Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học 'cây cà phê trong đồn điền phủ quỳ (nghệ an) thời thuộc pháp.'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.38 KB, 8 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



5
Cây cà phê TRong đồn điền Phủ Quỳ (Nghệ An)
thời thuộc Pháp

Bành Thị Thuý Hà
(a)


Tóm tắt. Trong bài viết này chúng tôi bàn về sự xuất hiện và hiệu quả kinh tế
của cây cà phê trong đồn điền Phủ Quỳ thời thuộc Pháp: từ nguồn gốc, đặc trng của
cây cà phê, cách trồng trọt, chăm sóc và phơng thức kinh doanh cho đến những tác
động do việc kinh doanh cà phê mang lại đối với đời sống nhân công trong các đồn
điền. Qua đó thấy đợc tầm quan trọng của cây cà phê trong kinh tế nông nghiệp ở
Phủ Quỳ.

ghệ An là một tỉnh thuộc miền
Bắc Trung Kì có diện tích
khoảng 16.057 km
2
, trong đó diện tích
đất nông nghiệp chiếm khoảng 1/3, dân
c khá đông, chủ yếu sống bằng nghề
nông nghiệp. Ngay sau khi Nghệ An bị
thực dân Pháp đánh chiếm và bình


định, theo chân các nhà truyền giáo, các
nhà thực dân, các nhà khai mỏ ngời
Âu đã thăm dò mọi vùng đất trong tỉnh
và phát hiện ra vùng đất Phủ Quỳ: Lúc
bấy giờ Phủ Quỳ còn là vùng đất hoang
sơ, có rừng cây bao phủ, có những đàn
voi lợn quanh, giữa những mô đất
thấp thơng thờng ngập nớc và trên
tầng đất đỏ có phủ một lớp phù sa [3,
tr.13].
Đất Phủ Quỳ là thứ đất tốt nhất ở
Đông Dơng. Đó là loại đất đỏ Ba gian
(còn có tên gọi khác là huyền vũ nham)
phát sinh từ sự phun trào của các ngọn
núi lửa hoạt động cách đây khoảng một
triệu năm. Đó là các miệng núi lửa Hòn
Đồi ở Đông Hiếu và Núi én, Cát Mộng ở
Tây Hiếu thuộc huyện Nghĩa Đàn ngày
nay. Loại đất này rất phù hợp cho việc
phát triển cây công nghiệp nh cây cà
phê, cây cao su, cây trẩu, cây gai
Trong đó đặc biệt đáng chú ý tới là cây
cà phê, loại cây thích hợp nhất với chất
đất và điều kiện khí hậu ở Phủ Quỳ.
Nghiên cứu thấy đợc u thế đó, nên
ngay từ năm 1910 ngời Pháp đã đến
đây và thành lập những đồn điền cà
phê đầu tiên. Trớc khi phát hiện ra
vùng Kon Tum, Đồng Nai Thợng,
ngời Pháp cho rằng: "Phủ Quỳ có thể

trở thành nơi có nhiều đồn điền lớn
nhất về cà phê ở Đông Dơng" [3, tr.1].
Vì thế mà cho đến năm 1928, vùng đất
Phủ Quỳ đã có hơn 10 đồn điền lớn của
ngời Pháp, trong đó chủ yếu trồng cà
phê. Một trong những chủ đồn điền có
số lợng đồn điền nhiều nhất và lớn
nhất ở khu vực Phủ Quỳ thời kì này là
ông Walther. Với tổng diện tích đồn
điền của ông là 6300 ha thì "có hơn 400
ha dùng vào việc chuyên trồng cây cà
phê. Trong đó, có 2 triệu cây cà phê non
trong vờn ơm, 17.000 gốc cây cà phê
đang ra quả, 6.000 gốc cây đợc trồng
hai năm, 145.000 gốc một năm" [3,
tr.24]. Cùng với ngời Pháp, một số
ngời Việt cũng tham gia chiếm đất lập
đồn điền. Trong việc kinh doanh ở đồn
điền, họ cũng học theo ngời Pháp. Tuy
nhiên trong số diện tích 13.000 ha đất
đỏ của Phủ Quì có thì ngời ta mới chỉ
trồng trọt đợc 3.200 ha và diện tích
trồng cà phê là 750 ha [1, tr.15].

Nhận bài ngày 23/5/2006. Sửa chữa xong 08/01/2007.

N




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



6

1. Nguồn gốc và đặc trng của
cây cà phê
Cây cà phê không phải là loại cây
bản địa mà đợc mang từ bên ngoài
vào: Đầu tiên cây cà phê đợc đem vào
Bắc Kì, theo chân bọn thực dân đánh
chiếm Bắc Kì, các cố đạo truyền giáo đã
mang vào đây một số cây cà phê nhng
cho tới năm 1888 việc trồng cà phê
mới thực sự bắt đầu [7, tr.1]. Từ miền
Bắc, diện tích trồng cà phê ngày càng
đợc mở rộng, dần dần lan tới miền
Trung kì. Những tỉnh ở Trung kì có
diện tích trồng cà phê rộng lớn nh tỉnh
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị và các cao nguyên ở
Kon Tum, Đắc Lắc, Đồng Nai Thợng.
Riêng ở Nghệ An những đồn điền cà
phê trồng trong vùng Phủ Quỳ, huyện
Nghĩa Hng, ở dọc con đờng từ Vinh
đi Phủ Quỳ, rồi ở miền Thợng lu Phủ
Quỳ, ở dọc bờ sông hữu ngạn của sông
Hiếu và trên hai bên đờng đi từ Phủ
Quỳ đến Đô Lơng. Tất cả các đồn điền

đó là đất đỏ ba gian, đợc xếp vào loại
đất tốt nhất Đông Dơng [7, tr.25].
Qua nghiên cứu ngời Pháp thấy rằng,
đặc điểm nổi rõ của cây cà phê là nó
thích hợp với những vùng đất đỏ và khí
hậu nhiệt đới. Chính đặc điểm này có
thể giúp cây cà phê nhất là loại arabica
tránh đợc bệnh sâu nấm hồng, phát
triển tốt và đem lại hiệu quả lớn trong
việc kinh doanh. Tuy vậy, yếu tố khí
hậu đáng sợ ở đây có thể gây nguy hiểm
cho việc trồng cà phê là bão và gió Lào
thờng hay xảy ra. Đây cũng là vùng
mà ánh sáng mặt trời chiếu mạnh, vì
vậy các chủ đồn điền phải áp dụng kĩ
thuật thích ứng để giữ ẩm cho đất và
bảo vệ cây cà phê khỏi bị nắng quá.
Chẳng hạn nh việc trồng xen các loại
cây bóng mát nh: cây catxia, cây trẩu,
rồi các loại cây họ đậu, cây xấu hổ để
vừa làm phân bón vừa giữ ẩm, đó là
việc làm hữu dụng và hết sức cần thiết.
Trong ba loại cà phê có ở Trung kì thì "ở
Phủ Quỳ có hai loại cây cà phê đợc
trồng nhiều hơn cả, đó là cà phê arabica
và cà phê exensa" [7, tr.14]. Còn cà phê
robusta thì chỉ thích hợp với loại đất
ven biển và vùng đất nơi thấp, mặt
khác loại cà phê này chất lợng không
bằng hai loại trên nên trong các đồn

điền ở Phủ Quỳ, hầu nh ngời ta
không kinh doanh loại này.
Cà phê arabica là loại cây đợc
trồng phổ biến nhất ở Phủ Quỳ, song
năng suất thu hoạch phụ thuộc nhiều
vào khí hậu. Giống này thờng bị sâu
nấm hồng (bore) đục thân, đục cành tàn
phá. Nhng nh trên đã nói, nhờ đất
đai ở đây rất tốt nên cà phê arabica có
thể tránh đợc bệnh sâu nấm hồng và
phát triển khoẻ khoắn. Trong thực tế
loại cà phê này đã đem lại hiệu quả cao
khi trồng ở vùng đất Phủ Quỳ. Cà phê
arabica thờng ra hoa vào các tháng 2,
3, 4. Trong thời gian nắng nóng và có
nhiều trận ma lớn cà phê thờng chậm
phát triển nhng đã có hạt và có thể
thu hoạch từ tháng 10 đến tháng ba
năm sau. Trong thời gian đầu mới
trồng, việc chăm sóc và bón phân cho
cây phải thực sự kĩ lỡng, thờng
xuyên, bởi nó là loại kén chọn đất đai,
hơn nữa ánh nắng gay gắt của mặt trời
cũng dễ làm cho cây con bị chết. Năng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007




7
suất trung bình của các vụ thu hoạch ở
những đồn điền trởng thành (từ 9 đến
10 năm) khoảng 600 đến 700 kg/ha.
Cà phê exensa là loại cây cà phê có
rễ khoẻ, thân cây chắc, không kén chọn
đất đai nh cà phê arabica, thậm chí có
thể trồng trên loại đất không tốt mấy
và ít bị sâu nấm hồng phá hoại. Chính
vì thế mà ở Phủ Quỳ, bên cạnh cây cà
phê arabica ngời ta thờng để một
khoảnh nhỏ trồng cà phê exensa phòng
tránh những may rủi của một nền độc
canh. ở mỗi đồn điền, mật độ trồng cây
cà phê exensa là 400 gốc/ha, trong khi
đó cà phê arabica có mật độ từ 1.100
đến 1.300 gốc/ha. Năng suất thực tế cà
phê thu hoạch đợc trên một héc ta là từ
320 đến 400 kg. Chất lợng quả cà phê
loại này kém cà phê arabica 20% [3,
tr.6]. Cà phê exensa thờng ra quả ở
năm thứ năm sau khi trồng và thu
hoạch từ tháng 6 đến tháng 9.
2. Việc trồng trọt và kinh
doanh cà phê
Trớc khi ngời Pháp đến ở Phủ
Quỳ, nó vốn dĩ là vùng đất còn hoang
sơ, rừng rậm. Để có thể trồng trọt đợc
ngời ta phải làm những công việc khá

tỉ mỉ và rất vất vả.
Đầu tiên là vấn đề khai hoang,
công việc này đợc tiến hành theo một
trình tự nhất định: chặt cây, phát
quang bụi rậm, xếp gỗ thành đống và
đốn củi, đào gốc, đốt rễ cây, cày bừa
chéo hai lần trên đám đất đợc khai
phá. Tiếp đó là công việc làm hai đờng
đi giao nhau giữa đồn điền để điền chủ
đi thăm cơ sở đồn điền bằng ô tô và việc
chuyên chở phân bón cũng nh chở cà
phê sau khi thu hoạch xong đợc dễ
dàng. Ngoài ra trong khu vực đồn điền,
ngời ta còn chia đồn điền thành những
khu đất nhỏ, mỗi khu đất có diện tích
khoảng 2 héc ta trồng cà phê. Việc làm
ấy nhằm "tổ chức lao động đợc dễ
dàng và giúp cho các nữ nhân công hái
quả cà phê không bao giờ phải đi quá
50 mét để trút sọt cà phê lên xe ô tô chở
hàng hay xe bò [3, tr.18].
Để thực hiện việc khai hoang đạt
kết quả tốt các điền chủ thấy rằng việc
thuê nhân công lao động là cần thiết,
bởi theo tính toán khoa học của họ thì
những phơng pháp khai hoang khác
nh: sử dụng chất hoá học để tiêu huỷ
cây hoặc dùng máy móc đều không đem
lại hiệu quả tốt, chi phí lại tốn kém và
bất tiện. Việc sử dụng chất hoá học nh

clorat de potasse, sun phát đồng hoặc
muối đôi khi không làm cho cây dại chết
hẳn. Còn máy đào gốc cây thì dùng loại
có cần kiểu Monkey mà ông Walther -
một chủ đồn điền lớn ở vùng Phủ Quỳ
hồi đầu thế kỉ trớc đã có - muốn sử
dụng nó phải cần đến 4 ngời, trong khi
đó để đào một gốc cây chỉ cần sử dụng 2
nhân công lao động là đủ. Mặt khác chi
phí của loại máy này khá đắt đỏ: để
mua đợc một chiếc máy này phải mất
500 đồng [4, tr.20]. Ngời ta cũng thử
dùng loại máy đào gốc sử dụng sức kéo
của súc vật nhng loại này thờng mất
thời gian, dây cáp nặng, khó điều
khiển Vì thế, việc sử dụng nhân công
lao động trong việc khai hoang vẫn là
biện pháp tốt nhất mà các chủ đồn điền
quan tâm. Thấy đợc việc thuê nhân
công lao động là cần thiết nên họ cũng
tính toán đến việc thuê ngời An Nam
(ngời Kinh) hay ngời Mờng (dân tộc



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



8

Thổ) trong từng công việc cụ thể để
giảm bớt chi phí không đáng có: Đối với
việc thuê ngời Mờng, khai phá mỗi
héc ta đất chỉ mất 15 đồng còn ngời
Việt làm phải mất từ 20 đến 25 đồng
[4, tr.15]. Riêng việc xới đất ngời ta
còn phải sử dụng thêm sức kéo của trâu
bò cùng với những công cụ cày bừa cải
tiến để san bằng đất, đào xới kĩ càng.
Công việc khai hoang ở Phủ Quì đợc
tiến hành trong một thời gian nhất
định, bắt đầu từ tháng 11 và hoàn
thành vào tháng 7 năm sau, nghĩa là
phải làm xong đất trớc khi mùa ma
tới. "Tính toàn bộ chi phí cho việc khai
hoang, từ công việc phát bụi rậm cho
đến công việc cuối cùng là xới đất phải
mất hết 300 đồng" [4, tr.26]. Đó là một
cái giá cao trong thời điểm bấy giờ,
nhng so với năng suất và giá trị của
cây cà phê đem lại thì không đáng kể.
Về đất sau khi đợc khai hoang
nhng cha trồng cây- đợc dự tính sẽ
kinh doanh - lên đó, ngời ta có thể bảo
vệ đất bằng cách: sau khi mỗi héc ta đất
đợc khai hoang xong thì trồng lên đó
các loại cây họ đậu, đặc biệt là cây xấu
hổ (mimosa). Bởi vì loại cây này thờng
mọc nhanh, phủ kín hoàn toàn mặt đất
và ngăn cản các loại cỏ hoang các chồi

rễ của cây cũ không thể mọc lên. Do
điều kiện khí hậu ở vùng Phủ Quỳ thất
thờng (hay có gió Lào, bão và ma lớn)
nên không thể gieo hạt cà phê trực tiếp
xuống khu đất đồn điền nh ở Brazin
hay ở một vài nơi khác. Trớc khi tiến
hành trồng cà phê, ngời ta tiến hành
gieo hạt ở một khoảng đất riêng có đủ
độ ẩm, ánh sáng và không khí tốt nhất
để hạt nảy mầm. Hạt sau khi đợc gieo
xuống đất phải đợc phủ một lớp rơm,
rạ khô, cho đến khi hạt nảy mầm, cây
con đợc hai lá, ngời ta bứng nó vào
vờn ơm (bấy giờ là những căn nhà lá)
trồng cách nhau 15cm cho cây tiếp tục
phát triển. Cùng lúc đó, ở khu đất đồn
điền, cây xấu hổ hoặc các loại cây họ
đậu đã đợc trồng đã bảo vệ đất khỏi bị
xói mòn, phải đợc loại bỏ và đốt ngay
tại chỗ. Chỉ đến khi cây cà phê con cứng
cáp và đợc đem ra trồng chính thức
trong các đồn điền thì cây xấu hổ và các
loại cỏ hoang khác mới đợc trồng lại
xung quanh gốc để tiếp tục làm công
việc che chở cho rễ cây cà phê con ấy.
Cây cà phê đợc trồng cách đều
nhau 3m, hàng cây cách nhau 2m, mỗi
héc ta có 1285 gốc. Trong những quãng
đờng cách nhau nh thế, ngời ta
trồng những giống cây họ đậu, cây trẩu,

cây tử đinh hơng, cây catxia để giữ
đạm của khí trời và làm đất thêm màu
mỡ [3, tr.21]. Bên cạnh đó, công việc
bón phân cho cây là một trong những
công việc quan trọng để đem lại hiệu
quả cao. Trong các đồn điền hầu nh
ngời ta ít khi sử dụng loại phân hoá
học mà chủ yếu là phân chuồng kết hợp
với phân xanh, có thể thấy rõ điều đó
qua việc mô tả của các nhà canh nông:
Cứ hai năm một lần, mỗi héc ta bón từ
13 đến 16 tấn phân chuồng hoà với
phân xanh, tổng cộng mỗi cây cà phê
bón từ 20 đến 25 kg. Hàng năm, mỗi gốc
cây bón 100 gram phân hoá học gồm có
7% adôt cộng với 7% pôtát [7, tr.27].
Sau mỗi vụ thu hoạch quả cà phê,
các đồn điền ở vùng này đều sử dụng
máy nghiền riêng để bỏ vỏ, còn hạt thì
đợc các xe-ca-mi-nhông chở đến Trạm



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



9
Lụi. Đồn điền Trạm Lụi là một trong
những đồn điền của điền chủ Walther,

là trung tâm chế biến cà phê duy nhất ở
Phủ Quỳ thời kì này. Tại cơ sở đó, cà
phê đợc sơ chế qua nhiều công đoạn
bởi một hệ thống máy móc: máy nghiền,
máy xay, máy lựa chọn nhân (mỗi ngày
có thể chọn 1500 kilô cà phê), máy sấy
điện. Trải qua các công đoạn đó, cà phê
đợc đóng bao cẩn thận và đợc chở về
cảng Bến Thuỷ. Từ Bến Thuỷ, cà phê
đợc chở ra cảng Hải Phòng và đợc
xuất khẩu ra thị trờng chính là nớc
Pháp và một số nớc khác trong khu
vực. Giá thành của cà phê đợc vận
chuyển ra bến Hải Phòng hay sang
thành phố Havrơ (Pháp), kể cả chi phí
đài tải, bảo hiểm và chi phí cho việc
bán, tính bằng đồng bạc Đông Dơng
đợc ghi trong bảng 1:
Bảng 1
Tuổi của đồn điền năm thứ Số vốn Ra tận bến
4 5 6 7 8 9-10

Hải Phòng 1đ,31

1,04

0,90

0,80


0,74

0,72

Số vốn có lãi 8%
Havrơ 1,46

1,19

1,05

0,95

0,89

0,87

Hải Phòng 0,85

0,68

0,59

0,53

0,50

0,48

Số vốn không có lãi

Havrơ 1,00

0,83

0,74

0,68

0,65

0,63

Nguồn [7, tr.33].

Giá cà phê lên xuống theo thị
trờng và nằm ở mức trung bình là 1
đồng Đông Dơng/1kg. Nh vậy, đối
chiếu với năng suất thu hoạch trung
bình của từng loại cà phê chúng ta có
thể tính đợc mức trung bình chung
sản lợng cà phê thu hoạch đợc trên
một héc ta là 500 kg, điều đó cũng đồng
nghĩa là trên mỗi héc ta nh thế ngời
ta có thể thu hoạch đợc 500 đồng. Một
đồn điền rộng lớn với hàng trăm héc ta
cà phê, trừ các khoản chi phí từ việc
mua đất cho đến công việc trả tiền
lơng khoảng 400 đồng thì số tiền lãi
mà các điền chủ thu đợc rất lớn. Trong
khi đó trên thị trờng quốc tế, cà phê

Phủ Quỳ rất có uy tín bởi chất lợng
của nó và đợc khách hàng rất a thích.
Chính các nhà canh nông ngời Pháp
cho biết rằng Trong bất kì hoàn cảnh
nào, tại thị trờng Pháp, cà phê Phủ
Quỳ cũng có thể cạnh tranh với các loại
cà phê của Brazin [7, tr.21]. Điều đó
chứng tỏ việc kinh doanh cà phê trong
các đồn điền ở Phủ Quỳ rất có tơng lai.
Vì thế mà ở Phủ Quỳ, nhất là từ sau
chiến tranh thế giới thứ nhất trở đi
càng có nhiều nhà thực dân bao gồm các
cá nhân cũng nh các công ty bỏ vốn lập
đồn điền cà phê. Đáng chú ý nhất là
công ty lâm sản và diêm Đông Dơng,
trụ sở đóng ở tại Bến Thuỷ. Công ty này
có những đồn điền lớn ở Phủ Quỳ nh
đồn điền Rạch, đồn điền Cát Mộng. Từ
sau khủng hoảng kinh tế thế giới 1933,
công ty này đã bỏ ra một số vốn khổng
lồ để mua lại hầu hết các đồn điền cà
phê lớn ở vùng này và tiếp tục kinh
doanh.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007




10
3. Tác động của việc kinh
doanh cà phê đối với đời sống của
nhân công trong các đồn điền
Việc hàng loạt các đồn điền cà
phê lớn đợc thiết lập ở Phủ Quỳ trong
thời gian từ năm 1910 cho đến năm
1945 đã thu hút một lực lợng nhân
công đông đảo ở khắp mọi nơi đến đây
làm việc.
Trớc hết là bộ phận ngời Mờng
và ngời Kinh sinh sống ở trong khu
vực, họ tranh thủ lúc thời vụ nông nhàn
vào các đồn điền làm việc để có thêm
thu nhập. Đông đảo nhất là lực lợng
nông dân của các huyện đồng bằng
trong tỉnh nh Diễn Châu, Yên Thành,
Nghi Lộc, Hng Nguyên, Nam Đàn :
Những ngời đáng thơng ở các đồng
bằng gần Phủ Diễn hình nh nhân dịp
này để kiếm tiền lơng từ 30 đến 40 xu
mà không phải xa hẳn quê hơng bản
quán [3, tr.22]. Bên cạnh đó, một bộ
phận không nhỏ ngời thuộc các tỉnh
phía Bắc nh: Thanh Hoá, Ninh Bình,
Nam Định, Thái Bình cũng có mặt ở
vùng đất này. Họ đều là những ngời
nông dân nghèo khổ bị thực dân, phong
kiến tớc đoạt hết ruộng đất, không còn
chút đất đai nào để làm ăn sinh sống,

buộc phải rời bỏ quê hơng bản quán
tha phơng khắp xứ. Thông qua lực
lợng mộ phu, họ đến vùng Phủ Quỳ
làm ăn và trông chờ sự đổi đời từ các
công việc lao động trong các đồn điền
mang lại. Bên cạnh các lao động công
nhật, làm theo mùa vụ, một số công
nhân đã ở lại trong các lán trại của các
đồn điền cà phê và dần dần trở thành
đội ngũ công nhân nông nghiệp. Nh
vậy, tác động tích cực trớc mắt của các
đồn điền cà phê đem lại là đã giải quyết
công ăn việc làm cho một bộ phận lớn
ngời nông dân nghèo khổ, thất nghiệp
trong tỉnh cũng nh ngoại tỉnh vào làm
việc trong các đồn điền. "Đến năm 1936
đội ngũ nhân công làm trong các đồn
điền ở Phủ Quỳ lên tới khoảng 3000
ngời" [1, tr.19]. Tuy nhiên để kiếm
đợc miếng cơm manh áo, ngời lao
động làm thuê trong các đồn điền phải
đổi lại những gì?
Với hàng loạt công việc nặng nhọc
từ khai hoang cho đến việc trồng trọt
chăm sóc và thu hoạch cà phê nhng
ngời công nhân chỉ nhận đợc đồng
lơng rất ít ỏi. Trung bình "mỗi ngời
đàn ông đợc nhận từ 0,35 đồng cho
đến 0,40 đồng, còn đàn bà từ 0,20 đồng
cho đến 0,25 đồng mỗi ngày" [7, tr.32].

Đối với ngời làm thuê theo chế độ
nhận khoán, công việc làm theo chế độ
nhận khoán là tu bổ đờng sá, đào hố
trồng cây đợc trả 0,02 đồng mỗi ngày/
ngời. Công việc hái quả cà phê đợc
trả tuỳ theo mức độ khó khăn: "từ 0,015
đến 0,02 đồng/ 1kilô, rồi đến 0,03 đồng
cho đợt đầu hái, 0,01 đồng 1 kilô vào
cuối đợt hái" [5, tr.33]. Trong khi đó các
đốc công ngời Pháp, quản lí ngời
Nhật chỉ với công việc nhàn hạ là quản
lí nhân công và đốc thúc các nhân công
làm việc, sinh hoạt trong điều kiện đảm
bảo, mức lơng mỗi tháng đến 120
đồng, các ông kí ngời Việt thu nhập
mỗi tháng cũng có tới 50 đồng, còn thu
nhập bình quân của mỗi chủ đồn điền
khoảng từ 300 đến 400 đồng một tháng.
Trong khi đó, điều kiện ăn ở, sinh
hoạt của nhân công trong các đồn điền
cà phê cũng không đợc đảm bảo nh



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



11
trong một số văn bản nghị định mà

chính quyền thực dân đa ra: "chủ phải
phát thịt và rau tơi sao cho đủ 3200
ca-lo mỗi ngày, phải tổ chức phát thuốc
và y tế cho công nhân đồn điền " [6,
tr.151]. Họ làm việc dới sự điều khiển
của những tên cai cực kỳ gian ác,
thờng xuyên bị những tên cai này
đánh đập nh tên cai Hoài ở đồn điền
Rạch, tên cai Thơ, đốc công Ba-Xuy ở
đồn điền Tiên Sinh, tên Darmong ở đồn
điền Trạm Lụi Công nhân phải làm
việc ngày hơn 10 tiếng đồng hồ, việc ăn
ở, lao động trong điều kiện hết sức khổ
cực. Họ phải ở trong những gian nhà lá
hết sức chật chội, xung quanh chiếc
giờng nhỏ là bi-đông đựng nớc, nồi
niêu, quần áo, chăn màn mọi sinh
hoạt của họ sau mỗi ngày làm việc đều
diễn ra ở đó. Đối diện với khu nhà ở của
nhân công là những chuồng bò hôi hám.
Với điều kiện ăn ở, sinh hoạt nh thế
nên: "đồn điền Cát Mộng từ năm 1913
đến năm 1917 có 60 công nhân đã chết
20 ngời. Từ năm 1929 đến năm 1938
đồn điền này không có một bóng dáng
trẻ em" [2, tr.33]. Nhân công làm việc
trong các đồn điền hầu nh không có
chút thời gian để nghĩ tới việc học hành,
để tiếp xúc hay tham gia sinh hoạt văn
hoá

Chính cuộc sống lao động tồi tàn
nh vậy, nên trong lòng mỗi nhân công
luôn ấp ủ một tinh thần đấu tranh để
giải thoát thân phận. Vì thế, từ năm
1930 trở đi, trong các đồn điền Phủ Quỳ
đã hình thành một phong trào đấu
tranh khá mạnh mẽ của nhân công góp
phần to lớn làm nên thắng lợi trong
công cuộc đấu tranh giành chính quyền
Tháng Tám năm 1945 ở vùng đất này.
Các cuộc đấu tranh đó còn có ý nghĩa
hết sức to lớn trong công cuộc đấu tranh
chung để giành chính quyền ở tỉnh
Nghệ An.
4. Kết luận
Có thể nói rằng ngời Pháp đã đặt
chân đến vùng Phủ Quỳ từ rất sớm để
khai thác đất đai, lập nên những đồn
điền cà phê rộng lớn ở đây. Điều đó cho
chúng ta thấy tiềm năng đất đỏ trong
việc trồng các loại cây công nghiệp,
nhất là cây cà phê đem lại nguồn lợi rất
lớn trong kinh tế. Qua đó có thể học hỏi
những kinh nghiệm trồng trọt cà phê,
kĩ thuật chăm sóc cà phê, bảo vệ đất đai
cũng nh việc kinh doanh cà phê kết
hợp với chăn nuôi gia súc lớn để thu
đợc kết quả nh mong muốn.
Cà phê Phủ Quỳ một thời đợc
nhân dân trong nớc và nớc ngoài rất

a chuộng. Điều đó đã khẳng định vị
trí, chất lợng của nó trên thị trờng,
nhng hiện nay điều đó dờng nh
không còn nữa, ngay cả nhân dân trong
tỉnh Nghệ An, ngời ta thậm chí cảm
thấy lạ lẫm khi nhắc tới tên Phủ Quỳ.
Việc kinh doanh cà phê trong các
đồn điền ở Phủ Quỳ với lối kinh doanh
t bản dựa trên lao động của ngời bản
xứ đã có những tác động hai mặt đến
tình hình kinh tế - xã hội nơi đây. Tuy
vậy, lực lợng lao động trong các đồn
điền cà phê vẫn phải chịu nhiều tác
động thiệt thòi nhất. Vấn đề chế độ
dành cho nhân công làm việc trong các
đồn điền là một trong những vấn đề
quan trọng nhất khiến cho việc kinh
doanh cà phê trong các đồn điền phải



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



12
dừng lại. Từ đó chúng ta rút ra bài học
cho việc làm kinh tế hiện nay.
Đồn điền cà phê Phủ Quỳ đã đi vào
lịch sử, đã đi vào kí ức của mỗi ngời

dân nơi đây. Nhắc lại nó là chỉ để cho
con ngời sống ngày hôm nay không
đợc quên quá khứ, để có thể cùng
nhau xây dựng một Phủ Quỳ trở nên
trù phú.

Tài liệu tham khảo

[1] Ban chấp hành Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn, Lịch sử Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn, sơ
thảo, tập 1(1930-1945), NXB Khí tợng thuỷ văn Hà Nội, 1990.
[2] Liên hiệp công đoàn Nghệ Tĩnh, Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn
Nghệ Tĩnh 1885- 1945, NXB Lao động, Hà Nội, 1987.
[3] H. Cusơrutsê, Trong những vùng đất đỏ ở miền Bắc Trung kì, Tập san chấn hng
kinh tế Đông Dơng, Số 534, 1928.
[4] G.M Castagnol, Báo cáo về việc khai hoang ở miền Bắc Trung kì, Tập san Chấn
hng kinh tế Đông Dơng (B.E.I), trang 212B-216B, số 424,1930.
[5] Yvơ Henry, Kinh tế nông nghiệp Đông Dơng, Bản dịch của Hoàng Đình Bình, t
liệu khoa Lịch sử, Trờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Hà Nội,
1932.
[6] Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam- sự hình thành và sự phát triển
của nó từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình, NXB Sự thật, Hà Nội, 1957.
[7] Phạm Mạnh Phan (dịch), Tài liệu về cây cà phê Phủ Quỳ, Lu trữ tại th viện
tỉnh Nghệ An, Kí hiệu NA 401.


Summary

The Shrub plantation in Phu Quy (Nghe An) under French
colony


In this article we present the appearance and economic benefits of the shrub
plantation in Phu Quy (Nghe An) during the French domination time such as the
sources, specific feattures, cultivation and business method as well as the effects
made by coffee trade on living condition of man power at this plantation. It can be
concluded from the serearch that the shrub has an important role in agricutural
economy of Phu Quy.

(a)
Cao học 12 Lịch sử Việt Nam, Trờng Đại học Vinh.

×