Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bài giang Lịch sử VN 30-45

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.71 KB, 27 trang )

Lịch sử Việt Nam 1930 1945
1. Phong trào cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1930 1935.
1.1. Thời kỳ 1930 1931.
1.1.1. Phong trào cách mạng trên toàn quốc
- Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 1930 có 2 biến cố lớn: cuộc bạo động Yên Bái của Việt Nam Quốc dân
Đảng (9.2.1930) nổ ra và bị dập tắt, chấm dứt hẳn sự chi phối của hệ t tởng t
sản đối với cuộc vận động cách mạng Việt Nam; Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời đánh dấu bớc ngoặt vĩ đại, từ đó giai cấp công nhân Việt Nam nắm quyền
lãnh đạo cách mạng đa quần chúng lao động bị áp bức bóc lột và các tầng lớp
yêu nớc ra đấu tranh, thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cuộc khủng hoảng kinh tế của thế giới CNTB 1929 1933, trong đó có
Pháp đã tác động sâu sắc đến kinh tế Đông Dơng, đẩy hàng vạn công nhân
vào con đờng thất nghiệp, nông dân điêu đứng vì su cao thuế nặng, giai cấp t
sản, tiểu t sản cũng lao đao. Nạn thiên tai thờng xuyên hoành hành khiến cho
đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Sự bóc lột kinh tế, chế độ chính trị nghẹt thở và sự đàn áp dã man của thực
dân Pháp càng làm tăng thêm lòng căm phẫn của nhân dân ta. Đói khổ và hờn
căm đã làm cho nhân dân Việt Nam, đặc biệt là công nhân và nông dân sẵn
sàng vùng dậy đấu tranh. Trong khi đó tiếng vang của cách mạng ở Trung
Quốc, ấn Độ, của chế độ CNXH ở Liên Xô đã cổ vũ thêm tinh thần đấu
tranh của nhân dân ta.
Đó chính là những nguyên nhân làm bùng nổ phong trào công nông ở Việt Nam
những năm 1930 1931. Trong đó, yếu tố quyết định nhất làm nảy sinh phong
trào cách mạng là sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi
thành Đảng Cộng sản Đông Dơng). Phong trào đó là kết quả của những mâu
thuẫn kinh tế, chính trị trong lòng xã hội Việt Nam; Đảng Cộng sản Đông Dơng
đã phát động quần chúng đứng lên giải quyết mâu thuẫn đó.
- Diễn biến chính:
Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy ximăng Hải
Phòng, dệt Nam Định, hãng dầu Xôcôni Nhà Bè (SG), đồn điền cao su Dầu


Tiếng (Thủ Dầu Một), đồn điền cao su Phú Riềng, nhà máy sợi Nam Định,
nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy ca Bến Thuỷ, nhà máy Ba
Son, khu mỏ Mông Dơng. Đó là những phát pháo hiệu mở đầu phong trào
cách mạng mới ở nớc ta.
Nhân kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1- 5 1930, Đảng cộng sản Việt Nam
phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn trên phạm vi cả nớc.
ở Bắc Kỳ, công nhân khu mỏ Hồng Gai bãi công, biểu tình, ở Thái Bình,
nông dân hai huyện Duyên Hà và Tiên Hng biểu tình đòi bỏ su, giảm thuế, đòi
trả tự do cho những ngời bị bắt.
ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh từ Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Nam
đến Khánh hoà, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh. Đặc biệt, sáng ngày
1.5.1930 đã nổ ra cuộc biểu tình lớn của công nhân khu công nghiệp Bến
Thuỷ và nông dân các huyện Hng Nguyên, Nghi Lộc, mở đầu cho những ngày
đấu tranh quyết liệt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
ở Nam Kỳ, công nhân Nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn) và Nhà máy xe
lửa Dĩ An bãi công; nông dân các huyện Đức Hoà (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa
Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Cần
Thơ, Bến Tre, Trà Vinh, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi bỏ su, hoãn thuế.
1
Các cuộc đấu tranh ngày 1.5.1930 là một bớc ngoặt của phong trào cách
mạng 1930 1931. Lần đầu tiên dới sự lãnh đạo của Đảng, công nông nớc ta
biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động. Trong phong trào đã thể hiện rõ vai
trò lãnh đạo và tính tiên phong của giai cấp công nhân, mối liên minh giữa
công nhân và nông dân. Đồng thời, mục tiêu đấu tranh của họ không chỉ đòi
quyền lợi cho mình mà còn biểu thị tinh thần đoàn kết cách mạng với nhân
dân thế giới.
Sau đó, phong trào tiếp tục dâng cao. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1930, cả n-
ớc đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh (Bắc Kỳ: 17; Trung Kỳ: 82; Nam Kỳ: 22),
trong đó có 22 cuộc đấu tranh của công nhân, 9 cuộc biểu tình của nông dân
và 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Những ngày tháng 8.1930 khí thế của quần chúng đợc cổ vũ thêm bằng
khẩu hiệu kỷ niệm ngày quốc tế chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộc
Liên bang Xô viết. Truyền đơn xuất hiện ở hầu hết các thành phố lớn trong cả
nớc nh Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, trong các trại lính Pháp. Các cuộc
biểu tình tái diễn ở Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Long Xuyên,
Tháng 10.1930, ở Quảng Ngãi những cuộc biểu tình của nông dân liên tiếp
nổ ra. Cũng trong thời gian này những ngời cộng sản ở Bắc Kỳ đã vận động
một cuộc đấu tranh mới với khẩu hiệu phản đối Hội đồng đề hình cùng các án
xử tử những chiến sĩ cách mạng. Truyền đơn, biểu ngữ, cờ đỏ đợc rải, đợc treo
ở khắp nơi. Đồng thời là các cuộc nổi dậy của quần chúng ở Đình Vụ (Kiến
An), Tiền Hải (Thái Bình), Phủ Lý Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mời
Nga, chiều ngày 6.11.1930 đã xuất hiện cờ đỏ ở nhà máy nớc Hàng Đậu
(HN), truyền đơn đợc rải khắp thành phố.
Bớc sang năm 1931, do chính quyền thực dân khủng bố, phong trào giảm sút
mạnh. Tuy vậy ở Nam Bộ dân chúng vẫn sôi sục đấu tranh. Suốt trong tháng
1- 1931, công nhân Hãng dầu Xtanđa Nhà Bè, công nhân Nhà in Văn Võ Văn
ở Sài Gòn, công nhân Sở Xen Mỹ Tho, công nhân hãng FACM Sài Gòn đã tổ
chức bãi công, mít tinh, biểu tình. Nông dân các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Thủ
Dầu Một, Gia Định đòi cải thiện đời sống.
Từ tháng 2 đến tháng 4- 1931 các cuộc biểu tình của nông dân nổ ra ở Bạc
Liêu, Bến Tre, Long Xuyên. Nhân ngày 1-5-1931 nông dân nổi dậy ở Thạch
Phú (Bến Tre), Đức Hoà (Chợ Lớn), Châu Đốc. Công nhân Nhà bè (SG) vùng
dậy trong 2 ngày 16 và 24.3.1931.
Trong các tháng 4 và 5.1931, phong trào đấu tranh ở Quảng Ngãi tiếp tục
dâng cao. Nhân dân các tỉnh lân cận nh Đà Lạt, Khánh Hoà, Bình Định cũng
nổi dậy hởng ứng. Riêng ở Bắc Kỳ, từ đầu năm 1931 phong trào lắng dần.
Những đợt sóng dâng lên ở Hải Phòng, Hà Nội từ 23 đến 27.1.1931 là những
đợt sóng đấu tranh cuối cùng trớc khi bớc vào thoái trào.

1.1.2. Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh

- Nguyên nhân:
Trong phong trào cách mạng 1930 1931 trên toàn quốc, cuộc đấu tranh
của công nhân và nông dân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã nổi bật lên nh mũi
nhọn xung kích, làm tan rã bộ máy thống trị đế quốc thực dân và phong kiến ở
nông thôn Nghệ Tĩnh. Lần đầu tiên trong lịch sử nớc ta, nhân dân bị áp bức đã
giành đợc chính quyền ở nhiều vùng nông thôn hai tình Nghệ Tĩnh, xây dựng
nền chuyên chính dân chủ nhân dân theo kiểu Xô viết.
Nguyên nhân làm cho phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh đạt đến đỉnh
cao nhất trong cuộc đấu tranh của công nông cả nớc những năm 1930 1931
ngoài những nguyên nhân chung còn có những nguyên nhân riêng sau đây:
2
Cũng nh nhiều nơi khác ở Trung Kỳ, nhân dân Nghệ Tĩnh phải chịu ách
áp bức phong kiến trực tiếp của triều đình Huế một triều đình bù nhìn
đợc duy trì với những tàn tích trung cổ phản động.
Nghệ Tĩnh là những tỉnh nghèo nhất nớc ta: đồng bằng nhỏ, hẹp, dân c
đông, thiên nhiên khắc nghiệtTrong khi đó chính quyền thực dân phong
kiến không hề quan tâm đến phòng lụt, chống hạn mà chỉ ra sức vơ vét,
bóc lột làm cho dân chúng đói khổ, phải tha phơng cầu thực khắp nơi.
Nghệ Tĩnh cũng là nơi có một số cơ sở công nghiệp ở Thành phố Vinh
Bến Thuỷ - đây là những trung tâm kỹ nghệ lớn nhất Bắc Trung Kỳ, có nhà
máy xe lửa trờng Thi với 1500 công nhân, nhà máy diêm trên dới 1000
thợ, cảng Bến Thuỷ thu hút 500 phu khuân vác. Ngoài ra còn có 8 xởng
máy với số thợ mỗi xởng từ 60 đến 400 ngời. Đây là điều kiện thuận lợi
cho sự liên minh giữa công nhân và nông dân. Sự liên hệ này đã khiến cho
cuộc đấu tranh của họ hởng ứng nhau trực tiếp và hoà lẫn với nhau làm
một.
Ngoài những điều kiện kể trên, nhân dân Nghệ Tĩnh còn đợc thừa hởng
một truyền thống cách mạng lâu đời của cha ông để lại. Từ xa xa, nhân
dân Nghệ Tĩnh đã bao phen vùng dậy trong các cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh chống ngoại xâm. Kể từ khi Pháp xâm lợc nớc ta, Nghệ Tĩnh đã

sản sinh ra những ngời con kiệt xuất nh Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,
Nguyễn ái Quốc Truyền thống cách mạng đó và sự nghèo khổ đến cực
độ của công nhân và nông dân đã khiến cho Nghệ Tĩnh nh một đống cỏ
khô, chỉ chờ có lửa là bốc cháy, nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời.
Yếu tố quyết định làm cho những điều kiện trên biến thành hiện thực cách
mạng chính là sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức cộng sản ở Nghệ
Tĩnh từ những năm 1925 1926. Sự chú ý đặc biệt của đảng đối với Nghệ
- Tĩnh và tình hình cơ sở đảng nơi đây phát triển khá mạnh, là điều kiện
quyết định trực tiếp nhất cho sự bùng nổ cao trào cách mạng ở 2 tỉnh này.
Năm 1931, Nghệ Tĩnh có 2011 đảng viên, 399 hội viên công hội, 48464
hội viên nông hội, 6648 hội viên phụ nữ giải phóng và 2356 đoàn viên
thanh niên cộng sản.
Tóm lại, Nghệ Tĩnh năm 1930 1931 là điểm nóng nhất, là khâu mạnh nhất
của cách mạng nớc ta.
- Diễn biến:
Phong trào đấu tranh năm 1930 ở Nghệ Tĩnh đợc mở đầu bằng cuộc biểu
tình kỷ niệm ngày 1.5 tại khu vực Vinh Bến Thuỷ. Công nhân các nhà máy
xe lửa Trờng Thi, diêm, ca, nhà máy điện và nông dân các huyện Hng Nguyên,
Nghi Lộc đã sát cánh bên nhau đấu tranh.
Sau ngày 1.5, tại các vùng nông thôn nh Nghi Lộc, Anh Sơn, Nam Đàn,
Quỳnh Lu, Đô Lơng những cuộc biểu tình của nông dân diễn ra thờng xuyên.
Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 300 nông dân huyện Quỳnh Lu ngày 20.6 đòi
quyền lợi cho những ngời làm muối. Trong 2 tháng 6 và 7.1930 ở Nghệ Tĩnh đã
nổ ra 11 cuộc biểu tình lớn, với số lợng trên 12 ngàn ngời tham gia. Tại 2 địa ph-
ơng trên cũng xuất hiện nhiều tổ chức quần chúng nh công hội, nông hội, hội phụ
nữ giải phóng, thanh niên phản đế, hội cứu tế đỏ và các đội tự vệ.
Sang tháng 8, dân chúng không chỉ có đa đơn thỉnh cầu hay yêu sách mà
còn có cả những cuộc đập phá công đờng, sở rợu, dùng áp lực buộc bọn quan lại
sở tại phải hứa thực hiện đời hỏi của nhân dân đã diễn ra ở Nam Đàn, Can Lộc

Ngày 12-9-1930 nhân dân Thanh Chơng kéo đến huyện lỵ phá nhà giam, thả tù
chính trị, đốt giấy tờ, sổ sách. Cuối tháng 8, đầu tháng 9, những cuộc biểu tình
lớn của nhân dân đợc tổ chức ở Nghi Lộc, Nam Đàn, Võ Liệt, Can Lộc, Thạch
3
Hà, Cẩm Xuyên, Anh Sơn Trong các cuộc đấu tranh đó, mối liên hệ giữa thợ
thuyền và dân cày ngày càng chặt chẽ. Họ đã phối hợp hành động để đa ra những
khẩu hiệu đấu tranh vừa mang nội dung chính trị, vừa mang nội dung kinh tế.
Ngày 1-9-1930, 20 vạn nông dân Thanh Chơng biểu tình đòi bỏ thuế và giảm
thuế, đòi thả tù chính trị.
Những ngày đầu tháng 9.1930, cuộc đấu tranh càng trở nên quyết liệt.
Hàng chục vạn nông dân Nam Đàn, Thanh Chơng, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi
Lộc, Hng Nguyên, Đô Lơng, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh đã đứng lên,
nhiều cuộc xung đột đổ máu với cảnh sát và binh lính thực dân đã diễn ra. Nhiều
ngời đã ngã xuống nhng khí thế sôi sục của quần chúng vẫn không hề suy giảm.
Ngày 12.9.1930, đợt sóng đấu tranh dâng lên mạnh mẽ. Tại Hng Nguyên,
hơn 8000 nông dân đã liên kết với nông dân Nam Đàn tổ chức một cuộc biểu tình
lớn với mục đích ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Bến Thuỷ, hởng ứng
phong trào đấu tranh của nông dân các tỉnh bạn. Đoàn biểu tình xếp hàng dài hơn
1 km kéo đến thành phố Vinh, dẫn đầu là những ngời cầm cờ đỏ, 2 bên là đội
viên đội tự vệ đợc vũ trang bằng dao, gậy. Trên đờng đi, đoàn dừng lại một vài
nơi, vừa để phổ biến mục tiêu đấu tranh cho dân chúng, vừa củng cố lại đội ngũ.
Dòng ngời đợc bổ sung thêm cho đến gần Vinh lên tới 30 ngàn và xếp hàng dài
tới 4 km.
Máy bay Pháp đợc điều đến, chúng dội bom và xả súng liên thanh vào
đoàn biểu tình và làm chết 174 ngời. Ngày hôm sau khi nhân dân tổ chức đa tang
những ngời bị hại, Pháp lại cho máy bay ném bom giết chết thêm 43 ngời nữa.
Nh vậy trong 2 ngày 12 và 13-9-1930, thực dân pháp đã giết chết 217 ngời, làm
bị thơng 15 ngời, đốt cháy 277 nóc nhà, 2 làng Lộc Châu, Lộc Hải bị triệt hạ
hoàn toàn. Ngày 12-9-1930 đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam và trở
thành ngày căm thù bọn đế quốc, tởng niệm những ngời đã ngã xuống vì Tổ

quốc.
Sau ngày 12.9.1930, phong trào đấu tranh tiếp tục dâng cao, phát triển
thành cuộc đấu tranh vũ trang, làm cho hệ thống chính quyền đế quốc, phong
kiến bị tê liệt và tan rã nhiều nơi. Nhiều tri phủ, tri huyện bỏ trốn, nhiều hào lý
mang trả lại triện cho tri huyện xin thôi việc Thực dân Pháp đã tập trung lực l-
ợng, dùng khủng bố trắng kết hợp với các thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc hòng bóp
chết phong trào.
Trớc tình hình chính quyền địch tan rã, mặc dù Trung ơng Đảng cha có
chủ trơng giành chính quyền lúc này, các chi bộ đảng và Nông hội đỏ đứng trớc
nhiệm vụ thực tế là phải quản lý, điều hành hoạt động trong làng xã. Mô hình
Chính quyền xô viết Nga mà những ngời cộng sản Việt Nam tiếp thu đợc qua
sách báo, tài liệu huấn luyện đợc áp dụng, hình thức chính quyền mới lần đầu
tiên xuất hiện ở Việt Nam: Xô viết Nghệ Tĩnh (Thực tế, những năm 1930
1931, nhân dân Nghệ Tĩnh không gọi chính quyền cách mạng bằng từ Xô viết. Về
sau, căn cứ vào hoạt động và chức năng của chính quyền đó mà sử dụng khái
niệm Xô viết để gọi). Tuy còn thô sơ, nhng nó đã thực hiện chức năng của một
chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo:
Tại Nghệ An, chính quyền Xô viết ra đời tại các xã thuộc huyện Thanh Ch-
ơng, Nam Đàn, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hng Nguyên và Diễn Châu. Tại Hà Tĩnh,
chính quyền Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Đức Thọ, Thạch
Hà, Nghi Xuân và Hơng Khê.
o Chính quyền Xô viết ban bố và thực hiện các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân. Quần chúng đợc tự do tham gia các hoạt động đoàn thể nh
Nông hội, đội tự vệ, đoàn thanh niên cộng sản, phụ nữ giải phóng, hội
cứu tế đỏ tự do hội họp, thảo luận giải quyết các vấn đề xã hội.
o Về kinh tế, chính quyền Xô viết tịch thu ruộng đất, tiền thóc công chia
cho dân nghèo; bãi bỏ các thứ thuế vô lý của chính quyền thực dân nh
4
thuế thân, thuế chợ, thuế đò, chú ý đến công tác đắp đê, phòng lụt, tu
sửa cầu cống, đờng giao thông, tổ chức nhiều hình thức sản xuất để

quần chúng giúp đỡ nhau.
o Về văn hoá - xã hội, chính quyền xô viết tổ chức học chữ Quốc ngữ cho
nhân dân, xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, giữ vững trật tự an
ninh thôn xóm.
Hoạt động của Xô viết Nghệ Tĩnh nói lên sức sáng tạo của một chế
độ xã hội mới. Tên Đốc học Nguyễn Chấn đợc cử về quê dẹp loạn cộng
sản, tháng 7-1931 đã gửi báo cáo cho Khâm sứ Trung Kỳ: Hào lý bỏ
trốn, cộng sản truất quyền họ và cử ngời tin cậy lên thay. Họ cấm thu thuế,
tự chia ruộng đất. Buổi tối ban chấp hành của họ hội họp để ban hành và
thực hiện đờng lối chính sách của các Xô viết
Tóm lại, Xô viết là tổ chức đại diện cho lẽ phải, cho công lý, đứng ra
giải quyết tất cả những vụ việc mà dân chúng không thể tự giải quyết nổi.
Chính vì thế, mặc dù còn thô sơ nhng Xô viết thực sự là chính quyền của
dân, do dân, vì dân, làm chức năng của một chính quyền cách mạng thực
thụ.
Trớc cuộc bạo động của quần chúng và sự hình thành các Xô viết, bọn thực
dân phong kiến không còn do dự nh trớc nữa. Một mặt chúng cho kiểm điểm lại
các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục mà chúng đã áp dụng
trớc đó, mặt khác chúng bất chấp d luận quyết định dùng bạo lực để dìm chính
quyền Xô viết trong biển máu. Toàn bộ chính sách của nhà cầm quyền trong giai
đoạn này là khủng bố trắng.
Trớc sự đàn áp đẫm máu của kẻ thù, Đảng Cộng sản Việt Nam đã huy
động quần chúng đứng ra đấu tranh chống khủng bố trắng và nhân dân Nghệ
Tĩnh đã xả thân bảo vệ quyền tự do vừa mới giành đợc. Suốt mấy tháng ròng, họ
đã sử dụng hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu kết hợp với vũ trang tự vệ và
phát triển chính quyền Xô viết. Tin tức về Nghệ Tĩnh bất khuất đã truyền nhanh,
lan rộng ra khắp cả nớc. Khắp nơi từ Bắc chí Nam, nông dân, công nhân đứng lên
bênh vực Nghệ Tĩnh đỏ. Quốc tế cộng sản, Đảng cộng sản Pháp đã viết th gửi
những ngời cộng sản và nhân dân Việt Nam tỏ tình ủng hộ, khen ngợi và góp ý
để đẩy mạnh phong trào.

ở nớc ngoài Nguyễn ái Quốc theo dõi sát sao tình tình diễn biến phong
trào đấu tranh ở trong nớc. Ngời gửi báo cáo tới Quốc tế cộng sản và Quốc tế
nông dân đề nghị giúp đỡ, ủng hộ cách mạng Việt Nam. Ngời gửi th cho Đảng
Cộng sản Đông Dơng nhấn mạnh việc tăng cờng công tác xây dựng Đảng về
chính trị, t tởng và tổ chức, xây dựng các đoàn thể quần chúng nh Công hội,
Nông hội; tăng cờng khối liên minh công nông; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết
điểm của Đảng trong quá trình lãnh đạo phong trào.
Qua mấy tháng khủng bố trắng điên cuồng, thực dân Pháp đã không dập
tắt đợc phong trào, trái lại càng gieo rắc thêm sự oán giận, căm thù. Chúng đã
dùng một chính sách hết sức dã man, tàn bạo trên cơ sở khủng bố trắng, đồng
thời tăng cờng mọi thủ đoạn dụ dỗ, lừa bịp chính trị hòng bóp chết Xô viết Nghệ
Tĩnh. Song song với việc lập thêm các đồn binh, cuối năm 1930 đầu năm 1931,
chính quyền thực dân đề ra chính sách dụ hàng, phát thẻ quy thuận kêu gọi đầu
thú, tổ chức rớc cờ vàng nhằm chia rẽ và đánh vào tâm lý cầu an của dân
chúng. Đồng thời chúng hứa hẹn một loạt các cải cách về kinh tế nhằm xoa dịu
khí thế đấu tranh của nhân dân .
Mặc dù tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn của địch nhng do điều kiện
khách quan bất lợi về nhiều mặt nên phong trào ở Nghệ Tĩnh dần dần đi xuống.
Đặc biệt tới tháng 3 - 1931, khi cơ quan TW Đảng ở Sài Gòn bị phá vỡ, và tháng
4,5 - 1931 nhiều đồng chí trong xứ uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ bị bắt, cán bộ bị thiếu.
Việc hớng dẫn chỉ đạo do đó không sát hợp, nhiều địa phơng đi chệch chủ trơng.
5
Tình hình trên diễn ra đúng vào lúc nạn đói hoành hành. Trớc cuộc khủng bố của
địch, chính quyền Xô viết đến lúc không thể tồn tại đợc nữa và đến khoảng giữa
năm 1931, phong trào bị thất bại.
- Kết quả, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm
+ Kết quả, ý nghĩa: Xô viết Nghệ Tĩnh có một vị trí lịch sử vô cùng quan
trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nớc ta.
Trong phong trào này, lần đầu tiên dới sự lãnh đạo của Đảng đã xây dựng đợc
khối liên minh công nông chặt chẽ do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Nhờ đội quân hùng mạnh đó, phong trào cách mạng 1930 1931 đã xây
dựng đợc chính quyền Xô viết ở một số vùng nông thôn thuộc hai tỉnh này. Tại
đay, chính quyền của đế quốc phong kiến bị lật nhào thay thế vào đó là một chính
quyền mới, một nền chuyên chính dân chủ nhân dân mà thực chất là chuyên
chính của công nông dới hình thức Xô viết. Chính quyền đó giải quyết vấn đề
ruộng đất cho nông dân, xây dựng những trật tự mới với những thuần phong mỹ
tục ở nông thôn, mầm mống của cuộc cách mạng văn hoá t tởng sau này.
Mặc dù có những thành tích hết sức to lớn nhng cuối cùng Xô viết Nghệ
Tĩnh vẫn thất bại. Nguyên nhân chính là nổ ra cha đúng thời cơ. Năm 1839 tại
Nghệ Tĩnh đã có một số điều kiện thúc đẩy nhân dân 2 tỉnh nổi dậy. Tuy nhiên,
tình thế cách mạng trong toàn quốc cha chín muồi, đế quốc Pháp tuy gặp khủng
hoảng kinh tế nhng vẫn còn mạnh. Do đó khi Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra, nhân dân
ta đã chiến đấu anh dũng nhng trong điều kiện lực lợng so sánh quá chênh lệch
nên khi địch khủng bố ác liệt thì phong trào đi đến thất bại.
Mặt khác, Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra khi Đảng ta mới ra đời, kinh nghiệm
cha có nên không tránh khỏi một số sai lầm, khuyết điểm. Những sai lầm đó biểu
hiện ở chỗ: xứ uỷ Trung Kỳ đã vận dụng chiến lợc và giải quyết mối quan hệ
giữa 2 nhiệm vụ phản đế và phản phong cha thật đúng, cha nhận thức đợc rằng kẻ
thù nguy hại nhất lúc đó là thực dân Pháp, do đó cha chú trọng tập hợp mọi lực l-
ợng phản đế vào mặt trận dân tộc thống nhất, cha triệt để phân hoá hàng ngũ kẻ
thù. ở một số địa phơng trong quá trình thực hành cách mạng đã mắc sai lầm, lúc
đầu thì tả khuynh, lúc thì hữu khuynh. Đặc biệt vào những tháng đầu năm 1931,
trớc sự khủng bố của thực dân Pháp, phong trào gặp nhiều khó khăn, trong Đảng
xuất hiện những dao động về lập trờng t tởng. Xứ uỷ Trung Kỳ đã không biết xử
lý đúng mà lại đề ra chủ trơng trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, tiến
hành thanh trừng nội bộ. Chủ trơng sai lầm đó đề ra giữa lúc địch đang khủng bố
làm cho đảng và phong trào cách mạng thêm gặp khó khăn.
Ngoài những vấn đề nêu trên, các cấp bộ đảng ở Nghệ Tĩnh còn phạm
những sai lầm, thiếu sót trong việc vận dụng sách lợc và nghệ thuật chỉ đạo
phong trào, cha triệt để thực hiện chủ trơng của Đảng là vũ trang bảo vệ lực lợng,

tiến thoái không nhịp nhàng, đúng lúc.
Xô viết Nghệ Tĩnh là thành quả tất yếu của tiến trình đấu tranh giai cấp
của công nhân và nông dân từ tay không đứng lên tự giải phóng. Nó cũng chứng
tở rằng dới sự chỉ đạo của Đảng, công nhân và nông dân là 2 lực lợng chủ yếu
của cách mạng Việt Nam có khả năng lật đổ nền thống trị của đế quốc và phong
kiến, xây dựng một cuộc sống mới.
+Bài học kinh nghiệm: Tuy cha giành đợc thắng lợi nhng phong trào cách
mạng 1930 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đã đem lại cho Đảng ta
nhiều bài học quý báu, đã rèn luyện lực lợng cho cách mạng Tháng Tám sau
này.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cách mạng 1930 1931 đã đợc Đảng
ta tổng kết: Thành quả lớn nhất của phong trào 1930 1931 thành quả mà
cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến sau đó đã không thể
xoá nổi là chỗ nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh
đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta, là ở chỗ nó đem lại
6
cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản; đồng thời đem lại cho đông
đảo quần chúng công nông lòng tin ở sức lực cách mạng vĩ đại của mình Đó là
bớc thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển
về sau của cách mạng. Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp
rung trời chuyển đất những năm 1930 1931, trong đó công nông đã vung ra
nghị lực phi thờng của mình thì không thể có cao trào những năm 1936
1939.
Phong trào cách mạng 1930 1931 là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và
quần chúng cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Phong trào cách mạng 1930 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đợc đánh giá
cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế cộng sản đã khẳng
định: Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dơng đã góp phần tăng
thêm ảnh hởng cộng sản trong cái xứ thuộc địa, nhất là các nớc phơng Đông.
Trong phiên họp ngày 11.4.1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban chấp hành

QTCS đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dơng là một bộ phận độc
lập trực thuộc QTCS.

1.2. Thời kỳ 1932 1935.
1.2.1. Đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng
1.2.2. Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dơng (3.1935)
Đầu năm 1935, khi hệ thống tổ chức của đảng đợc xây dựng và chắp nối
lại, Ban lãnh đạo hải ngoại quyết định triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ nhất. Đại
hội tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31.3.1935 tại Ma Cao (áo Môn, trung Quốc).
Tham dự đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ ở
trong nớc và các tổ chức của Đảng đang hoạt động ở nớc ngoài.
- Nội dung:
Sau khi phân tích, đánh giá tình hình cách mạng thế giới và trong nớc,
kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo của các cấp bộ
đảng trong những năm 1932 1935, đại hội nhận định: mặc dù các tổ chức
Đảng đã đợc khôi phục, lực lợng của đảng vẫn cha phát triển, ở các vùng công
nghiệp công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng cha thật thống
nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng cha đợc chặt chẽ Đại hội nêu rõ nhiệm
vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trớc mắt là củng cố và phát triển đảng,
tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội thông qua nghị quyết chính trị, điều lệ đảng, các nghị quyết về
vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ; về công tác liên
minh phản đế; về công tác trong các dân tộc thiểu số; về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội đã bầu ra BCHTW Đảng gồm có 13 ngời, trong đó có Lê Hồng
Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên BCHTW Đảng nhất trí cử Nguyễn ái
Quốc là đại diện của đảng bên cạnh QTCS.
- ý nghĩa:
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng.
Nó đã khôi phục hệ thống tổ chức của đảng từ TW đến địa phơng, từ trong nớc ra
ngoài nớc. Đó là sự chuẩn bị điều kiện cần thiết để đảng bớc vào thời kỳ đấu

tranh mới.
Tuy nhiên, lúc đó tình hình thế giới và trong nớc đã có nhiều thay đổi,
Đảng phải kịp thời căn cứ vào sự phát triển của cách mạng để đề ra phơng hớng
hoạt động thích hợp. Nhng đại hội lại cha tổng kết đợc kinh nghiệm lãnh đạo của
Đảng trong 5 năm qua kể từ khi Đảng thành lập, nhất là trong thời kỳ đấu tranh
khôi phục và phát triển phong trào cách mạng. Thiếu sót của đại hội là không
nhạy cảm với tình hình mới, không thấy rõ nguy cơ CNPX trên thế giới và khả
năng mới để đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do,
cơm áo, hoà bình. Do đó, đại hội không đề ra đợc những chuyển hớng về chỉ đạo
7
chiến lợc và biện pháp phù hợp với tình hình mới. Thiếu sót này sẽ đợc Ban chấp
hành Trung ơng khắc phục sau khi có Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng
sản.

2. Phong trào dân chủ 1936 1939.
2.1.Tình hình thế giới và trong nớc trong những năm 1936 1939.
- Tình hình thế giới:
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 1933 đã tác động nặng nề
đến nhiều nớc TBCN, mâu thuẫn trong lòng mỗi nớc t bản và mâu thuẫn giữa các
nớc đế quốc ngày càng gay gắt. Trong khi đó, Liên Xô - nớc XHCN đầu tiên trên
thế giới đang trên đà phát triển. Hình ảnh đất nớc Xô viết đã và đang trở thành
niềm cổ vũ lớn lao đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Phong trào cách
mạng và giải phóng dân tộc bùng nổ ở nhiều nớc. Trớc tình hình đó, giới cầm
quyền ở một số nớc t bản đã đối phó bằng cách đa đất nớc vào con đờng phát xít
hoá, chúng chuyển toàn bộ nền kinh tế phục vụ cho chiến tranh, thi hành những
chính sách mị dân kết hợp sử dụng bạo lực đàn áp lực lợng tiến bộ trong nớc và
những ngời chống đối, gieo rắc t tởng sôvanh, phân biệt chủng tộc. Chúng chuẩn
bị tiến hành chiến tranh để nô dịch, cớp bóc các dân tộc khác. Thế lực của bọn
phát xít ngày càng bành trớng. CNPX hình thành đầu tiên ở Italia (1922), Đức
(1933) và Nhật (1932), chúng liên kết với nhau thành một khối. Ngày

25.11.1936, Nhật Bản và Đức ký Hiệp ớc chống QTCS, tháng 11.1937, Italia
cũng tham gia ký hiệp ớc này. Trục phát xít Beclin Tôkiô - Rôma hình thành.
CNPX còn xuất hiện ở một số nớc khác nh Ba Lan, Rumani, Nam Phi bành tr-
ớng sang cả Anh, Pháp, Mỹ. CNPX và nguy cơ chiến tranh đe doạ toàn nhân loại.
+ Tháng 7 1935, Đại hội lần thứ VII QTCS đợc triệu tập tại Matxcơva
với sự tham dự của 65 đoàn đại biểu thay mặt cho các Đảng cộng sản trên thế
giới. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dơng do Lê Hồng Phong dẫn đầu lần
đầu tiên tham dự đại hội, Nguyễn ái Quốc đang công tác tại Liên Xô đợc Đảng
Cộng sản Đông Dơng cử là đại biểu chính thức của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dơng.
Đại hội VII giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của phong trào cộng sản
quốc tế, trong đó có những vấn đề thiết yếu sau:
xác định kẻ thù trớc mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là
CNTB hay CNĐQ nói chung mà là CNPX
Nhiệm vụ trớc mắt của giai cấp công nhân cha phải là đấu tranh đánh
đổ toàn bộ CNTB, thiết lập chuyên chính vô sản, xây dựng CNXH mà
là đấu tranh chống CNPX, giành dân chủ và bảo vệ hoà bình.
Về công tác tổ chức, thiết lập liên minh giữa giai cấp nông dân và công
nhân, trên cơ sở đó thành lập MTND rộng rãi.
Đối với các nớc thuộc địa, nửa thuộc địa xây dựng MTTN chống đế
quốc, mặt trận đó có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc đấu tranh
của mỗi nớc ở thời điểm này.
Nghị quyết của Đại hội VII QTCS đã kịp thời giúp các Đảng cộng sản đề
ra chủ trơng đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh từng nớc, đã thống nhất hành động
cách mạng của giai cấp công nhân thế giới trong một mục tiêu chung. Tại đại
hội, thành tích đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông D-
ơng đã đợc đánh giá cao. Đảng Cộng sản Đông Dơng đợc công nhận là đội ngũ
kiên cờng trong phong trào cộng sản quốc tế. Lê Hồng Phong đợc bầu làm uỷ
viên BCH QTCS.
Lúc này, phong trào chống CNPX ở một số nớc giành đợc thắng lợi quan

trọng nh ở Trung Quốc, Tây Ban Nha đã khẳng định tính đúng đắn của Nghị
quyết Đại hội VII QTCS.
8
+ Đầu năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp thành lập (bao gồm ĐCS, ĐXH,
Đảng cấp tiến, Tổng liên đoàn lao động và các đoàn thể quần chúng của 3 Đảng
trên). Tháng 5.1936, MTND Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và
đứng ra lập nội các mới do lãnh tụ ĐXH Lêông Blum làm Thủ tớng. Chính phủ
này vẫn nằm trong khuôn khổ chính quyền t sản, vẫn duy trì hệ thống thuộc địa
nh cũ nhng trớc sự đấu tranh của ĐCS và cao trào chống phát xít của nhân dân,
chính phủ Blum đã buộc phải thi hành một số điểm mà cơng lĩnh của MTND đề
ra. Đối với thuộc địa, chính phủ Pháp có 3 quyết định quan trọng: thả tù chính trị,
thành lập uỷ ban điều tra tình hình thuộc địa đặc biệt ở Bắc Phi và Đông Dơng,
thi hành một số cải cách xã hội cho ngời lao động.
Cùng trong thời gian này, cuộc đấu tranh của nhân dân các nớc thuộc địa
Pháp có những dấu hiệu mới, đặc biệt là ở Angiêri, Tuynidi, Marôc trở thành
nguồn cổ vũ lơn lao cho nhân dân thuộc địa Đông Dơng.
- Tình hình trong nớc:
+ Kinh tế: do chính sách cai trị của thực dân Pháp, tình hình kinh tế có
những thay đổi đáng kể. Những năm 1936 1939 là thời kỳ phục hồi và phát
triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển đó tập trung vào một số
ngành kinh doanh các hàng chiến lợc, đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh. Trong
thời kỳ này không xuất hiện những ngành kinh tế mới, nền kinh tế Việt Nam vẫn
ở trong tình trạng phụ thuộc, lạc hậu.
+ Xã hội: do chính sách thuế khoá nặng nề, cộng thêm vào đó là sự bóc lột
ngày càng tàn tệ của thực dân Pháp, tình cảnh các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
gặp rất nhiều khó khăn. Năm 1929, ở Việt Nam có 22,1 vạn công nhân nhng
phần lớn thất nghiệp hoặc không đợc tuyển dụng vào các cơ sở kinh tế. Đến năm
1937 mới chỉ có 15 vạn công nhân có việc làm. Lơng của công nhân trong những
năm 1936 1939 thấp hơn thời kỳ đầu khủng hoảng. Trong khi đó giá sinh hoạt
lại tăng vọt, mức sống của những ngời làm công ăn lơng giảm sút nghiêm trọng.

Trong những năm 1936 1939, đã số nông dân không có ruộng đất, hoặc
có ít ruộng, họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê,
làm mớn. Địa tô ruộng đất chiếm gần nửa hoa lợi mùa màng, ngời tá điền còn
phải làm không công cho địa chủ một số ngày công khi cần. Nạn thiên tai ngày
càng hoành hành càng khiến cho nông dân thêm điêu đứng.
T sản Việt Nam bị thuế khoá nặng nề và bị t bản chèn ép. Một số bị phá
sản, một số trụ lại đợc nhng vốn nhỏ bé và không có khả năng lập công ty lớn.
Vai trò của t sản Việt Nam không đáng kể trong nền kinh tế. Thơng nhân Việt
Nam phần đông có số vốn nhỏ bé.
Tầng lớp tiểu t sản trí thức bị thất nghiệp nhiều, những ngời có việc làm thì
bị ngợc đãi. Sinh viên tốt nghiệp cũng không có việc làm, công chức lơng thấp,
không đủ ăn, phải vay nợ.
Tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ bị chủ đồn điền Pháp hoặc đại địa chủ ngời
Việt chèn ép, lấn chiếm ruộng đất, dùng mọi thủ đoạn phá hoại khiến cho sản
xuất bị thua lỗ, không ít địa chủ bị tịch biên ruộng đất hoặc phải bán ruộng.
Những tầng lớp lao động khác nh thợ may, từ những ngời làm công đến
ngời chở xe ngựa cũng phải chịu giá sinh hoạt đắt đỏ, thuế má nặng.
Nhìn chung, kinh tế Việt Nam thời kỳ 1936 1939 tuy có đợc phục hồi
nhng đời sống của đa số ngời dân vẫn khó khăn, cơ cực. Đó cũng chính là động
lực thúc đẩy họ tham gia phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do dân
chủ.
2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ 1936 1939.
2.2.1. Chủ trơng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dơng.
Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nớc đã tác động đến phong
trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam những năm nửa sau thập kỷ 30. Lúc này ở
9
Việt Nam có một số đảng, nhóm chính trị đang hoạt động, trong đó có đảng cách
mạng, đảng theo xu hớng cải lơng, đảng phản động; có đảng hoạt động công
khai hợp pháp và đảng hoạt động bất hợp pháp. các đảng đều tận dụng cơ hội
thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động tranh guiành ảnh hởng trong quần chúng. Tuy

nhiên chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dơng là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ,
có cơ sở quần chúng, có chủ trơng đờng lối rõ ràng. Tháng 7 1936, Hội nghị
Ban chấp hành TƯ Đảng Cộng sản Đông Dơng do Lê Hồng Phong, uỷ viên BCH
QTCS chủ trì đã họp tại Thợng Hải (TQ). Hội nghị dựa trên những luận điểm cơ
bản của Nghị quyết đại hội VII QTCS, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam
để định ra đờng lối và phơng pháp đấu tranh thích hợp. Nghị quyết hội nghị đã
đề cập tới một số vấn đề cơ bản sau đây:
Nhiệm vụ chiến lợc của CMTSDQ là chống đế quốc và phong kiến, nhng
để phù hợp với tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu trực tiếp, trớc mắt là
đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến
tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trớc mắt của
nhân dân Đông Dơng là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của
chúng.
Về khẩu hiệu đấu tranh, tạm thời cha nêu đánh đổ đế quốc Pháp và tịch
thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày mà nêu tự do dân chủ, cơm
áo hoà bình
Về tổ chức, chủ trơng thành lập MTTNND phản đế Đông Dơng bao gồm
các giai cấp, đảng phái dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác
nhau.
Về phơng pháp đấu tranh, kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp
pháp và bất hợp pháp.
Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị BCHTW Đảng tháng 7.1936 đ-
ợc bổ sung, phát triển thêm trong các Hội nghị BCHTW Đảng năm 1937 và
1938. Tại HN BCHTW Đảng tháng 3.1938, Mặt trận thống nhất nhân dân phản
đế Đông Dơng đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dơng, gọi tắt là Mặt
trận Dân chủ Đông Dơng.
2.2.2. Phong trào đấu tranh công khai, dân chủ.
* Phong trào Đại hội Đông Dơng :
Đây là phong trào đấu tranh công khai, rộng lớn đầu tiên năm 1936. Đợc
tin Quốc hội Pháp quyết định cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dơng,

Đảng Cộng sản Đông Dơng chủ trơng phát động các tầng lớp nhân dân thu thập
nguyện vọng tự do, dân chủ trong cả nớc gửi tới phái đoàn.
Tháng 6.1936, Nguyễn Văn Tạo, đảng viên Đảng Cộng sản hoạt động
công khai đã viết cuốn: Mặt trận Bình dân Pháp với nguyện vọng của quần
chúng Đông Dơng. Tác giả đánh giá vai trò của Chính phủ Bình dân Pháp đối
với thuộc địa : Những dân tộc nào nhờ Chính phủ Mặt trận Bình dân giải thoát
cho mình là hy vọng một cách ngông cuồng lắm, dân chúng Pháp làm mạnh,
làm rung rinh nền móng của bọn đế quốc, ấy là một cơ hội cho dân thuộc địa để
vận động tranh đấu đòi sự cải thiện sinh hoạt cho mình. Dân chúng Pháp bênh
vực những phong trào đấu tranh ở thuộc địa là tiếp tay dân thuộc địa để xô cho
mau ngã chế độ t bản. Để đấu tranh đòi những quyền nêu trên, cần phải tập hợp
lực lợng đông đảo: những ngời lao khổ, thợ thuyền các công xởng, nông dân các
đồn điền và các đồng ruộng, những thơng gia, những ngời trí thức thành thật yêu
mến xứ sở và dân chúng xứ này, dầu là có t tởng chính trị nào cũng phải cùng
nhau lập ra một mặt trận chung, để đa nguyện vọng của mình cho chính phủ
Pháp.
10
Tháng 7.1936, hội nghị BCH TW Đảng đợc triệu tập, sau đó nghị quyết
của hội nghị đợc phổ biến trong toàn đảng. Thời gian này Đảng không có báo
xuất bản công khai ở Nam Kỳ. Cán bộ đảng đã vận động Nguyễn An Ninh là một
trí thức yêu nớc tiến bộ có quan hệ với các đảng viên đảng cộng sản hoạt động
công khai ở Sài Gòn lúc bấy giờ đứng ra cổ động thành lập Đông Dơng đại hội.
Ngày 29.7.1936, Nguyễn An Ninh đăng lời kêu gọi Tiến tới một đại hội Đông
Dơng trên báo Tranh đấu. Đó là lời kêu gọi công khai đầu tiên về cuộc vận
động Đông Dơng đại hội đợc nhiều tầng lớp xã hội và tổ chức chính trị hoan
nghênh, hởng ứng.
Tháng 8.1936, BCHTW Đảng Cộng sản Đông Dơng gửi bức th ngỏ Việt
Nam quốc dân Đảng, Đảng lập hiến, các đảng cách mạng, các nhóm cải lơng dân
chủ, các hội ái hữu, các tổ chức công, nông, binh, phụ nữ, sinh viên, ngời buôn
bán, các báo chí, các tổ chức quần chúng và toàn thể nhân dân Đông Dơng. Đây

là văn bản tuyên bố công khai đầu tiên quan điểm và thái độ của Đảng Cộng sản
Đông Dơng đối với đại hội Đông Dơng. Đảng Cộng sản Đông Dơng kêu gọi
thành lập các uỷ ban hành động ở khắp nơi để tập hợp lực lợng quần chúng thu
thập dân nguyện, chuẩn bị cho Đông Dơng đại hội.
* Phong trào bắt đầu ở Nam Kỳ. Ngày 13 8 -1936, Uỷ ban lâm
thời Đông Dơng đại hội đợc thành lập. Trong một thời gian ngắn, các uỷ
ban hành động xuất hiện ở khắp nơi: Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Thủ
Dầu Một Theo báo cáo của Sở mật thám Sài Gòn ngày 12 12- 1936,
trung bình mỗi tỉnh có trên 150 cuộc họp, đông nhất là 300 ngời một cuộc
họp.
Bọn phản động thuộc địa và tay sai ráo riết phá cuộc vận động, dùng
mọi biện pháp thích đáng ngăn chặn cuộc vận động. Sau khi có lệnh cấm
Đông Dơng đại hội, các cuộc khám xét, bắt bớ càng đợc đẩy mạnh hơn.
Từ tháng 2/1937, các Uỷ ban hành động hoạt động ngày càng công
khai hoá. Sau khi đợc tin Uỷ ban điều tra Quốc hội Pháp không sang Đông
Dơng, các Uỷ ban hành động lần lợt giải tán. Nhng chẳng bao lâu sau, các
lực lợng này đã nhân cơ hội đón đặc phái viên của Chính phủ Pháp Gôđa
(Justin Godart) và Toàn quyền Brêviê (Jules Brévié) sang nhận chức ở
Đông Dơng, để tiếp tục động viên, tổ chức quần chúng đấu tranh.
* ở Bắc Kỳ, những ngời cộng sản Hà Nội đã sử dụng tờ bào Hồn trẻ
làm công cụ tuyên truyền cho Đông Dơng đại hội theo đờng lối của Đảng.
Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kỳ Đông Dơng đại hội đợc thành lập, các
uỷ ban hành động xuất hiện nhiều nơi thuộc các tỉnh Hà Nội, Nam Định,
Bắc Ninh, Ninh Bình, Phúc Yên, Thái bình.
* Trung Kỳ hởng ứng Đông Dơng đại hội chậm hơn các nơi khác.
Chính quyền thực dân và bọn phản động đã phá hoại, hạn chế phong trào
nhng uye ban lâm thời chi nhánh Trung Kỳ Đông Dơng đại hội và nhiều
uỷ ban hành động vẫn đợc lập ra ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Đà Nẵng Ngày 21.9.1936 có lệnh cấm Đông Dơng đại hội toàn xứ Trung
Kỳ. Phong trào quần chúng hoạt động hợp pháp cha đầy một tháng đã bị

bóp nghẹt.
Ngoài ra, Việt kiều ở Pháp, Trung Quốc cũng hởng ứng Đông Dơng
đại hội. Họ lập ra uỷ ban hành động và thu thập dân nguyện.
Khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng buộc nhà cầm quyền
Đông Dơng ra nghị định ngày 11.10.1936, ban hành một số quyền lợi cho
công nhân, phải ân xá tù chính trị
Cuộc vận động Đông Dơng đại hội là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển kinh tế chính trị, xã hội, sự tác động của hoàn cảnh thế giới vào Việt Nam
giữa những năm 30. Những điều kiện thuận lợi đợc tận dụng và phát huy qua yếu
tố chủ quan là lực lợng cách mạng của quần chúng dới sự lãnh đạo của Đảng
11
Cộng sản Đông Dơng. Đông Dơng đại hội sớm bị dập tắt nhng đã đạt đợc mục
đích của mình. Những kết quả đạt đợc do nhà cầm quyền thực dân nhợng bộ ở xứ
thuộc địa nh nớc ta lúc bấy giờ là rất to lớn. Nhng quan trọng và có ý nghĩa to lớn
hơn nhiều, đó là:
- Qua quá trình vận động phong trào, hàng triệu quần chúng đợc giác
ngộ về quyền lợi giai cấp mình, đợc tập hợp, tổ chức và rèn luyện; ý
thức đoàn kết, tinh thần đấu tranh, niềm tin vào Đảng cộng sản, vào
cách mạng đợc nâng cao.
- Đảng ta thu đợc những kinh nghiệm quý báu. Phong trào Đông D-
ơng đại hội chứng tỏ rằng khi chủ trơng, chính sách và khẩu hiệu
đấu tranh của Đảng phù hợp với nguyện vọng dân chúng thì nó đợc
nhân dân hởng ứng mạnh mẽ, mau chóng trở thành phong tào quần
chúng rộng lớn. Cán bộ của Đảng tích luỹ đợc nhiều bài học ở một
nớc thuộc địa.
Phong trào Đông Dơng đại hội đánh dấu bớc phục hồi mạnh mẽ của phong
trào cách mạng Việt Nam.
* Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
* Đấu tranh ở nghị trờng.
* Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí.

* Đấu tranh chống Tơrôtkit.
2.3. Tính chất, đặc điểm và bài học kinh nghiệm.
2.3.1. Tính chất:
Cuộc vận động dân chủ thời kỳ 1936 1939 đề ra mục tiêu đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo và hoà bình. Mặc dù khẩu hiệu đấu tranh chứa
đựng nội dung cải cách dân chủ trong khuôn khổ chính sách cai trị của chính
quyền thực dân nhng phong trào đấu tranh do Đảng Cộng sản Đông Dơng lãnh
đạo hoàn toàn không có tính chất cải lơng. Đây là một phong trào rộng lớn có tổ
chức, nó hoàn toàn khác với phong trào cải lơng do một nhóm t sản, địa chủ khởi
xớng với mục đích xin xỏ chính quyền thực dân ban cho một số quyền lợi hàng
ngày và coi đó là mục đích cuối cùng. Phong trào dân chủ 1936 1939 bằng
sức mạnh đoàn kết của quần chúng buộc chính quyền thực dân phải chấp nhận
những yêu sách cụ thể trớc mắt. Trên cơ sở đó, trong thuận lợi mới, nó sẽ tiếp tục
đẩy phong trào lên cao hơn, triệt để hơn, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.
Không nhất thiết khẩu hiệu kinh tế là cải lơng, khẩu hiệu chính trị là cách mạng
và cũng không cứ hoạt động bí mật, bất hợp pháp mới là cách mạng, còn hoạt
động công khai, hợp pháp là cải lơng. Phong trào dân chủ 1936 1939 là cách
mạng. Trong điều kiện nớc ta lúc này dới ách thống trị của chính quyền thực dân
không có tự do, dân chủ, những cuộc đấu tranh của quần chúng đòi tự do, dân
chủ, cơm áo hoà bình là một hình thức đấu tranh cách mạng trong một giai đoạn
cụ thể để thực hiện nhiệm vụ chiến lợc của cuộc CMDTDCND ở nớc ta.
2.3.2. Đặc điểm:
- Đây là phong trào quần chúng rộng rãi, diễn ra trên nhiều lĩnh vực, kinh tế,
chính trị, văn hoá t tởng. Nó thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia:
công nhân, nông dân, tiểu thơng, tiểu chủ, trí thức tiến bộ, học sinh, một bộ phận
t sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ. Phong trào lan rộng cả thành thị và nông thôn
trong phạm vi toành quốc. Hình thức đấu tranh phong phú, bao gồm hoạt động
hợp pháp, bất hợp pháp, với những cuộc bãi công, biểu tình kiến nghị, đấu tranh
nghị trờng, đấu tranh trên lĩnh vực báo chí Về mặt tổ chức, quần chúng linh
hoạt lập các hội thể thao, cắm trại, hội học chữ quốc ngữ, hội cấy.

12
- Phong trào đấu tranh dân chủ 1936 1939 thể hiện vai trò tiên phong của giai
cấp công công nhân, trên cơ sở liên minh công nông, dới sự lãnh đạo của Đảng.
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ về số lợng và chất lợng. Những cuộc
bãi công nổ ra từ nhỏ đến lớn, từ quy mô một xí nghiệp đến liên kết nhiều xí
nghiệp trong khu vực, toàn ngành, đến tổng bãi công. Sự phát triển về quy mô
phong trào cũng thể hiện sự trởng thành về tổ chức, ý thức giai cấp, tính kỷ luật
của công nhân. Giai cấp công nhân đã liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân,
công nhân ở các khu công nghiệp đã hỗ trợ các cuộc đấu tranh ở nông thôn và
ngợc lại. hàng chục vạn nông dân đợc các đại biểu của giai cấp công nhân tổ
chức và lãnh đạo đã từ nông thôn tuần hành vào thành phố, cùng với công nhân
biểu tình, mít tinh đa yêu sách. Khối liên minh công nông là cơ sở cho khối
đoàn kết toàn dân theo cơng lĩnh của Mặt trận Dân chủ.
- Trong phong trào dân chủ 1936 1939, Đảng Cộng sản Đông Dơng đã liên
minh với một số đảng, nhóm chính trị trong Mặt trận dân chủ. Khẩu hiệu đòi dân
chủ, tự do, cơm áo, hoà bình của đảng đa ra trong một chừng mực nhất định phù
hợp với yêu cầu của tầng lớp trí thức tiến bộ, tiểu t sản, trung tiểu địa chủ và
một bộ phận t sản dân tộc. Tuy nhiên, Đảng đã xác định rõ, sự liên minh ấy chỉ là
tạm thời, ở một số sự việc nhất định, trong một thời gian nhất định. Đảng cộng
sản Đông Dơng đã phân hoá, tranh thủ lực lợng trung gian dù là tạm thời, bấp
bênh để phục vụ cho mục tiêu cách mạng.
- Phong trào Dân chủ 1936 1939 là một bộ phận của phong trào vô sản thế
giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, vì hoà bình. Cùng với
mục tiêu chung của nhân dân thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dơng tạm rút khẩu
hiệu đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lợc, thay bằng khẩu hiệu đánh đổ bọn phản
động thuộc địa Pháp ở Đông Dơng; kết hợp đấu tranh giải quyết yêu cầu trớc mắt
của nhân dân Đông Dơng với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít chống
chiến tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp. Cách mạng
Việt Nam đợc sự chỉ đạo của QTCS, sự giúp đỡ và ủng hộ của đảng Cộng sản và
nhân dân Pháp.

2.3.3. ý nghĩa:
Phong trào dân chủ 1936 1939 đã thu đợc những thắng lợi trên lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá, t tởng. Chính quyền thực dân buộc phải thả nhiều
chính trị phạm, phải ban hành luật báo chí, cải thiện phần nào điều kiện lao động,
lơng bổng cho CNVC. Nhng thắng lợi hơn cả là qua phong trào đấu tranh quần
chúng đợc tổ chức, giác ngộ về Chủ nghĩa Mác Lênin, về Đảng cộng sản, góp
phần đào tạo cho Đảng nhiều cán bộ mới, uy tín của đảng đợc nâng cao, cán bộ,
đảng viên đợc tôi luyện kiên cờng, tích luỹ cho Đảng nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu những bài học thành công và cả những thiếu sót, nhợc điểm. Trong
quá trình đấu tranh Đảng tích luỹ đợc kinh nghiệm xây dựng MTDTTN. Với việc
đề ra mục tiêu đấu tranh sát hợp, cơng lĩnh mặt trận đúng đắn đã tập hợp đợc
đông đảo quần chúng. Mục tiêu đấu tranh đó phù hợp với hình thức mặt trận dân
chủ và hoàn cảnh của Đông Dơng lúc bấy giờ. Vì thế, mặt trận bao gồm không
chỉ quần chúng cơ bản mà cả những tầng lớp t sản, địa chủ, các đảng phái cải l-
ơng ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo tán thành đấu tranh vì tự do,
cơm áo hoà bình.
2.3.4.Bài học kinh nghiệm:
- Đảng Cộng sản Đông Dơng có kinh nghiệm trong việc định ra các hình
thức hoạt động, hình thức tổ chức đấu tranh để tranh thủ những điều kiện thuận
lợi, đấy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng. Qua những hình thức ấy phát huy
đợc sức mạnh, trí sáng tạo của quần chúng.
- Đảng Cộng sản Đông Dơng coi trọng công tác đấu tranh t tởng trong nội
bộ Đảng, đảm bảo sự thống nhất t tởng, đờng lối, chính sách, chống tả khuynh,
hữu khuynh, đấu tranh kiên quyết chống bọn Tơrôtkit.
13
- Trong giai đoạn này Đảng Cộng sản Đông Dơng mắc phải một số thiếu
sót. Đó là việc thành lập MTTN phản đế Đông Dơng là cha phù hợp với điều kiện
và tình hình cách mạng cụ thể của mỗi nớc Đông Dong. Về vấn đề dân tộc trong
thời kỳ này, Đảng Cộng sản Đông Dơng cha nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp
giành độc lập dân tộc là đúng. Nhng thiếu sót của đảng là trong khuôn khổ của

những khẩu hiệu dân chủ, cha nêu đợc khẩu hiệu thích hợp để phát huy tinh thần
dân tộc của nhân dân. Thiếu sót này đã hạn chế một phần khả năng mở rộng
phong trào và phát huy sức mạnh của phong trào, tạo kẽ hở để bọn Tơrốtkít lợi
dụng gây hoài nghi trong một bộ phận quần chúng đối với đờng lối chính sách
của đảng. Những thiếu sót, khuyết điểm nêu trên khó tránh khỏi đối với một đảng
mới lớn lên, cha có nhiều kinh nghiệm. Trong quá trình đấu tranh cách mạng,
những bài học kinh nghiệm này sẽ đợc đảng bổ sung, hoàn chỉnh, sửa chữa từng
bớc đa cách mạng Việt Nam đến những thắng lợi to lớn hơn.
Phong trào dân chủ 1936 1939 đợc Đảng ta đánh giá là cuộc diễn tập
lần thứ hai cho Cách mạng Tháng Tám 1945.

3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 1945.
3.1. Tình hình Việt Nam trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ 2.
- Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ (1.9.1939), Pháp tham chiến
(3.9.1939) và nhanh chóng đầu hàng Đức (22.6.1940). Khi đẩy nớc Pháp vào
vòng chiến, giai cấp thống trị Pháp đồng thời đẩy nhân dân Pháp và nhân dân
thuộc địa đến chỗ chết chóc, đến cuộc sống cùng cực dới chế độ phản động.
ở Việt Nam và Đông Dơng nói chung, bọn thực dân phản động Pháp thủ
tiêu những quyền lợi mà nhân dân ta giành đợc trong thời kỳ Mặt trận dân chủ,
giải tán các đoàn thể quần chúng, các tổ chức dân chủ, trớc hết nhằm tiêu diệt
Đảng Cộng sản Đông Dơng. Mặt khác, để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc,
bọn thực dân phản động Pháp ở Đông Dơng thi hành cái gọi là chính sách kinh
tế chỉ huy nhằm vơ vét tối đa sức ngời sức của ở Đông Dơng phục vụ cho cuộc
chiến tranh đế quốc và để đối phó phong trào cách mạng của các dân tộc Đông
Dơng.
- Nhân dân Việt Nam dới 2 tầng áp bức Pháp Nhật:
Việt Nam nói riêng, Đông Dơng nói chung là nơi có nhiều tài nguyên thiên
nhiên phong phú đa dạng, có vị trí chiến lợc quan trọng, cửa ngõ đi ra vùng Đông
Nam á. Do đó các thế lực xâm lợc trên thế giới và ở khu vực từ lâu đã để mắt tới
và có kế hoạch thôn tính. Việc bọn quân phiệt Nhật từ những năm 30 luôn nêu

khẩu hiệu Đại Đông á, đa ra chơng trình lập khu thịnh vợng chung là bớc
đầu chuẩn bị thực hiện âm mu thôn tính Đông Dơng và Đông Nam á. Âm mu đó
đợc xúc tiến mạnh mẽ sau khi chúng mở rộng xâm lợc xuống Hoa Nam của
Trung Quốc năm 1937. Đến khi CTTG2 bùng nổ, Pháp tham chiến và nhanh
chóng đầu hàng phát xít Đức đã tạo cơ hội thuận lợi cho Nhật nhảy vào Đông D-
ơng.
Ngày 22.9.1940, Nhật nhảy vào Đông Dơng, thực dân Pháp quỳ gối đầu
hàng, mở cửa nớc ta rớc Nhật. Từ đó, dân ta chịu 2 tầng xiềng xích: Pháp và
Nhật.
Nhật bắt Pháp cung cấp cho chúng nguyên liệu, lơng thực, thực phẩm, tiền
mặt, các vật dụng khác. Đáp lại yêu cầu đó của Nhật, Pháp dùng hàng loạt thủ
đoạn, biện pháp nhằm bòn rút, bóc lột nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn,
biện pháp đó là tăng thuế, nhờ đó mà trong khoảng từ 1939 1945, tổng số thu
vào ngân sách của Đông Dơng tăng lên gấp 2 lần. Riêng về thuốc phiện, rợu,
muối, tiền thuế chúng thu trong khoảng thời gian ngắn đó tăng lên gấp 3 lần.
Pháp dùng nhiều thủ đoạn bắt nhân dân ta phải nhổ hàng vạn hecta lúa để trồng
đay, bông, thầu dầu, thuốc phiện nộp cho Nhật, bắt họ phải bán thóc theo diện
tích cày cấy, không kể thu hoạch thực tế là bao nhiêu và theo giá quy định.
14
Trong khi nhân dân ta, nhất là nông dân thiếu ăn thì chúng dùng gạo để
nấu rợu cồn thay xăng, hoặc đốt thóc thay than để chạy máy điện ở miền Nam.
Pháp ra lệnh tập trung nguyên liệu, hàng hoá vào các công ty t bản Pháp để thu
những nguồn lợi kếch xù theo kiểu buôn bán đầu cơ, chợ đen.
Về phía Nhật, bên cạnh thủ đoạn bắt Pháp cung đốn mọi nhu cầu thiết yếu,
chúng còn ra sức bòn rút thật nhiều nguyên liệu, lơng thực, thực phẩm để phục vụ
cho chiến tranh ăn cớp.
Chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật Pháp, sự cấu kết giữa chúng trong
mu đồ thống trị đã đẩy nhân dân ta đến chỗ cùng cực. Nhân dân Việt Nam không
có con đờng nào khác ngoài việc phải vùng lên đấu tranh.
- Sự cấu kết giữa Pháp và Nhật trong âm mu thống trị đất nớc ta, chính

sách vơ vét bóc lột của chúng đối với nhân dân ta đã gây nên hậu quả tai hại đến
nền kinh tế đất nớc, đến mọi mặt của đời sống nhân dân, trực tiếp làm hơn 2 triệu
đồng bào chết đói trong mấy tháng cuối năm 1944 đầu năm 1945. Đồng thời nó
đã tác động mạnh mẽ đến t tởng, thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp
trong xã hội ở nớc ta lúc bấy giờ.
* Công nhân và nông dân là 2 giai cấp chịu hậu quả trớc tiên và nặng nề
nhất của chính sách Pháp Nhật. Giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề,
đồng lơng thực tế bị giảm sút, giờ làm việc bị tăng lên, đời sống của họ bị
điêu đứng vì hàng hoá khan hiếm, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, số công nhân bị
sa thải, thất nghiệp ngày càng tăng. Giai cấp nông dân bị bóc lột nặng nề
không kém. Họ là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất, chính
sách tô cao, thuế nặng. Công nhân và nông dân vốn dễ là những giai cấp
cách mạng đông đảo nhất, từng đi đầu trong đấu tranh nay lại càng căm
thù đế quốc Pháp - Nhật, quyết tâm đứng lên đấu tranh đánh đổ chúng.
* Giai cấp TTS bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau đều chịu tác động trực
tiếp hay gián tiếp của chính sách Pháp Nhật. Nhiều HSSV thất học,
nhiều trí thức, viên chức mất việc làm, đồng lơng thực tế giảm sút, bị ngợc
đãi. Nhiều tiểu thơng bị ế hàng, nhiều tiểu chủ sản xuất phải ngng trệ. TTS
là lực lợng đông đảo, họ vốn có tinh thân yêu nớc, từng đứng lên đấu tranh,
nay càng nhận rõ bộ mặt thật của kẻ thù, càng tỏ thái độ bất bình với đế
quốc phát xít Pháp Nhật, lại càng hăng hái đấu tranh.
* Giai cấp TS, trừ bộ phận TS mại bản nhờ bợ đỡ Pháp Nhật, vào hùa
với chúng trong chính sách bóc lột, còn lại bộ phận TS dân tộc chiếm phần
đông, vừa bị thiệt hại do t bản Pháp Nhật cạnhh tranh, vừa bị chính
sách kinh tế chỉ huy thời chiến của Pháp, chính sách tăng cờng đầu t của
các công ty Nhật Bản làm cho phá sản. Do đó càng làm tăng thêm mâu
thuẫn giữa TS dân tộc với đế quốc phát xít Pháp Nhật, làm cho họ hăng
hái hơn trong việc tham gia phong trào đấu tranh của dân tộc.
* Giai cấp địa chủ, trừ bộ phận địa chủ lớn có thế lực kinh tế và chính trị
dựa vào Pháp Nhật, còn lại bộ phận địa chủ vừa và nhỏ chiếm phần lớn

bị thiệt hại quyền lợi bởi các chính sách cớp đất, tăng thuế, thu thóc tạ,
mua ngũ cốc với giá rẻ khiến cho họ có thái độ bất bình đối với Pháp
Nhật và trong một chừng mực nhất định nào đó, họ đồng tình, ủng hộ cuộc
đấu tranh chống đế quốc phát xít và tay sai.
Nh vậy, mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam (trừ bọn tay sai của
đế quốc phát xít, bọn địa chủ lớn, TS mại bản) đều chịu ảnh hởng của chính sách
phản động và chiến tranh đế quốc, do đó ít nhiều có thái độ chống đối Pháp
Nhật, có cảm tình với cách mạng, hăng hái tham gia vào cuộc đấu tranh chống đế
quốc phát xít và tay sai, giải phóng dân tộc.
3.2. Những cuộc đấu tranh vũ trang tập dợt mở đầu chống Pháp - Nhật.
3.2.1. Chủ trơng chuyển hớng đấu tranh của Đảng cộng sản Đông Dơng.
15
Khi CTTG2 sắp bùng nổ, Đảng đã chỉ thị cho cán bộ đang hoạt động hợp
pháp và nửa hợp pháp nhanh chóng rút vào bí mật và giữ vững liên hệ với quần
chúng; phải chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, biến nông thôc thành căn
cứ địa rộng lớn của cách mạng, đồng thời phải duy trì cơ sở chính trị ở thành thị,
kết hợp chặt chẽ phong trào thành thị với phong trào nông thôn.
Sau khi CTTG2 bùng nổ, ngày 29.9.1939 TW Đảng gửi thông cáo cho các
cấp bộ Đảng vạch rõ phơng hớng, nhiệm vụ và các biện pháp cần kíp trớc mắt
nhằm chuyển hớng các hoạt động của Đảng tiến bớc đến vấn đề dân tộc giải
phóng.
CTTG2 nổ ra đợc 2 tháng thì Hội nghị lần thứ 6 của TW Đảng họp từ ngày
đến 8.11.1939 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng bí th Nguyễn Văn Cừ
chủ trì.
Nội dung:
HN đã tiến hành phân tích sâu sắc tính chất, hậu quả của CTTG, vai trò, vị
trí của Đông Dong trong cuộc chiến tranh đó, thực chất các chính sách của
bọn phản động Pháp và thái độ chính trị của các giai cấp xã hội Việt Nam.
Trên cơ sở đó, HN vạch ra đờng lối chính trị, phơng hớng, nhiệm vụ cách
mạng Việt Nam trong tình hình mới. HN nhận định, CTTG 2 là kết quả tất

yếu của những mâu thuẫn đạt đến độ sâu sắc giữa các tập đoàn đế quốc
quốc tế, là cuộc xâu xé lẫn nhau giữa chúng mà chủ yếu giữa một bên là
trục phát xít Đức Italia Nhật và một bên là khối đế quốc Anh
Pháp Mỹ, nhằm chia lại thế giới. HN còn vạch rõ giữa các tập đoàn đế
quốc phát xít tuy mâu thuẫn nhau về quyền lợi nhng lại thống nhất trong
âm mu chống Liên Xô, chống các lực lợng cách mạng, lực lợng giải phóng
dân tộc trên thế giới. Cuộc chiến tranh do chúng gây ra sẽ gieo rắc bao đau
thơng, tang tóc cho nhân loại nhng tiền đồ của cách mạng thế giới sẽ rất
sáng sủa một thế giới quang minh rực rỡ sẽ thay thế cái thế giới tối tăm
mục nát này.
Về tình hình Đông Dơng, HN nhận định, Đông Dơng đang bị lôi cuốn vào
guồng máy chiến tranh do đế quốc gây ra, phát xít Nhật sẽ xâm chiếm
Đông Dơng, bộ máy cai trị ở Đông Dơng đang từng bớc phát xít hoá, một
thứ phát xít thuộc địa tàn bạo và những kẻ đứng đầu bộ máy đó đang mu
toan thoả hiệp, đầu hàng phát xít Nhật. Cuộc chiến tranh đế quốc, chính
sách phản động của Pháp ở Đông Dơng đã đẩy nhân dân đến chỗ cùng cực,
đã lay động hầu hết các giai cấp, các tầng lớp xã hội, làm cho mâu thuẫn
xã hội vốn đã sâu sắc giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp càng thêm sâu sắc,
đòi hỏi phải đợc giải quyết.
Từ sự phân tích nh trên, HN xác định nhiệm vụ trung tâm trớc mắt của
cách mạng Đông Dơng là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân
tộc Đông Dơng, làm cho Đông Dơng hoàn toàn độc lập. Đây là sự chuyển
hớng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lợc. Để phù hợp với sự chuyển hớng
đó, khẩu hiệu cách mạng cũng thay đổi. HN chủ trơng tạm gác khẩu hiệu
cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và
địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập
chính quyền Xô viết công nông binh đợc thay thế bằng khẩu hiệu lập chính
quyền dân chủ cộng hoà.
Về phơng pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ

hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Để tập trung mọi lực lợng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống
chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng Cộng sản
16
Đông Dơng chủ trơng thành lập MTDTTN phản đế Đông Dơng thay cho
MTDC không còn phù hợp trong tình hình và nhiệm vụ mới.
ý nghĩa: Chủ trơng HNTW6 là chủ trơng chỉ đạo chiến lợc và sách lợc cách
mạng Việt Nam thời kỳ 1939 1945, thời kỳ đấu tranh và giải phóng dân tộc.
Nghị quyết HN đánh dấu bớc chuyển hớng quan trọng về đờng lối và phơng
pháp cách mạng của Đảng, đánh dấu sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng
tạo của Đảng, trong điều kiện có chiến tranh đế quốc ở một nớc thuộc địa. Có
nhiều vấn đề về nguyên tắc chiến lợc và sách lợc cách mạng Việt Nam trong chủ
trơng của HNTW6 là sự trở lại Chính cơng vắn tắt, sách lợc vắn tắt (2.1930),
đồng thời là sự khắc phục mặt hạn chế của Luận cơng chính trị (10. 1930).
3.2.2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ vận động giải phóng dân tộc.
- Khởi nghĩa Bắc Sơn (27.9.1940)
- Khởi nghĩa Nam Kỳ (23.11.1940)
- Khởi nghĩa Đô Lơng (13.1.1941)
Trong hơn 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy đã liên tiếp nổ ra ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam và đều bị thất bại. Nguyên nhân chính là thời cơ khởi nghĩa cha chín
muồi, kẻ thù còn mạnh, lực lợng khởi nghĩa cha đợc tổ chức và chuẩn bị đầy đủ.
Nhng các cuộc khởi nghĩa đã nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân
ta không bỏ lỡ cơ hội giáng một đòn phủ đầu vào bọn thực dân Pháp, đồng thời
nghiêm khắc cảnh cáo phát xít Nhật vừa mới đặt chân vào nớc ta.
Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lơng là những tiếng súng
báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bớc đầu đấu tranh bằng vũ lực của
các dân tộc Đông Dơng.
3.3. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1941 - 1945).
3.3.1. Nguyễn ái Quốc về nớc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, hoàn
chỉnh chủ trơng chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc

Trớc tình hình CTTG2 có những diễn biến phức tạp, Nguyễn ái Quốc
quyết định về nớc trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Ngày
28.1.1941, sau 30 năm tìm đờng cứu nớc, hoạt động yêu nớc, hoạt động cách
mạng ở nớc ngoài, Nguyễn ái Quốc trở về Tổ quốc. Pắc Pó (Hà Quảng, Cao
Bằng) là nơi đầu tiên đợc Ngời chọn đặt cơ quan lãnh đạo cách mạng.
Về đến Tổ quốc, Ngời bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng, tổ
chức quần chúng, chuẩn bị tiến tới HNBCHTW Đảng. Sau một thời gian chuẩn
bị, Nguyễn ái Quốc triệu tập HNBCHTW Đảng lần thứ 8 tại Pắc Pó, từ ngày 10
đến ngày 19.5.1941 do Ngời chủ trì. Tham dự HN có các đồng chí Trờng Chinh,
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của
xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nớc ngoài.
Nội dung:
Về tình hình thế giới, HN nhận định, CTTG đang lan rộng, phát xít Đức
đang ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xô, phát xít Nhật sắp gây ra cuộc chiến
tranh Thái Bình Dơng. HN khẳng định, chiến tranh sẽ làm cho các nớc đế
quốc suy yếu, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh chóng.
Liên Xô nhất định sẽ chiến thắng và cách mạng nhiều nớc nhan cơ hội đó
mà giành đợc thắng lợi, nếu cuộc chiến ttranh đế quốc lần thứ nhất đã đẻ
ra Liên Xô - một nớc XHCN thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra
nhiều nớc XHCN. Cách mạng Việt Nam lâu nay vẫn là một bộ phận của
CMVS thế giới thì nay phải là bộ phận của phong trào dân chủ chống phát
xít do Liên Xô làm trụ cột.
Về tình hình Đông Dơng, HN nhận định từ khi Nhật nhảy vào xâm chiếm,
Pháp đầu hàng Nhật, ở Đông Dơng mọi hoạt động kinh tế đều bị chiến
tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hoá. Chính sách đó của Pháp
Nhật làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa chúng với các dân tộc Đông D-
17
ơng. Khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lơng là kết quả của những mâu
thuẫn đó. Từ những nhận định trên, HN đi đến khẳng định tiếp tục chủ tr-
ơng HNTW6 nhng đề cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng

đầu. Trong lúc này, khẩu hiệu của Đảng ta là trớc hết phải làm sao giải
phóng cho đựoc các dân tộc Đông Dơng ra khỏi ách của giặc Pháp
Nhật. Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc Nếu không giải quyết đợc
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi đợc độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu
mà quyền lợi của của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại đ-
ợc.
Căn cứ vào đặc điểm Đông Dơng là xứ thuộc địa và hoàn cảnh thế giới
mới, Nguyễn ái Quốc và TW Đảng chủ trơng giải quyết vấn đề dân tộc
không phải chung trên toàn Đông Dơng mà trong khuôn khổ từng nớc ở
Đông Dơng, cốt làm sao đánh thức đợc tinh thần dân tộc xa nay trong
nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam) , MTTN do đó cũng phải đổi ra
cái tên khác cho nó có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu
triệu hơn. ở Việt Nam, hình thức mặt trận phù hợp nhất là Việt Nam độc
lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, ở Lào và Cămpuchia, HN của Đảng
chủ trơng giúp đỡ 2 nớc thành lập mặt trận của mình là Ai Lao độc lập
đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở 3 mặt trận ở 3 nớc
tiến tới thành lập ở Đông Dơng một mặt trận chung gọi là Đông Dơng độc
lập đồng minh.
HNTW 8 đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết 3 dân tộc Đông Dơng trong
một chiến lợc chống kẻ thù chung Pháp Nhật và tay sai, giành độc lập
cho mỗi dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của 3 dân tộc và sau khi đánh
đuổi đợc Pháp Nhật, các dân tộc sống trên cõi Đông Dơng sẽ tuỳ theo
ý muốn tổ chức thành liên bang cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành
một dân tộc quốc gia tuỳ ý. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ đợc thừa
nhận và coi trọng. Riêng ở Việt Nam sẽ thành lập chính phủ nhân dân
của Việt Nam dân chủ cộng hoà, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh là lá cờ toàn
quốc.
Một trong những chủ trơng quan trọng nhất của HN8 là chủ trơng về khởi

nghĩa vũ trang. Trớc đây, trong các HNTW6 và 7 đã có những dự kiến,
phác hoạ bớc đầu về vấn đề này. Nay nhờ có kinh nghiệm của các cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lơng, nhất là nhờ dự đoán sáng suốt xu
thế phát triển của tình hình thế giới và trong nớc, HN có chủ trơng đúng
đắn là phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị những điều kiện cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành thắng lợi, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân trong giai đoạn hiện nay. HN phân tích những điều kiện chủ quan
và khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi, dự kiến hình
thái khởi nghĩa là từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết
của HN nêu rõ ta phải luôn chuẩn bị một lực lợng sẵn sàng, nhằm vào cơ
hội thuận tiến hơn cả mà đánh bại quân thù, nghĩa là mai đây cuộc chiến
tranh Thái Bình Dơng và cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc xoay
sang hoàn toàn có lợi cho cuộc cách mạng Đông Dơng thì lúc đó, với lực
lợng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phơng cũng có thể giành sự thắng lợi mở đờng cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn
Đối với Lào và Cămpuchia, HN chủ trơng hết sức giúp đỡ phong trào mạng
2 nớc phát triển, giúp xây dựng Đảng bộ 2 nớc lớn mạnh, tăng cờng khối
18
đoàn kết chiến đấu 3 dân tộc Việt Nam Lào Cămpuchia, đa sự
nghiệp của 3 dân tộc đi đến thắng lợi.
Nh vậy, chủ trơng của HNTW8 đã phát triển và hoàn chỉnh chủ trơng chỉ đạo
chiến lợc và sách lợc cách mạng đề ra từ HNTW6. Chủ trơng này có tác dụng
quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân ta tích cực chuẩn bị tiến tới
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi
của CMT8.1945; đồng thời nghị quyết HNTW8 đã phát triển sáng tạo lý luận về
CMDTDCND ở nớc ta.
3.3.2. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
3.3.2.1. Bớc đầu xây dựng lực lợng.
Lực lợng chính trị:

Một trong những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng sau HN8 là vận động
quần chúng vào các Hội cứu quốc của MTVM (19.5.1941). MTVM đã ra Tuyên
ngôn, chơng trình, điều lệ (25.10.1941), trong đó nêu rõ quyền lợi của dân tộc
cao hơn hết thảy, VM sẵn sàng giơ tay tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không
cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật
Pháp để dựng lên một nớc Việt Nam tự do và độc lập . Chơng trình cứu nớc của
VM gồm hệ thống chính sách đối nội, đối ngoại; chính sách về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, ngoại giao; chính sách đối với các tầng lớp nhân dân; công nhân,
nông dân, binh lính, viên chức, học sinh, sinh viên, phụ nữ, thiếu nhi, ngời già,
ngời tàn tật, thơng nhân, nhà kinh doanh, t bản, địa chủ Chơng trình gồm 44
điều trong đó nổi lên là 2 điều mà toàn thể đồng bào mong ớc là làm cho nớc
Việt Nam hoàn toàn độc lập và làm cho dân Việt Nam đợc sung sớng tự do.
Chơng trình cứu nớc của VM về sau đợc đúc kết thành 10 chính sách lớn và đợc
thực hiện đầu tiên ở khu giải phóng Việt Bắc.
MTVM ra đời với chơng trình cứu nớc vừa ích nớc, vừa lợi dân đã thu hút
ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào các dân tộc cũng
tham gia.
Tại Hà Nội, Hải Phòng và nhiều tỉnh ở miền Bắc, một số tỉnh ở miền
Trung, hầu hết các Hội phản đế của thời kỳ MTTNDT phản đế Đông Dơng đã
chuyển sang các Hội cứu quốc, đồng thời nhiều Hội cứu quốc đợc thành lập
nh Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên
cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc
Cao Bằng là nơi thí điểm xây dựng Hội cứu quốc trong MTVM. Năm
1942, ở khắp các xã, tổng, châu đều có Hội cứu quốc, trong đó có những xã,
tổng châu hoàn toàn nghĩa là mọi ngời đều tham gia Việt Minh. Tháng
11.1942, tại Cao Bằng, đại hội đại biểu Việt Minh họp bầu ra BCH Việt Minh. ở
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, một BCH Việt Minh lâm thời liên tỉnh cũng đợc
cử ra.
Lực lợng vũ trang:
Cuối năm 1940, sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trơng

của Đảng (tại HN7), một bộ phận LLVT ra đời trong khởi nghĩa chuyển sang xây
dựng thành những đội du kích làm vốn vũ trang đầu tiên của cách mạng, hoạt
động ở căn cứ địa Bắc Sơn Võ Nhai. Bớc sang năm 1941, những đội du kích
Bắc Sơn lớn mạnh thêm và thống nhất thành đội Cứu quốc quân.
Cứu quốc quân vừa thành lập đã bớc ngay vào cuộc chiến đấu chống
khủng bố, bảo vệ dân. Giữa năm 1941, Pháp huy động một lực lợng gồm 4000
quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn Vũ Nhai với ý đồ tiêu diệt Cứu quốc
quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân gồm hơn 30 chiến sĩ
bám dân, bám đất, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (7.1941
2.1942), một bộ phận cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, tuyên
19
truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị. Ngày 15.9.1941, trung đội cứu quốc quân 2
với 47 chiến sĩ đợc thành lập. Cứu quốc quân mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
Tại Cao Bằng, cùng với việc xây dựng và củng cố những tổ chức chính trị và
quần chúng là việc xây dựng LLVTND. Cuối năm 1941, Nguyễn ái Quốc quyết
đinh thành lập đội vũ trang tự vệ. Ngời còn tổ chức nhiều lớp huấn luyện chính
trị, quân sự. Những tác phẩm nh Lịch sử nớc ta, Địa lý Việt Nam, Cách đánh du
kích do Ngời viết từ giữa năm 1941 đến đầu năm 1942 vừa để tuyên truyền
giáo dục cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng về lòng yêu nớc, tinh thần
đoàn kết chiến đấu, vừa để trình bày khái quát kinh nghiệm của các nớc và nêu
lên những nét cơ bản về đờng lối chiến lợc, chiến thuật quân sự, chính trị cho
cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Căn cứ địa cách mạng:
Đảng và Nguyễn ái Quốc cũng rất quan tâm đến việc xây dựng căn cứ địa
cách mạng. Trong những năm 1930 1939 những khu an toàn đợc chọn và bí
mật xây dựng chủ yếu ở các vùng xung quanh Hà Nội và phụ cận là những địa
bàn thuận lợi đảm bảo sự an toàn cho các tổ chức cách mạng, các cơ quan lãnh
đạo hoạt động giữ vững, phát triển liên tục của phong trào.
Đến thời gian này, bên cạnh những khu an toàn vẫn đợc giữ vững và củng

cố, chúng ta còn xây dựng mới những khu du kích, những căn cứ địa cách mạng
rộng lớn ở cùng nông thôn, rừng núi cho cấp TW và các cấp khu, tỉnh, huyện, xã.
Các tỉnh miền núi nh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang đợc chọn làm căn cứ du kích. Trong đó vùng Bắc Sơn Vũ Nhai đợc
đảng chủ trơng xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Sau khi về nớc, Nguyễn ái
Quốc chọn Cao Bằng làm thí điểm chính sách mặt trận, chính sách đoàn klết dân
tộc, xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Đó là 2 trung tâm căn cứ địa đầu tiên
của cách mạng nớc ta. Trong những vùng căn cứ cách mạng, hàng ngày diễn ra
tấp nập những hoạt động sản xuất, xây dựng, chiến đấu, bảo vệ của quần chúng
cách mạng, các tổ chức yêu nớc, các Hội cứu quốc, của LLVTND, tiêu biểu hơn
cả là hoạt động của Cứu quốc quân Bắc Sơn Vũ Nhai và tự vệ vũ trang Cao
Bằng.
3.3.2.2. Gấp rút chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Quá trình xây dựng lực lợng cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn
ra sôi nổi thành phong trào mang tính chất quần chúng với những kết quả to lớn
từ sau khi có nghị quyết 8 của Đảng. Tuy nhiên phong trào gặp không ít khó
khăn: quần chúng đấu tranh bị kẻ thù đàn áp, khủng bố, nhiều cán bộ lãnh đạo
của Đảng và Mặt trận bị địch giam cầm, giết hại, Nguyễn ái Quốc ngời lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Mặt trận bị chính quyền Tởng Giới Thạch bắt trên đ-
ờng đi công tác ở Trung Quốc và bị giam giữ hơn 1 năm (8.1942 3.1943),
trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, Đảng và mặt trận lại mắc phải những sai lầm
cần khắc phục.
Đứng trớc những yêu cầu mới của cách mạng, nhất là trong tình hình cuộc
chiến tranh thế giới phát triển mau lẹ khi Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản
công từ đầu 1943 càng đòi hỏi Đảng phải có chủ trơng đẩy mạnh hơn nữa công
tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Ban thờng vụ TW Đảng họp từ 25 đến 28.2.1943 ở Võng La - Đông Anh
đã có những nhận định chính xác về tình hình thế giới và trong nớc, từ đó chủ tr-
ơng mở rộng hơn nữa MTVM. Do dự đoán đợc chiều hớng phát triển của phong
trào cách mạng, HN có nhận định sáng suốt phong trào cách mạng Đông Dơng

có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bớc nhảy cao từ đó đặt mình vào tình thế
khẩn cấp, phải kịp thời xúc tiến hơn nữa trong việc chuẩn bị khởi nghĩa theo
tinh thần Nghị quyết HN8.
20
ở miền Bắc, trên hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể
Việt Minh, các hội cứu quốc đợc xây dựng và củng cố. Tại Hà Nội, tổ chức Vm
đợc thành lập trong nhiều nhà máy, trờng học nh nhà máy xe lửa Gia Lâm, Nhà
máy sửa chữa xe lửa ôtô Avia, trờng Bởi, trờng kỹ nghệ thực hành Nhiều cuộc
bãi công đòi tăng lơng của công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam
Định, Việt Trì Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu,
thu thóc tạ, chống bắt phu, bắt lính đã lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia.
ở nhiều tỉnh ven biển miền Trung, phonng trào VM đã đợc phát triển rộng
trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị.
ở miền Nam, sau 2 năm chống khủng bố trắng, phong trào cách mạng trên
toàn miền dần dần đợc phục hồi, hệ thống tổ chức Đảng đợc xây dựng lại ở nhiều
địa phơng. Tổ chức VM có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một vài tỉnh
khác. Trong nhiều thành phố, thị xã, các đội tuyên truyền xung phong, đội vũ
trang hoạt động gây thanh thế cho VM, thúc đẩy việc phát triển đoàn thể cứu
quốc.
Tại các tỉnh thuộc vùng rừng núi và trung du phía Bắc, phong trào quần
chúng lên mạnh, tổ chức VM có cơ sở ở hầu khắp các xã, châu. Khắp nơi trong
tỉnh sối nổi không khí chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm những đội tự vệ vũ
trang, đội du kích, mở liên tiếp nhiều lớp huấn luyện quân sự, chính trị. Khu căn
cứ đợc mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Năm 1943, Ban VM
liên tỉnh Cao Bắc Lạng cử ra 19 đội xung phong Nam tiến gặp đội Cứu
quốc quân trong đội Bắc tiến tại Nghĩa Tá (Chợ Đồn Bắc Cạn). Vậy là 2
trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn Vũ Nhai và Cao Bằng đã đợc nối liền nhau bằng
một hành lang chính trị, liên hoàn căn cứ với nhau.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị khởi nghiã, ngày 7.5.1944, Tổng bộ
VM ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa, nêu yêu cầu cụ thể cho từng công việc

chuẩn bị khởi ngiã đón thời cơ và cả thúc đẩy thời cơ. Tháng 8.1944, đảng và
Tổng bộ VM kêu gọi toàn dân Sắm vũ khí, đuổi thù chung. Đáp lời kêu gọi của
đảng và mặt trận, nhân dân khắp nơi hăng hái góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn
luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.
Tháng 10.1944, Pháp mở cuộc càn quét vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên).
Cấp uỷ Đảng địa phơng phát động quần chúng chống lại cuộc càn quét. Cuộc
khởi nghĩa nổ ra khi cha có thời cơ nên đã làm cho lực lợng cách mạng bộc lộ
sớm, bị cô lập và gặp tổn thất lớn.
Cùng thời gian đó, Liên uỷ Cao Bắc Lạng chủ trơng phát động chiến
tranh du kích. Đúng vào lúc mọi công việc chuản bị cho cuộc nổi dậy hoàn thành
thì Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về Cao Bằng. Nắm rõ tình hình Cao Bắc
Lạng, Ngời quyết định hoãn kế hoạch chiến tranh du kích của liên tỉnh uỷ vì
kế hoạch đó mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phơng mà cha căn cứ vào tình hình
cụ thể của cả nớc, mới chỉ thấy bộ phận mà cha thấy toàn cục. Hồ Chí Minh có
nhận định sáng suốt tình hình cách mạng Việt Nam là bây giờ thời kỳ cách
mạng hoà bình đã qua nhng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa cha tới. Từ đó, Ngời và
TW Đảng đề ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Đúng nh tên gọi, nó là đội quân tuyên truyền nghĩa là chính trị trọng hơn
quân sự. Ngày 22.12.1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ, trong một khu rừng giữa 2 tổng
Trần Hng Đạo và Hoàng Hoa Thám (châu Nguyên Bình Cao Bằng). Sau ngày
thành lập, đội xuất quân và giành đợc chiến thắng liền trong 2 trận, tiêu diệt gọn
2 đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong 2 ngày 25,26.12.1944.
Cùng với quá trình ra sức xây dựng lực lợng cách mạng, gấp rút chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cái cơ cấu đại biểu cho sự
chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta vì phe xâm
lợc gần đến ngày bị tiêu diệt, các nớc Đông Minh sắp giành đợc thắng lợi cuối
21
cùng, cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rỡi
nữa.

3.4. Cao trào kháng Nhật cứu nớc, Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
3.4.1. Nhật đảo chính Pháp, cao trào kháng Nhật cứu nớc.
- Nhật đảo chính Pháp:
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, phe phát xít liên tiếp thất bại trên các mặt
trận, CTTG2 bớc vào giai đoạn kết thúc. Tháng 8.1944 Pari đợc giải phóng, Tớng
Đờgôn lên cầm quyền. ở châu á - Thái Bình Dơng, phát xít Nhật cũng rất nguy
khốn, liên tiếp bị quân Đồng minh uy hiếp. Do đó chúng cố gắng giữ cho đợc
Đông Dơng khỏi bị quân Đồng Minh đổ bộ, cắt đôi lục địa Viễn đông ra làm 2
khúc.
ở Đông Dơng, thấy trớc triển vọng chiến thắng của các nớc đồng minh
đang đến gần, bọn thực dân Pháp theo phái Đờgôn càng hoạt động ráo riết, chuẩn
bị kế hoạch khôi phục lại địa vị thống trị cũ khi quân đồng minh đổ bộ đánh
Nhật. Tất cả âm mu và hành động đó của Pháp đều nằm trong phán đoán của
Nhật nên chúng quyết định hành động trớc. Vào 20 giờ ngày 9.3.1945, quân đội
Nhật nổ súng trên toàn cõi Đông Dơng, quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi
rồi nhanh chóng đầu hàng.
Hất cẳng Pháp xong, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Bọn
tay sai Nhật phụ hoạ tung hô Việt Nam độc lập. Mới đầu, bộ máy thống trị của
Pháp ở Đông Dơng còn đợc giữ nguyên, chỉ thay thế những ngời đứng đầu
chuyển từ ngời Pháp sang ngời Nhật. Nhật nắm toàn bộ quyền lực và định đoạt
mọi việc ở Đông Dơng. Để có chỗ dựa mới, Nhật tập hợp thêm bọn tay sai vào
những đảng phái chính trị phản động nh Đại Việt quốc xã, Phụng sự quốc gia,
Việt Nam quốc gia độc lập, Nhật Việt phòng vệ đoàn. Một thời gian sau,
chúng bãi bỏ chính quyền cũ, đa Trần Trọng Kim ra thành lập ở Việt Nam chính
phủ bù nhìn, khoác cho Vua Bảo Đại chiếc áo Quốc trởng. Đối với cách mạng,
Nhật có nhiều thủ đoạn thâm độc. Không dụ dỗ đợc nhân dân ta, Nhật huy động
lực lợng quân sự mở những cuộc tiến công, càn quét các chiến khu, các cơ sở
cách mạng, trớc hết nhằm tiêu diệt tổ chức của đảng, của Việt Minh.
Chính sách phản động cùng với vô số những hoạt động thù địch của Nhật
và bọn tay sai càng làm tăng thêm mối căm thù của nhân dân ta đối với chúng.

- Cao trào kháng Nhật cứu nớc:
Ngay trong đêm 9.3.1945, khi tiếng súng đảo chính vừa nổ là lúc HNMR
của BTVTW Đảng đợc triệu tập tại làng Đình Bảng (Từ Sơn Bắc Ninh) do
Tổng Bí th Trờng Chinh chủ trì. Ngàyn 12.3.1945, BTVTW Đảng ra chỉ thị Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta thể hiện toàn bộ nhận định về tình
hình và chủ trơng mới của Đảng.
HN nhận định rằng Nhật đánh Pháp là để độc chiếm Đông Dơng, Nhật
sẽ thắng Pháp nhng Nhật thắng chỉ là tạm thời và không thể củng cố
ách thống trị của chúng ở Đông Dơng. Đảo chính sẽ tạo ra một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi
nghĩa nhanh chóng chín muồi.
HN dự đoán điều kiện khách quan cho cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ
ra thắng lợi là khi quân Đồng Minh kéo vào đánh Nhật ở Đông Dơng,
cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật
thành lập hoặc Nhật mất nớc nh Pháp năm 1940 và quân đội Nhật mất
tinh thần. Song dù sao cũng không đợc ỷ lại điều kiện khách quan, phải
nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.
HN xác định kẻ thù chính, cụ thể trớc mắt và duy nhất của nhân dân
Đông Dơng sau đảo chính là phát xít Nhật, vì vậy, khẩu hiệu đánh
đuổi phát xít Pháp Nhật phải đợc thay bằng khẩu hiệu đánh đuổi
22
phát xít Nhật và đa ra khẩu hiệu thành lập chính quyền cách mạng
của nhân dân Đông Dơng.
HN chủ trơng phát động một cao trào kháng Nhật cứu nớc mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Thay đổi hình thức tuyên truyền
cổ động, hình thức tổ chức và đấu tranh cho phù hợp với thời kỳ tiền
khởi nghĩa có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị,
phá phách cho đến những hình thức cao hơn nh biểu tình, thị uy, vũ
trang du kích, và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một
khi có đủ điều kiện.

Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta thể hiện sự lãnh đạo
sáng suốt, kịp thời của Đảng trong cao trào kháng Nhật cứu nớc, trực tiếp dẫn
đến thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Dới sự lãnh đạo của Đảng và MTVM, cách mạng Việt Nam tiến lên cao
trào kháng Nhật cứu nớc. Tại căn cứ Việt Bắc, Việt Nam tuyên trruyền giải
phóng quân và cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng
loạt xã,, tổng, châu thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang. ở Bắc Giang, nhân dân nổi dậy lập uỷ ban giải phóng ở nhiều xã,
đội du kích Bắc Giang đợc thành lập. ở Quảng Ngãi, ngày 11.3.1945, những cán
bộ, đảng viên đang bị giam trong trại tập trung Ba Tơ đã phá ngục, thành lập đội
du kích Ba Tơ. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên cách mạng khác đang bị giam trong
các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buôn Ma Thuột nổi dậy phá nhà giam,
vợt ngục ra ngoài hoạt động.
Để đáp ứng yêu cầu khẩn cấp của hàng chục triệu quần chúng nôngdân ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đồng thời là yêu cầu của cách mạng, và nhân lúc phong
trào lên cao khắp đất nớc, Đảng chủ trơng phát động phong trào phá kho thóc
Nhật, giải quyết nạn đói. Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói
bằng nhiều hình thức từ thấp lên cao. Kết quả là hàng trăm kho thóc dự trữ của
Pháp Nhật và tay sai bị phá, lấy đi hàng chục vạn tấn thóc gạo chia cho nông
dân. Nhiều cuộc phá kho thóc biến thành những cuộc đấu tranh chính trị, biểu
tình vũ trang tuyên truyền ủng hộ VM, trừng trị bọn ác ôn, chống đàn áp khủng
bố. Nhiều nơi quần chúng đã giành chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các
tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Thái Bình, Hải D-
ơng, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh
Cuộc đấu tranh phá kho thóc giải quyết nạn đói trớc tiên là vì mục đích
kinh tế cấp bách trớc mắt nhng có ý nghĩa chính trị lâu dài và hết sức sâu sắc.
Đồng thời với phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói, làn sóng khởi
nghĩa từng phần đã phát triển lên đến cao trào, nhiều địa phơng đã thành lập đợc
chính quyền cách mạng của nhân dân.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, BTVTW

Đảng triệu tập HN quân sự cách mạng Bắc kỳ (4.1945) nnhằm giải quyết một số
vấn đề về quân sự. HN nhận định, tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả
các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp. HN quyết định phát triển lực lợng vũ trang,
nửa vũ trang, thống nhất các lực lợng vũ trang sẵn có, xây dựng thêm nhiều chiến
khu trong cả nớc.
Ngày 16.4.1945, Tổng bộ VM ra chỉ thị về việc tổ chức uỷ ban dân tộc giải
phóng các cấp và trong phạm vi cả nớc lập uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15.5.1945, Việt Nam giải phóng quân đợc thành lập, 7 chiến khu mới đợc
xây dựng gồm Vần (Phú Thọ), Hiền Lơng (Yên Bái), Trần Hng Đạo (Đông
Triều), Quang Trung (Hoà - Ninh - Thanh), Vĩnh Tuy và Dầu Rái (Quảng Ngãi).
Ngày 4.6.1945, khu giải phóng ra đời bao gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Tân Trào đợc chọn làm thủ đô của
khu giải phóng. Uỷ ban lâm thời khu giải phóng đợc thành lập, những chính sách
23
của VM đợc thực hiện. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa cách mạng chính của
cả nớc, là hình ảnh thu nhỏ của nớc Việt Nam mới.
Cao trào kháng Nhật sục sôi trên toàn quốc, tình thế cách mạng đang trực
tiếp đến gần. Toàn thể dân tộc ta đội ngũ sẵn sàng, đón chờ thời cơ vùng dậy tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nớc.
3.4.2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, nớc Việt Nam DCCH ra đời.
CTTG2 bớc vào giai đoạn cuối cùng khi Hồng quân Liên xô bắt đầu tấn
công quân Nhật (8.8.1945). Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Xô viết
đánh tan gần 1 triệu quân Quan Đông của Nhật, tác động mạnh mẽ đến tinh thần
quân Nhật ở Đông Dơng. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng bè lũ tay sai
nh rắn mất đầu. Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền đã chín muồi, thời cơ ngàn năm có một đã đến. Tuy nhiên các thế lực đế
quốc Mỹ, Tởng, Anh, Pháp đều có những mu đồ riêng đối với Đông Dơng. Trong
lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi, khí thế cách mạng của quần
chúng lên cao cha từng thấy.
Ngày 12.8.1945, Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong

toàn khu. Ngày 13.8.1945 uỷ ban khởi nghĩa tàon quốc đợc thành lập, ra Quân
lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Từ 13 đến 15.8.1945, tại Tân Trào diễn ra hội
nghị toàn quốc của Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình, HN quyết định phát
động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền, đề ra những nhiệm vụ
cần thiết, cấp bách trong công tác đối nội, đối ngoại sẽ thi hành trong thời kỳ đầu
sau khi giành đợc chính quyền.
Ngày 16, 17.8.1945, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ VM triệu tập khai mạc
tại Tân Trào với sự có mặt của hơn 60 đại biểu của các giới, đảng phái chính tị,
đoàn thể quần chúng, các dân tộc, tôn giáo trong nớc và đại biểu kiều bào ở nớc
ngoài. Đại hội tán thành chủ trơng tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua
10 chính sách của VM, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch, quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm
quốc ca. Đại hội bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi th kêu gọi đồng bào cả nớc
đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Hởng ứng lệnh Tổng khởi nghiã của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng bào cả nớc nhất tề đứng lên với tinh thần dù phải hy sinh tới đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trờng Sơn cũng phải kiên quyết giành cho đợc độ lập, tự
do.
ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của TW đến chậm nhng nhờ thấm
nhuần các chỉ thị, nghị quyết trớc đó, nhất là Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phơng, nên
khi đợc tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo Đảng, mặt trận đã kịp thời, chủ
động phát động nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc tổng khởi nghĩa đã giành đợc
thắng lợi trên phạm vi cả nớc trong vòng 2 tuần lễ từ 14 đến 28.8.1945.
Nớc VNDCCH ra đời:
Ngày 25.8.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, TW Đảng, Uỷ ban dân tộc giải
phóng từ Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Ngời, Uỷ ban dân tộc giải
phóng do Đại hội quốc dân cử ra tại Tân Trào đợc cải tổ thành Chính phủ lâm
thời cách mạng. Nhiều uỷ viên VM trong uỷ ban dân tộc giải phóng tự nguyện
rút khởi chính phủ lâm thời, nhờng chỗ cho các nhân sĩ yêu nớc tiến bộ tham gia.

Ngày 28.8, một phái đoàn của chính phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự lễ
thoái vị của Bảo Đại. Chiều 30.8, trớc cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân cố đô
Huế, Vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại diện chính
phủ lâm thời tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.
Ngày 2.9.1945, tại Quảng trờng Ba Đình, trớc cuộc mít tinh lớn của hàng
chục vạn nhân dân chào mừng nớc nhà độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
24
Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể
quốc dân và thế giới : nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Tuyên ngôn độc lập tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nớc
ta và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập là một văn
kiện có giá trị lịch sử to lớn và ngày 2.9.1945 mãi mãi ghi vào lịch sử Việt Nam
là ngày hội lớn vẻ vang của dân tộc ngày Quốc khánh, ngày tuyên bố thành
lập nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà.
3.4.3. ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám 1945.
ý nghĩa lịch sử:
CMT8 là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã phá tan
xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm và của phát xít
Nhạt trong gần 5 năm, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn
tại ngót ngàn năm. Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nớc ta từ một
nớc thuộc địa đã trở thành một nớc độc lập dới chế độ dân chủ cộng hoà,
nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành ngời dân độc lập, tự do, làm
chủ nớc nhà.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đánh dấu bớc phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển lịch sử
dân tộc kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
Cách mạng tháng Tám là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một dân

tộc nhợc tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân. Thắng lợi đó đã
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nớc thuộc địa và nửa
thuộc địa trên thế giới, đặc biệt là nhân dân châu á và châu Phi, có ảnh h-
ởng trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào.
Nguyên nhân thắng lợi:
Khách quan mà xét, cuộc CTTG2 đã làm cho các nớc đế quốc thêm suy
yếu. Tiếp đó là cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và lực lợng dân chủ
đã từng bớc làm thất bại chủ nghĩa phát xít Đức ý Nhật. Điều đó đã
tác động đến phong trào cách mạng thế giới, thúc đẩy các dân tộc thuộc
địa đấu tranh giải phóng. Trong tình hoình khách quan thuận lợi đó, Đảng
Cộng sản Đông Dơng đã lãnh đạo nhân dân ta dấy lên phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đến khi CTTG2 kết thúc mà trực tiếp là Nhật đầu
hàng quân Đồng minh dẫn tới điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền hết sức thuận lợi. Phát xít Nhật ở Đông Dơng kẻ thù
chủ yếu, trực tiếp, trớc mắt của cách mạng nớc ta cùng với chính phủ bù
nhìn Trần Trọng Kim hoang mang tê liệt. Đó là thời cơ ngàn năm có một
đợc đảng triệt để lợi dụng, chớp lấy, phát động toàn dân khởi nghĩa giành
đợc chính quyền một cách mau lẹ, ít đổ máu.
Về điều kiện chủ quan, dân tộc ta vốn có truyền thống đấu tranh kiên c-
ờng, bất khuất nên khi Đảng và VM phất cờ cứu nớc thì mọi ngời hăng hái
hỏng ứng, nhất tề đứng lên cứu nớc cứu nhà.
Đảng Cộng sản Đông Dơng, đứng đầu là Nguyễn ái Quốc Hồ Chí
Minh lãnh đạo với đờng lối giơng cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đặt nhiệm
vụ giải phóng dan tộc lên hàng đầu đã thể hiện đúng đắn và sáng tạo phản
ánh đúng thực tế Việt Nam trong xu thế phát triển của thế giới. Nhờ đó đã
khơi dậy và phát huy đợc truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nớc và cách
mạng của nhân dân ta, làm dấy lên phong trào công nông 1930 1931
với đỉnh cao XVNT, phong trào đấu tranh công khai đòi dân chủ 1936
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×