khi người bệnh không
chòu các loại điều trò khác. Velcade làm cho các tế bào
ung thư chết đi bằng cách khóa các enzym gọi là
proteosom; enzym này giúp điều hòa chức năng và sự
tăng trưởng tế bào.
Liệu pháp nhắm trúng đích
Các thuốc đã có trên thò trường được FDA (Mỹ) cho sử dụng
Herceptin
(Roche)
Trastuzumab -25/7/1998 (FDA)
CĐĐT: Ung thư vú di căn có biểu
hiện quá lố HER2 - Đang thử nghiệm
lâm sàng các chỉ đònh khác
KTĐD kháng HER2
Bexxa
(Corixa Corps)
Tositumomab -27/6/2003 (FDA)
CĐĐT: Lymphôm không Hodgkin,
CD20+, kháng thuốc Rituxan
- KTĐD kháng CD20
Gleevec,
glivec
(Norvatis)
Imatinib mesylate -20/12/2002 (FDA)
CĐĐT:BBC tuỷ mạn Ph+ Sarcôm mô
đệm đường bao tử – ruột
-Tấn công vào Tyrosin kinaz bcr-abl,
phân tử nhỏ
Erbitux

(Merck)
Cetuximab -12/2/2004 (FDA)
CĐĐT: Carcinôm đại tràng di căn, đã
thất bại với hóa trò
- Kết hợp với Irinotecan
KTĐD kháng EGFR
Iressa
(Astra
Zeneca)
Gefitinib -5/5/2003 (FDA)
CĐĐT: Ung thư phổi không tế bào
nhỏ, đã thất bại với phác đồ có
platinum hoặc docetaxel
KTĐD kháng EGFR
Avastin
(Roche)
Bevacizumab -26/2/2004 (FDA)
CĐĐT: Carcinôm đại trực tràng di căn,
thất bại với phác đồ IFL
- Thuốc kháng sinh mạch đầu tiên:
KTĐD kháng VEGF
Velcade
(Millenium
Pharma)
Bortezomib -13/5/2003 (FDA)
CĐĐT: Đa u tuỷ, đã điều trò 2 đợt hóa
trò không hiệu quả
- Ức chế proteasôm 26S → Gia tăng
sự chết tế bào
Tarceva

(OSI Pharma)
Erlotinib -18/11/2004
CĐĐT: Carcinôm không tế bào nhỏ tiến
xa hoặc di căn, sau thất bại ít nhất 1 đợt
hóa trò.
- KTĐD kháng EGFR – Ức chế tyrosin
kinaz kết hợp HER1/EGFR

Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngành
120
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005



Các thuốc mới tấn công các đường dẫn
truyền rối loạn
Liệu pháp kháng sinh mạch
Sự sinh mạch đó là quá trình của các mạch máu
mới được hình thành. Ở các mô bình thường, sự sinh
mạch là một quá trình bình thường. Chẳng hạn như
các mạch máu mới thành lập để làm lành các vết
thương. Đối với ung thư thì sự sinh mạch là nói đến
sự tạo ra các mạch máu mới để cung cấp cho khối
bướu các chất dinh dưỡng mà nó cần. Nếu không có
máu nuôi riêng nó, một khối bướu không thể lớn hơn
2 milimet, lớn cỡ đầu ngọn bút chì.
Liệu pháp kháng sinh mạch dùng những thứ
thuốc hoặc các tác nhân khác để cản trở sự phát triển
các mạch máu mới nuôi dưỡng khối ung thư. Cũng

giống như bất cứ tế bào nào trong cơ thể, các tế bào
ung thư cần oxy và các chất dinh dưỡng để sống còn.
Các chất ức chế sinh mạch bỏ đói khối bướu bằng
cách cắt đường tiếp vận (các mạch máu), làm giảm
lượng oxy và các chất dinh dưỡng. Hậu quả của việc
bỏ đói là khối bướu sẽ tan dần đến kích thước thật
nhỏ và ngủ yên.
Các thuốc kháng sinh mạch đang là lãnh vực đầy
hấp dẫn đối với các người bệnh, các nhà nghiên cứu
và đông đảo quần chúng. Mới đây thuốc kháng sinh
mạch đầu tiên được FDA công nhận vào năm 2004 là
Avastin (Bevacizumab).
Các loại thuốc ức chế sinh mạch

Các liệu pháp gen dùng điều trò ung thư
Người ta đã bắt đầu làm cuộc thay đổi di truyền
(thay các gen bên trong tế bào), các tế bào vốn có
tính chất tự nhiên là nhắm đích vào các tế bào ung
thư. Sau đó đưa trả các tế bào này vào trong cơ thể,
tại đây chúng có thể hoạt động chống lại ung thư.
Các thử nghiệm lâm sàng hiện đang dùng phương
pháp nầy để điều trò mêlanôm ác.
Các tế bào ung thư có thể được lấy ra khỏi cơ thể
rồi được biến đổi di truyền nhằm gây một đáp ứng
miễn dòch mạnh. Khi đưa trả các tế bào nầy vào cơ
thể, người ta mong là chúng sẽ tác động như một
vacxin. Một số thử nghiệm trên người đang theo cách
này.
Ung Thư
121

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Tổng Quan

Các khối bướu ác tính có thể được chích với các
gen nhằm làm các tế bào ung thư dễ bò hủy hoại với
một loại thuốc đặc trò. Nếu thành công thì việc trò liệu
với thuốc nầy có thể chỉ giết các tế bào mang gen lạ.
Nhờ các tế bào khác không bò thuốc tác động nên liệu
pháp nầy hứa hẹn ít gây phản ứng phụ. Cách nầy
đang dùng thử để điều trò các ung thư não.
Các nhà nghiên cứu đã biết là các đột biến gen
hoặc nhiễm virút tạo nên các thông tin sai lạc trong
các mã chỉ đạo của các protein của gen đưa đến việc
sản xuất các protein lệch lạc, chính các protein lệch
lạc nầy tới phiên chúng lại gây ra ung thư. Một loại
liệu pháp gen nhằm chặn đứng các gen trong các tế
bào ung thư sản xuất các protein gây ung thư. Liệu
pháp nầy chặn đứng các tế bào ung thư sinh sôi bằng
cách đưa các nhánh RNA đã được thao tác sao cho kết
hợp và gắn dính vào chuỗi DNA đang sinh sôi của các
tế bào ung thư.
Các liệu pháp khác
Tia lade
Phẫu thuật với tia lade: chỉ công dụng ở vài giai
đoạn ung thư thanh quản, cổ tử cung, da, phổi, âm
đạo, dương vật…Nhiệt trò dùng tia lade: là ứng dụng
mới nhất đang nghiên cứu để điều trò ung thư vú,
thực quản, da, ruột già, phổi, não, cổ tử cung… Có thể
hy vọng vào tương lai của liệu pháp tia lade.
Nhiệt trò:
Các loại: tại chỗ, tại vùng và toàn thân (dùng cho

di căn) - Đang thử nghiệm lâm sàng-Còn phải
nghiên cứu nhiều mới thành liệu pháp chữa trò.
Liệu pháp quang động học (photodynamic therapy
–PDT):
FDA công nhận từ năm 1995, dùng chất
photofrin trong quang động học để điều trò tạm bợ
ung thư thực quản nghẹt hoàn toàn hoặc một phần
mà tia lade ND.YAG không hiệu quả.
Vai trò của các liệu pháp mới
Các liệu pháp mới làm phong phú thêm nguyên
lý trò liệu đa mô thức
Các liệu pháp nhắm trúng đích
Ngăn chặn ung thư mà không giết bỏ ung thư
Hứa hẹn đưa tế bào ung thư trở lại bình thường
Xử lý ung thư một cách rốt ráo và dòu dàng
KẾT LUẬN
Thành quả của dòch tễ học mở ra những viễn
tượng mới: biết được các ung thư thường gặp để xây
dựng chiến lược phòng chống thích hợp; biết rõ các
nguyên nhân để phòng ngừa có hiệu quả.
Chỉ mới vài thập niên trở lại đây, sự hiểu biết về
ung thư đã có những đột phá ngoạn mục, nhờ các
thành tựu tuyệt vời trong lãnh vực nghiên cứu sinh
học ung thư. Điều đáng vui mừng là các kết quả thu
hoạch được từ các phòng thí nghiệm lại được chuyển
nhanh sang lónh vực ứng dụng lâm sàng.
Hy vọng chống lại ung thư một cách đúng mức
và có hiệu quả ngày càng vững chắc.




Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngành
122

×