Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

báo cáo khoa học 'tình hình nuôi cá mú ở việt nam hiện trạng và các trở ngại về mặt kỹ thuật'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.63 KB, 5 trang )

Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Số đặc biệt/2004, Trường ĐH Thủy sản, Trang 174-179
1
Tình hình nuôi cá mú ở Việt Nam:
hiện trạng và các trở ngại về mặt kỹ thuật

Thạc sỹ Lê Anh Tuấn
Khoa Nuôi Trồng Thủy sản
Trường Đại học Thủy Sản



Tóm tắt

Ở Việt Nam, nuôi cá mặn lợ như cá đối, cá măng biển, cá chẽm trong ao đã phát triển từ những năm
của thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Nuôi cá mú, chỉ chính thức phát triển vào năm 1988 ở Nha Trang và
sau đó, phát triển mạnh vào đầu những năm 1990 vớI sự xuất hiện thị trường cá mú sống. Các loài cá
mú Epinephelus malabaricus, E. coioides, E. fuscoguttatus, E. akaara, E. bleekeri, E. sexfasciatus, E.
merra, Cephalopholis miniata và Plectropomus leopardus là những đối tượng nuôi chính. Cả nước có
khoảng 6800 lồng nuôi cá biển, trong đó khoảng 80% là những lồng nuôi cá mú và khoảng 500 ha
vùng ven bờ được sử dụng để nuôi cá mú đìa. Các lồng và đìa nuôi cá mú tạo ra khoảng 3000 tấn sản
phẩm, có giá bán tại trang trại khoảng trên 300 tỷ đồng (trên 20 triệu Đô-la Mỹ) trong năm 2003. Bài
báo này đánh giá hiện trạng của nghề nuôi cá mú ở Việt Nam, và xác định các trở ngại chính về mặt
kỹ thuật đốI với sự phát triển xa hơn của nghề này.


1 Mở đầu
Ở Việt Nam, nghề nuôi cá mặn lợ như cá đối, cá măng biển, cá chẽm đã phát triển từ những năm
của thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Cá mú (miền Bắc còn gọi là cá song) thỉnh thoảng cũng được nuôi
khi người dân có được con giống. Nghề nuôi cá mú chính thức phát triển vào năm 1988 (Edwards và
ctv, 2004), khi các doanh nhân Trung Quốc đến Nha Trang đặt vấn đề mua bán cá mú sống. Nghề
này đã phát triển mạnh từ Bắc vào Nam nhưng tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh - Hải Phòng, và Phú


Yên - Khánh Hòa và gần đây là Vũng Tàu. Nghề nuôi cá mú đã trải qua nhiều bước thăng trầm, khi có
dịch bệnh trên tôm sú, tôm hùm, người nuôi chuyển sang nuôi cá mú, khi gặp đại dịch SARD, nghề
này lại lao đao. Hiện nay, cả nước có khoảng 6800 lồng nuôi cá biển (Bộ Thủy Sản, 2003), trong đó
đến 80% là lồng nuôi cá mú (Quảng, B.H; Thọ, T.V; Điệp, N.V; trao đổi riêng) và khoảng 500 ha ao
đìa nuôi cá mú với sản lượng ước tính khoảng 3000 tấn, trong đó nuôi lồng chiếm 2/3 sản lượng. Các
đối tượng nuôi bao gồm cá Mú Chấm Đen Epinephelus malabaricus, cá Mú Sông E. coioides, cá Mú
Chấm Đỏ E. akaara, cá Mú Sỏi E. bleekeri, cá Mú Sáu Vạch sexfasciatus, cá Mú Chấm Tổ Ong E.
merra, cá Mú Mỡ E. tauvina, ngoài ra còn có cá Mú Đỏ Cephalopholis miniata và cá Mú Chấm Xanh
Plectropomus leopardus thường được lưu tạm để xuất khẩu. Gần đây cá Mú Hoa Nâu, còn gọi là cá
Mú Cọp E. fuscoguttatus đã được nuôi tại các tỉnh phía Nam. Các lồng và đìa nuôi cá mú tạo ra
khoảng 3000 tấn sản phẩm, có giá bán tại trang trại khoảng trên 300 tỷ đồng (trên 20 triệu Đô-la Mỹ)
trong năm 2003.
Nghề nuôi cá mú có tiềm năng lớn để phát triển ở nước ta. Trong tương lai khi Việt Nam chủ
động trong việc cung cấp con giống cá mú nhân tạo thì nghề nuôi cá mú càng có cơ hội để phát triển
hơn nữa.
2 Các hệ thống nuôi cá mú
2.1 Vùng nuôi và đối tượng nuôi
Vùng nuôi và đối tượng nuôi cụ thể cho từng vùng được tóm tắt trong bảng 1 dưới đây. Vũng
Tàu, Phú Yên và Khánh Hòa ở phía Nam và Quảng Ninh, Hải Phòng ở phía Bắc là những vùng nuôi
cá mú chính của nước ta. Theo Nguyễn Tác An và cộng sự (1994), có khoảng 30 loài cá mú được
báo cáo là phân bố tại các vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy có 11
giống và 48 loài thuộc họ cá mú Serranidae ở Việt Nam (Tuan, 1998). Các loài cá mú được nuôi hiện
nay bao gồm cá Mú Chấm Đen Epinephelus malabaricus, cá Mú Sông E. coioides, cá Mú Chấm Đỏ
E. akaara, cá Mú Sỏi E. bleekeri, cá Mú Sáu Vạch sexfasciatus, cá Mú Chấm Tổ Ong E. merra, cá Mú
Mỡ E. tauvina, ngoài ra còn có cá Mú Đỏ Cephalopholis miniata và cá Mú Chấm Xanh Plectropomus
leopardus thường được lưu tạm để xuất khẩu. Gần đây cá Mú Hoa Nâu, còn gọi là cá Mú Cọp E.
fuscoguttatus đã được nuôi tại các tỉnh phía Nam. (Tuan, 1998; Tuan, 2000; Phượng, NT, trao đổi
riêng).
1
Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Số đặc biệt/2004, Trường ĐH Thủy sản, Trang 174-179

2
Bảng 1. Các loài cá mú thường được nuôi ở Việt Nam
Tên khoa
học
Tên tiếng
Anh
Phân bố Vùng sinh thái Khai thác
giống tự
nhiên
Sản xuất
giống
nhân tạo
Vùng nuôi
thương
phẩm
Epinephelus
akaara
Hong Kong
grouper, Red
spotted
grouper, Red
grouper
Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Biển, sống đáy, phổ biến
vùng có đá
Quảng Ninh, Hải
Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
Hoằng Ký Quảng Ninh, Hải

Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
E.
malabaricus
Malabar
grouper,
Estuarine
grouper
Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Biển và nước lợ. Rạn, san
hô, đá; đáy bùn, cát; Bãi
triều, cửa sông, rừng đước;
cá giống có ở vùng cạn và
cửa sông
Quảng Ninh, Hải
Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
Hoằng Ký Quảng Ninh, Hải
Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
E. merra
Honeycomb
grouper
Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Các rạn san hồ vùng nước
cạn, trong đầm, vịnh
Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh

Hòa
Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
E. coioides
Orange-
spotted
grouper
Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Biển và nước lợ Quảng Ninh, Hải
Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
RIA 1 - Hải
Phòng
Quảng Ninh, Hải
Phòng, Phú
Yên, Khánh Hòa
E.
sexfasciatus
Sixbar grouper Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Đáy cát bùn hoặc bùn Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
E.bleekeri
Duskytail

grouper,
Yellow spotted
grouper
Vịnh Bắc Bộ, biển
Nam Trung Bộ
Các hốc đá Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
E.
fuscoguttatus
Brown marble
grouper,
Flowery cod
Vịnh Bắc Bộ Biển, rạn san hô cạn, và đáy
đá, nước trong. Cá giống có
trong bãi cỏ biển
Quảng Ninh Nhập khẩu
từ Đài Loan
Quảng Ninh,
Phú Yên, Khánh
Hòa
E. tauvina
Greasy
grouper,
Green grouper
Vịnh Bắc Bộ Biển, nước trong, có rạn san
hô, đáy cứng; cá giống trong

vùng rạn và bãi triều
Quảng Ninh Quảng Ninh
Cephalopholis
miniata
Coral hind biển Nam Trung
Bộ
rạn san hô phát triển, lộ ra,
nước trong
Khánh Hòa Khánh Hòa
Plectropomus
leopardus
Leopard
coralgrouper
biển Nam Trung
Bộ
rạn san hô, độ sâu 3-100 m Khánh Hòa Khánh Hòa
(Nguồn: Trai, 1997; Tuan, 1998; Tuan, 2000; Phượng, trao đổi riêng)

2.2 Các hệ thống sản xuất
2.2.1 Lồng
Lồng được thiết kế theo nhiều kiểu, nhiều kích cỡ khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của vùng
nước và khả năng tài chính của người nuôi (Bảng 2).
Lồng nổi: Túi của lồng nổi thường được hỗ trợ bởi một khung có phao. Dạng lồng này thường
được bố trí ở những eo, vịnh có độ sâu khoảng 10 m trở lên. Kích cỡ lồng phổ biến là 3x3x3 m và
4x4x4 m. Các dạng lồng theo kiểu truyền thống (do dân tự làm) này vẫn đang phổ biến mặc dù gần
đây, ở một số nơi như Nghệ An, các dạng lồng hiện đại theo mẫu thiết kế của Na-Uy đã được đưa
vào sử dụng.
Lồng tre cố định: Đây là dạng lồng được sử dụng phổ biến ở vùng đầm phá Tam Giang, tỉnh
Thưa Thiên - Huế. Các thanh tre dày 1 cm, rộng 3-4 cm và dài 1.5-2.0 m được buộc bằng dây nylon
có đường kính 0.18 cm. Khoảng cách giữa hai dây buộc là 20 cm, và giữa hai thanh tre là 1.2 cm.

Các thanh tre được đan lại với nhau tạo thành đáy lồng. Bề mặt phía trên của lồng có một ô trống cỡ
60x60 cm để kiểm tra.
Bảng 2. Các dạng lồng truyền thống thường được sử dụng ở Việt Nam
Kiểu
lồng
Hình dạng và
kích thước
Khung lồng Túi lồng Vùng nuôi
Nổi Đáy: hình chữ nhật; kích
thước đa dạng: 3x2x2,
3x3x2, 4x4x(1.5-4),
3.5x3.5x(1.5-4), 3x4x(1.5-
4) m…
Gỗ chịu mặn, thanh
dọc: φ=15-20 cm;
thanh ngang:
φ=12-15 cm. Tăng
cường phao
Lớp lướI
ngoài: 2a=10-
15mm;
lưới trong:
2a=2-4mm
Các vị trí có độ sâu 10-
20 m trong vịnh ở
Quảng Ninh, HảI Phòng,
Khánh Hòa, Phú Yên,
Vũng Tàu
Cố
định

Hình trụ; đường kính đáy
2.5-2.8m, chiều cao 1.5m
Tre

Tre

Đầm phá có độ sâu < 10
m, ở Thừa Thiên - Huế
(Nguồn: Tuan, 2000)

2.2.2 Ao
2
Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Số đặc biệt/2004, Trường ĐH Thủy sản, Trang 174-179
3
Phần lớn các hộ nuôi cá mú đều có ao nhỏ, nằm cạnh nhà. Nhiều ao đã từng là những ao nuôi
tôm nhưng thất bại vì dịch bệnh. Ao thường có dạng hình chữ nhật, cỡ thường là 0.1-0.7 ha. Ao
thường được thiết kế tốt với hệ thống đê, mương, cống cấp và xả vì phần lớn là từ các ao nuôi tôm
kém hiệu quả. Khẩu độ cống 0.7-1 m. Độ sâu của ao 1.4-1.6 m. Tỷ lệ trao đổi nước thường 10-20%
mỗi ngày. Mật độ thả 0.25-2 con/m
2
, nhưng nhìn chung ở phía Bắc cá được thả với mật độ dày hơn.
Vào những tháng nắng nóng, cá nuôi trong các ao đìa ở phía Nam, nhất là tại Khánh Hòa thường dễ
mắc bệnh chết. Tỷ lệ sống nằm trong khoảng 30-95% tùy theo nguồn giống, kích cỡ giống thả, kinh
nghiệm ngườI nuôi, vùng nuôi…Năng suất nuôi ao thường đạt 1-2 tấn/ha ở phía Nam và khoảng 5-6
tấn/ha ở phía Bắc, đặc biệt là tại Quảng Ninh.
Các vật liệu để làm lồng, làm ao như gỗ, lưới, phao, tre… đều sẵn có ở Việt Nam. Các lồng và ao
nuôi cá mú thường có kích cỡ nhỏ, thích hợp cho quản lý cấp nông hộ. Đó là lý do tại sao số lượng
lồng, ao nuôi cá mú đá tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Trong khi từng sự phát triển riêng
lẻ có thể không gây tác động lớn lên môi trường và xã hội, thì trên phương diện tổng thể chúng tác
động đáng kể lên môi trường, kinh tế - xã hội và lên nhau.

2.3 Thức ăn
Nghiên cứu trước đây (Trai, 1997) đã cho thấy chỉ có cá tạp tươi được sử dụng làm thức ăn cho
cá mú và hệ số chuyển hóa thức ăn trong nuôi lồng trung bình là 5,9 (khối lượng tươi) là cao đáng kể
so với hệ số chuyển hóa thức ăn đối với nuôi ao là 4,3. Cá tạp được sử dụng để nuôi cá mú bao gồm
cá mối (Saurida spp), cá cơm (Stolephorus sp), cá liệt (Leiognathus spp), cá nục (Decapterus sp), cá
bơn (Solea sp), cá trích (Clupea leiogaster), cá sơn (Priacanthus macracanthus) là những loài cá
chính. Ngoài ra còn có các loài cá khác với số lượng nhỏ hơn cũng như cua nhỏ và tôm nhỏ. Cá tạp
được chuộng để nuôi cá mú dưới 200 g là cá cơm và nuôi cá mú cỡ lớn (>200 g) là cá mối. Thức ăn
chiếm khoảng 18% giá thành nuôi cá mú.
Hiện nay, đã có những nỗ lực nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cá mú tại Đại Học Thủy
Sản, Viện nghiên cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I và II. Từ các kết quả nghiên cứu ban đầu, các cơ quan
này đã có những thử nghiệm nuôi cá mú bằng thức ăn chế biến (thức ăn viên ẩm) và thức ăn tổng
hợp tại Nha Trang, Hải Phòng, Cửa Lò (Phước, T.V, 2001; Hạnh, N.T; 2002; Hà, N.T.V, 2003; Xân, L,
trao đổi riêng).
2.4 Con giống
Con giống chủ yếu từ đánh bắt ngoài tự nhiên. Trong các năm 1994-1995 Viện Nghiên cứu Hải
sản Hải Phòng (RIMP, nay thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 - RIA1) đã sản xuất thành
công con giống cá mú. Sau ba tháng ương, con giống đã đạt được kích cỡ khoảng 13 cm với khốI
lượng 50 g (Trích từ Tuan, 2000). Cũng đã có những nỗ lực nghiên cứu sản xuất giống cá mú tại Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II (RIA2). Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên vẫn đang dừng lại ở
giai đọan thử nghiệm. Gần đây, Công ty Hoằng Ký, một công ty nuôi cá biển có 100% vốn nước ngoài
đã sản xuất thành công giống cá mú và đáp ứng phần nào nhu cầu con giống tại một số tỉnh phía
Nam. Nhu cầu con giống cá mú hiện nay ước tính khoảng 3.000.000 -5.000.000 con/năm dựa trên
sản lượng cá mú thương phẩm ước tính được.
Thông tin về sản lượng giống cá mú khai thác tự nhiên vẫn chưa đầy đủ nên khó có thể xác định
sản lượng khai thác bền vững tối đa (MSY), và chưa thể phục vụ cho các mục đích quản lý một cách
hữu hiệu. Tuy nhiên, giá cá mú giống cũng giúp chúng ta biết được phần nào mối quan hệ giữa cung
và cầu, và chỉ số giá này tăng lên đáng kể trong những năm gần đây đối với mọi kích cỡ giống cá mú.
Điều này cho thấy có một sự thiếu hụt về nguồn cung cấp và cũng có thể có sự khai thác quá mức
(Hình 1).

1993
1994
1995
1996
1997
1-3 cm
5-8 cm
10-15 cm
0
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
8,000
9,000
VND/pc.

Hình 1. Xu hướng giá cá mú giống tại Khánh Hòa (Nguồn: Trai, N.V, 1997)
3
Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Số đặc biệt/2004, Trường ĐH Thủy sản, Trang 174-179
4
2.5 Bệnh
Cách đây mười năm, bệnh trên cá mú ít khi xảy ra. Gần đây, đã có một số bệnh trên cá mú nuôi.
(Bảng 3).

Bảng 3. Một số bệnh phổ biến ở cá mú nuôi
Bệnh Triệu chứng Tử vong Xử lý của người nuôi

Đen mang Mang bị đen 1-2% Formalin 100 ppm/3-5 ph
Đỏ mang Mang sưng lên và đỏ 10-100% Malachite green 5 ppm trong10-
15 ph, 2 lần/ngày
Đốm trắng Đốm trắng trên da, mang 10-100% Malachite green 5 ppm trong10-
15 ph, 2 lần/ngày
Lở lóet cơ thể Lở lóet trên bề mặt cơ thể 10-20% Tetracycline + thức ăn trong 6-7
ngày.
Trướng bụng Bụng trướng lên, mất thăng bằng 1-2% Cho thức ăn tươi hơn
Thiếu vitamin Sinh trưởng kém, mắt lồi 1-2% Thức ăn trộn vitamin
(Nguồn: Long, D.B 1998; Tạo, N.V., 2001; Quảng, B.H., 2002; Diệp, H.T., 2003; Dũng, Đ.M., 2003)

Một số nghiên cứu sơ bộ (Long; 1998; Hòa, Đ.T; Vân, P.T., trao đổi riêng) cho thấy các tác nhân xuất
hiện ở cá mú nhiễm bệnh (chủ yếu E. malabaricus) là Pseudorhabdosynochus sp, Rhiphidocotyle sp,
Contracaecum sp, và Trichodna sp… Các nghiên cứu về bệnh trên cá mú đang được tiến hành tại
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I và tại Đại học Thủy Sản, tuy nhiên các số liệu vẫn chưa được
công bố chính thức. Đây cũng là một trở ngại lớn đối với thực tiễn nghề nuôi cá mú, vì người nuôi chỉ
phòng và trị bệnh theo kiểu tự phát.
3 Trở ngại
Một số trở ngại đối với nghề nuôi cá mú tại Việt Nam như sau (Tuan, 2000; Tuan, in press):
- Nuôi cá mú đã phát triển một cách tự phát, đặc biệt là việc nuôi lồng bè trên biển. Chưa có bất kỳ
nghiên cứu nào về thiết kế lồng bè thích hợp cho từng vùng nước cụ thể.
- Chưa có đánh giá, so sánh hiệu quả kinh tế một cách đầy đủ về các hệ thống nuôi cá mú.
- Đã xuất hiện một số bệnh gây tử vong lớn trên cá mú nuôi nhưng còn nhiều điều chưa biết về bệnh
cá mú.
- Nuôi cá mú dựa chủ yếu vào con giống tự nhiên. Nguồn giống có thể không đủ để cung ứng cho các
mức sản xuất hiện nay trên cơ sở bền vững, và khó có thể hỗ trợ cho một sự gia tăng đáng kể về sản
lượng cá mú nuôi nói riêng, và cá biển nuôi nói chung trong tương lai như được vạch ra trong
Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thờI kỳ 1999-2010 (Bộ Thủy sản, 1999). Trong bất kỳ
hòan cảnh nào, con giống tự nhiên đều không thỏa mãn ở khía cạnh tính mùa vụ và chất lượng. Vì
thế, sản xuất giống cá mú nhân tạo là điều cần thiết.

- Cá mú nuôi được cho ăn chủ yếu là cá tạp.
- Thị trường tiêu thụ cá mú dễ biến động, phụ thuộc phần lớn vào tình hình kinh tế của các thị trường
có người gốc Hoa như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
4 Kết luận và khuyến nghị
Nghề nuôi cá mú bắt đầu phát triển chính thức ở Việt Nam vào năm 1988. Nghề nuôi cá mú là
một nghề tạo ra lợi nhuận tương đối lớn và có qui mô trang trại nhỏ nên phát triển rất nhanh. Tổng số
lượng lồng nuôi là khoảng 6800 cái, diện tích ao nuôi khoảng 500 ha trong năm 2003.
Có hai dạng lồng nuôi: lồng nổi có nhiều kiểu và kích cỡ khác nhau, thường được bố trí ở các vực
nước có độ sâu trên 10 m; lồng tre cố định có dạng hình trụ, cỡ nhỏ, thường được bố trí ở vùng đầm
phá Tam Giang, nơi có độ sâu thấp dướI 10 m. Ao cá mú thường có cỡ nhỏ 0.1-0.7 ha, sâu 1.4-1.6
m; nhiều ao là những ao nuôi tôm không hiệu quả trước đây.
Cá mú giống chủ yếu từ nguồn tự nhiên. Đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu từ các viện nghiên cứu
trong nước (RIA1, RIA2), nhưng kết quả vẫn còn khiêm tốn. Gần đây, công ty Hoằng Ký của Đài Loan
đã sản xuất thành công cá mú giống và bước đầu đáp ứng phần nào nhu cầu của người nuôi ở khu
vực phía Nam. Một số công ty cũng đã nhập trứng cá mú thụ tinh vào ấp và bán giống tại Việt Nam.
Để chủ động hơn về nguồn cá mú giống, các nỗ lực nghiên cứu trong lĩnh vực này của các viện,
trường trong nước cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Thức ăn được sử dụng trong nuôi cá mú là cá tạp và tôm cua nhỏ. Tính bền vững của nguồn
cung cấp thức ăn này đối với sự phát triển dài hạn của nghề nuôi cá mú cũng là một vấn đề. Thức ăn
tổng hợp sử dụng một tỷ lệ cao hơn các nguồn đạm không phải từ cá (ví dụ, đạm thực vật) cần được
phát triển.
4
Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Số đặc biệt/2004, Trường ĐH Thủy sản, Trang 174-179
5
Bệnh trên cá mú nuôi đã xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi, nhất là vào mùa nắng nóng, nhưng còn
quá ít hiểu biết về những bệnh này.
Không có qui hoạch phát triển nghề nuôi cá mú, đặc biệt là nuôi cá mú lồng. Vì thế dễ có những
rủi ro do ô nhiễm, chất lượng nước kém và dịch bệnh khi nghề này phát triển lên.

5 Tham khảo

1. An, N.T., Ky, T.S, Tòan, N.Đ., 1994. Kỹ thuật nuôi lồng cá biển. Viện HảI Dương học Nha Trang.
2. Bộ Thủy Sản, 1999. Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản trong thời kỳ 1999-2010, Hà Nội.
3. Bộ Thủy Sản, 2003. Báo cáo tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2003 và phương hướng, nhiệm vụ, các chỉ tiêu và giảI
pháp thực hiện kế hoạch nuôi trồng thủy sản năm 2004. Hà Nội.
4. Diệp, H.T., 2003. Tìm hiểu kỹ thuật nuôi cá mú thương phẩm trong eo ngách tạI đầm Chậu, Vân Đồn, Quảng Ninh. Luận
văn tốt nghiệp đại học. Đại học Thủy Sản.
5. Edwards, P., Le Anh Tuan and Allan, G.L. 2004. A survey of marine trash fish and fish meal as aquaculture feed
ingredients in Vietnam. ACIAR Working Paper No. 57.
6. Hà, N.T.V., 2003. Thử nghiệm nuôi cá song Epinephelus coioides bằng các loạI thức ăn khác nhau tại Cửa Lò, Nghệ An.
Luận văn tốt nghiệp đại học. Đại học Thủy Sản.
7. Long, Đ.B., 1998. Nghiên cứu ký sinh trùng ký sinh trên một số loài cá mú (Serranidae) đang được nuôi và khai thác tự
nhiên tạI vùng biển Khánh Hòa. Luận văn tốt nghiệp đại học. Đại học Thủy Sản.
8. Quảng, B.H., 2003. Tìm hiểu kỹ thuật nuôi cá mú thương phẩm bằng lồng bè tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Luận
văn tốt nghiệp đại học. Đại học Thủy Sản.
9. Tạo, N.V., 2001. Tình hình nuôi cá mú đìa tại Cam Ranh. Luận văn tốt nghiệp đại học. Đại học Thủy Sản.
10. Trai, N.V., 1997. Potential of grouper culture in Vietnam: case study of Khanh Hoa province. Master thesis, AIT, Bangkok,
Thailand.
11. Tuan, L.A., 1998. The sustainability of grouper seed supply to the aquaculture industry in Khanh Hoa, Vietnam. Master
thesis, AIT, Bangkok, Thailand.
12. Tuan, L.A. and Hambrey, J.B., 2000. Status of cage mariculture in Vietnam. In: I.Chiu Liao and C. Kwei Lin (Eds.), Cage
Aquaculture in Asia, 111-123. Asian Fisheries Society, Manila and World Aquaculture Society, Bangkok.
13. Tuan, L.A. in press. Grouper pond culture in Khanh Hoa, Vietnam. AQUACULTURE COMPENDIUM – CAB
INTERNATIONAL, UK.

Abstract
In Vietnam, pond culture of marine finfishes including mullet, milkfish and seabass has been
developed since the 1960s. Grouper aquaculture, however, officially developed in 1988 in Nha Trang
and then, significant expansion took place in the early 1990s with the appearance of live fish market.
Epinephelus malabaricus, E. coioides, E. fuscoguttatus, E. akaara, E. bleekeri, E. sexfasciatus, E.
merra, Cephalopholis miniata and Plectropomus leopardus are currently among the major cultured

species. There are approximately 6800 marine finfish cages, of which 80% are grouper cages and
about 500 ha of the coastal area used for pond culture of grouper in the whole country. These grouper
cages and ponds are responsible for approximately 3,000 metric tonnes of products, and valued at
farm gate at more than VND300 billion (more than US$20 million) in 2003. This paper reviews the
current status of grouper aquaculture, and identifies major technical constraints to further development
in Vietnam.
5

×