Tiểu sử tóm tắt
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là
phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội
trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt
của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành
lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường
9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía
Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và
là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường Phổ thông Trung học Lam Sơn,
Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm
ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút
ký. Năm 19 97 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ,
in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ
trên giấy dó. Ông đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài
thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81cm x 111cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên
âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh
họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
[sửa]Tác phẩm chính
[sửa]Thơ
Cát trắng (1973)
Ánh trăng (1978)
[cần dẫn nguồn]
Đãi cát tìm vàng (1987)
Mẹ và em (1987)
Đường xa (1989)
Quà tặng (1990)
Về (1994)
Bụi (1997)
[sửa]Thể loại khác
Em-Sóng (kịch thơ - (1983)
1
Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986)
Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký - 1986)
[sửa]Thành tựu nghệ thuật
Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm
vì thế cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy
nghĩ, nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ
ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao, Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm
giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo
phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được
giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt
nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam.
Nguyễn Duy còn có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng biết tới viết về những
trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ
đầu mang tên Đánh thức tiểm lực viết từ năm 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm lực và
tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông đến thăm Liên Xô và đến năm 1988
mới hoàn thành mang tên "Nhìn từ xa Tổ quốc". Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ông
mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao
cứa vào lòng người đọc" (Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ 3 viết sau đó chục năm, mang tên Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với 2 bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn: những
suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.[1]
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau: "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn
thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó."
[cần dẫn nguồn]
Nguyễn Duy và "Ánh trăng " tri kỷ
"Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương."
Giữa miền đất xa lạ , dẫu vẫn nằm trên đất nước Trung Hoa. Song Lý Bạch vẫn cảm
2
thấy cô đơn , nhìn vầng trăng sáng nhớ đến quê hương mình . Vị thi tiên như muốn
níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách.
Cũng từ vầng trăng duy nhất trên đời ấy , bao thi nhân đã tìm được cảm hứng cho
riêng mình. Bạn chớ có hỏi tại sao cũng chỉ ánh trăng đó thôi , mà con người có thể
nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến vậy. MacXenPrutxTơ từng thốt lên rằng :"Thế
giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì
lại một lần thế giới được tạo lập."
Với bài thơ "Trăng sáng " , tiếng thơ Nguyễn Duy như thủ thỉ tâm tình kể lại cho
người đọc nghe về người bạn thân quen , người đã cùng đi suốt cuộc hành trình tuổi
ấu thơ đến lúc trưởng thành của tác giả :
"Hồi nhỏ sống ở đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ."
Trải qua bao thăng trầm của thời gian , hình ảnh vầng trăng như đã là điều gì không
thể thiếu , gắn bó , giao cảm với lòng người. Đã bao lâu rồi vầng trăng -ánh sáng
huyền diệu kia níu chân khách bộ hành? Đã bao lâu rồi ánh trăng làm mê đắm tâm
hồn thi nhân , đến nỗi nhà thơ đánh rơi tim mình vào vầng trăng lẻ bóng?
"Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa."
"Ngỡ không bao giờ quên " Câu thơ như ngập chìm trong nuối tiếc chơi vơi ,
mạch cảm xúc kia vẫn tiếp tục xuôi theo dòng chảy mãi như mạch ngầm ký ức đã bị
bỏ quên nơi cuối trời xa lạ :
"Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường."
Lời thơ như nghèn nghẹn , như đã bị ghìm nén , như tác giả đang muốn ghìm giữ ,
như bung ra những dao động rất thực trong hồn. Nhà thơ viết dòng thơ thản nhiên ,
song vì sao ngôn từ vẫn xót xa là thế? Sức hấp dẫn của bài thơ có lẽ là vậy ! Chỉ có
tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nhà thơ Vũ Quần Phương từng nói :"
Chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ , tay phàm đụng vào dễ bay mất , nói chi mổ xẻ
với phân tích."
Những dư âm -kỷ niệm về ánh trăng hẳn sẽ trôi qua nếu bất ngờ từ dòng thơ sau
không được gợi mở :
"Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn."
Cuộc hội ngộ tình cờ như đánh thức điều gì sâu tận tâm hồn người bạn cũ , để nỗi
niềm chan chứa trải dọc cả câu thơ :
"Ngửa mặt nhìn lên trời
Có cái gì rưng rưng?
Như là đồng là bể ,
Như là sông là rừng "
"Ngửa mặt "-hành động ấy không chỉ là hành động ngắm trăng. Dường như Nguyễn
Duy muốn nhìn thật lâu gương mặt người bạn tri kỷ năm xưa sau một thời gian dài
không gặp gỡ , như muốn khắc sâu hình bóng kẻ tri âm dạo nào vào tiềm thức . Nửa
như để tìm lại - nửa như không muốn quên đi. Lương tâm thi nhân bỗng lên tiếng về
sự lãng quên của mình , những ăn năn không bật được thành lời đã khiến dòng thơ
như dài thêm vì day dứt khôn nguôi :
3
"Trăng cứ tròn vằnh vạch
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình."
Cái "giật mình " đáng trân trọng và đầy ý nghĩa khép lại bài thơ trong muôn trùng
suy tưởng từ người đọc. Vầng trăng kia lặng im không nói , không oán trách , vầng
trăng cứ lặng lẽ tròn mà khiến hồn người sực tỉnh và trở về với chính mình , tìm lại
những dấu yêu xa xưa đã bỏ quên vào dĩ vãng. Xin bạn đừng hỏi rằng nếu như
không vì mất điện liệu nhà thơ có thể có được sự thức tỉnh giữa phồn hoa đô hội và
nhận thấy một ánh trăng tri kỷ hay không? Bởi lẽ vầng trăng trước khi ta được sinh
ra cũng cứ khuyết lại tròn , khi ta tồn tại hay sau này trở thành cát bụi trăng vẫn cứ
tròn lại khuyết vật thôi. Thế mà cái điều hiển nhiên , có tính quy luật ấy lại khiến tác
giả " giật mình "
Những điều tưởng chừng như phi lý khi đưa vào tâm trạng con người để giải thích
bỗng trở thành có nghĩa. Ánh trăng như đã xuyên suốt cả bài thơ , bổng trầm trải
dọc theo chiều sâu cảm xúc nơi Nguyễn Duy : lúc lắng chìm , khi trăn trở , phút suy
tư
Bạn có thấy không? Giữa nhịp sống ồn ào , dòng đời cuộn chảy ;Vẫn còn trong trẻo
trên cao -vầng trăng tròn vành vạch ; Vẫn còn vương vấn đâu đây ánh sáng trong
mát , nhẹ nhàng , im lắng trong tâm hồn của mỗi chúng ta
Ánh trăng (Nguyễn Duy)
Vầng trăng toả ánh sáng dịu mát xuống muôn nhà, muôn người Việt Nam. Ánh trăng thật vô cùng
thân thuộc! Vậy mà có khi nào ta lãng quên người bạn thiên nhiên tri âm tri kỉ để đến lúc vô tình gặp lại ,
ta bỗng giật mình tự ăn năn , tự trách chính lòng ta?! Bài thơ Ánh trăng (1978) của Nguyễn Duy viết
tại thành phố Hồ Chí Minh 3 năm sau ngày đất nước thống nhất đã được khơi nguồn cảm hứng từ một
tình huống như thế .
Ánh trăng không chỉ là câu chuyện riêng của Nguyễn Duy mà còn có ý nghĩa với cả một thế hệ những
người từng trải qua những năm tháng dài gian khổ trong chiến tranh , từng gắn bó với thiên nhiên , với
nhân dân tình nghĩa thuỷ chung , nay được tiếp xúc và sống trong hoà bình với nhiều phương tiện, tiện
nghi hiện đại văn minh . Hơn thế nữa , bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người bởi nó đặt ra vấn đề thái
độ với quá khứ , với những người đẫ khuất , và với cả chính mình khi hoàn cảnh sống đổi thay
trăng nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn , gợi lên đạo lí sống tình nghĩa , thuỷ chung đã
thành truyền thống đẹp của dân tộc và con người Việt Nam .
Ánh trăng - một bài thơ hay mang tính triết lí và chiều sâu suy ngẫm , cớ sao người yêu trăng lại không
thể không thuộc ?!!
Ánh trăng
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
4
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
5
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình .
( Nguyễn Duy)
"Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương."
Giữa miền đất xa lạ , dẫu vẫn nằm trên đất nước Trung Hoa. Song Lý Bạch vẫn cảm
thấy cô đơn , nhìn vầng trăng sáng nhớ đến quê hương mình . Vị thi tiên như muốn
níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách.
Cũng từ vầng trăng duy nhất trên đời ấy , bao thi nhân đã tìm được cảm hứng cho
riêng mình. Bạn chớ có hỏi tại sao cũng chỉ ánh trăng đó thôi , mà con người có thể
nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến vậy.Với bài thơ "Trăng sáng " , tiếng thơ Nguyễn
Duy như thủ thỉ tâm tình kể lại cho người đọc nghe về người bạn thân quen , người
đã cùng đi suốt cuộc hành trình tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành của tác giả
"Hồi nhỏ sống ở đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ."
Trải qua bao thăng trầm của thời gian , hình ảnh vầng trăng như đã là điều gì không
thể thiếu , gắn bó , giao cảm với lòng người. Đã bao lâu rồi vầng trăng -ánh sáng
huyền diệu kia níu chân khách bộ hành? Đã bao lâu rồi ánh trăng làm mê đắm tâm
hồn thi nhân , đến nỗi nhà thơ đánh rơi tim mình vào vầng trăng lẻ bóng?
"Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa."
"Ngỡ không bao giờ quên " Câu thơ như ngập chìm trong nuối tiếc chơi vơi , mạch
cảm xúc kia vẫn tiếp tục xuôi theo dòng chảy mãi như mạch ngầm ký ức đã bị bỏ
quên nơi cuối trời xa lạ:
"Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường."
6
Lời thơ như nghèn nghẹn , như đã bị ghìm nén , như tác giả đang muốn ghìm giữ ,
như bung ra những dao động rất thực trong hồn. Nhà thơ viết dòng thơ thản nhiên ,
song vì sao ngôn từ vẫn xót xa là thế? Sức hấp dẫn của bài thơ có lẽ là vậy ! Chỉ có
tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nhà thơ Vũ Quần Phương từng nói :"
Chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ , tay phàm nhúng vào dễ bay mất , nói chi mổ
xẻ với phân tích."
Những dư âm -kỷ niệm về ánh trăng hẳn sẽ trôi qua nếu bất ngờ từ dòng thơ sau
không được gợi mở :
"Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn."
Cuộc hội ngộ tình cờ như đánh thức điều gì sâu tận tâm hồn người bạn cũ , để nỗi
niềm chan chứa trải dọc cả câu thơ :
"Ngửa mặt nhìn lên trời
Có cái gì rưng rưng?
Như là đồng là bể ,
Như là sông là rừng "
"Ngửa mặt "-hành động ấy không chỉ là hành động ngắm trăng. Dường như Nguyễn
Duy muốn nhìn thật lâu gương mặt người bạn tri kỷ năm xưa sau một thời gian dài
không gặp gỡ , như muốn khắc sâu hình bóng kẻ tri âm dạo nào vào tiềm thức . Nửa
như để tìm lại - nửa như không muốn quên đi. Lương tâm thi nhân bỗng lên tiếng về
sự lãng quên của mình , những ăn năn không bật được thành lời đã khiến dòng thơ
như dài thêm vì day dứt khôn nguôi :
"Trăng cứ tròn vằnh vạch
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình."
Cái "giật mình " đáng trân trọng và đầy ý nghĩa khép lại bài thơ trong muôn trùng
suy tưởng từ người đọc. Vầng trăng kia lặng im không nói , không oán trách , vầng
trăng cứ lặng lẽ tròn mà khiến hồn người sực tỉnh và trở về với chính mình , tìm lại
những dấu yêu xa xưa đã bỏ quên vào dĩ vãng. Xin bạn đừng hỏi rằng nếu như
không vì mất điện liệu nhà thơ có thể có được sự thức tỉnh giữa phồn hoa đô hội và
nhận thấy một ánh trăng tri kỷ hay không? Bởi lẽ vầng trăng trước khi ta được sinh
ra cũng cứ khuyết lại tròn , khi ta tồn tại hay sau này trở thành cát bụi trăng vẫn cứ
tròn lại khuyết vật thôi. Thế mà cái điều hiển nhiên , có tính quy luật ấy lại khiến tác
giả " giật mình "
Những điều tưởng chừng như phi lý khi đưa vào tâm trạng con người để giải thích
bỗng trở thành có nghĩa. Ánh trăng như đã xuyên suốt cả bài thơ , bổng trầm trải
dọc theo chiều sâu cảm xúc nơi Nguyễn Duy : lúc lắng chìm , khi trăn trở , phút suy
tư
Bạn có thấy không? Giữa nhịp sống ồn ào , dòng đời cuộn chảy ;Vẫn còn trong trẻo
trên cao -vầng trăng tròn vành vạch ; Vẫn còn vương vấn đâu đây ánh sáng trong
mát , nhẹ nhàng , im lắng trong tâm hồn của mỗi chúng ta
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học
Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu
sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc động chân thành.
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học
7
Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu
sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc động chân thành.
Trong văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã rất
thành công trong cảm hứng ngợi ca đất nước và nhân dân anh hùng. Từ sau năm
1975 đến nay, đất nước từng bước chuyển mình để đi đến sự đổi mới toàn diện.
Trên cái nền hiện thực ấy, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút của
mình vào các vấn đề có tính chân thực cao về đời sống xã hội. Một trong những đề
tài được quan tâm là sự tự thức tỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách.
Đọc tác phẩm “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy và “Bến Quê” của Nguyễn Minh Châu, ta
cảm nhận sâu sắc bài học làm người mà mỗi tác giả đã gửi gắm trong hành trình tìm
về nguồn cội và cuộc đấu tranh tự vấn lương tâm để thức tỉnh chính mình.
Đôi khi giữa cuộc sống phồn hoa đô hội, con người với đầy đủ những tiện nghi sinh
hoạt hiện đại, sang trọng, bị cuốn hút bởi nhiều thú vui mới lạ, hấp dẫn dễ đánh mất
đi những gì đẹp đẽ thân thương của quá khứ mà đáng lẽ phải trân trọng nâng niu,
yêu quý. Ta đã bắt gặp điều ấy qua “Ánh Trăng”. Bài thơ đã đạt giải A trong cuộc thi
thơ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. “Ánh Trăng” là lời nhắc nhủ về những tháng
năm gian lao mà anh dũng, nghèo khổ mà nồng ấm tình thương cuả cuộc đời người
chiến sĩ gắn bó với thiên nhiên, với con người bình dị, hiền hậu, Nguyễn Duy đã gợi
nhớ một miền ký ức thẳm sâu:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Dù sống ở “đồng”, ở “sông” hay ở “bể” ở “rừng” thì đi đâu nhân vật trử tình “Ta”
cũng có “Trăng” bầu bạn. Quan hệ giữa Vầng Trăng – Ta là quan hệ tri kỉ. Không
gian “Đồng” “Sông” “Biển” “Rừng” gợi nhớ quá khứ gian khổ. Ở đó Vầng Trăng đã trở
thành máu thịt của Ta:
“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ đến Vầng Trăng Tình nghĩa là quá trình gắn bó sâu nặng khẳng
định một tình cảm vững bền tưởng như không bao giờ thay đổi. Thế nhưng, “người ta
định rồi chẳng bao giờ người ta làm được” (lão Hạc – Nam Cao).
Nhân vật trữ tình trong Ánh Trăng đã như thế!
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
Vầng Trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ, Vầng Trăng Tình nghĩa nay đã biến thành Vầng Trăng người
dưng! Qủa là một sự thay đổi không thể lường trước. Một sự phản bội?
Điều gì đã làm nên sự phản bội đáng xấu hổ ấy? Phải chăng là sự đổi thay về môi
trường sống: Từ miền gian khổ thiếu thốn, khó khăn về nơi đầy đủ, sung sướng? từ
giữa thiên nhiên mộc mạc chân chất.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây ảo”
Về với “Ánh điện cửa gương:…? phải chăng “có mới, nới cũ”? Lối sống mới, cuộc sống
mới với bao nhiêu cái mới đã làm cho Ta quên đi Ánh Trăng quá khứ, đúng là sự tự
cắt bỏ đi một phần máu thịt của chính mình! Thế nhưng, “cuộc đời vốn đa sự, con
8
người vốn đa đoan” chỉ đến khi trong cuộc sống gặp trắc trở khó khăn thì Ta mới có
dịp để nhìn lại chính mình:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Chính trong lúc khó khăn ấy của cuộc sống, Vầng Trăng, lại đột ngột xuất hiện trọn
vẹn, thủy chung. Đối diện với “trăng tròn vành vạnh” là sự đối diện với sự vẹn tròn
chân thật, yêu thương và ấm áp. Đối diện với lòng độ lượng, khoan dung của quá
khứ ân tình, ân nghĩa Ta chợt thấy giật mình:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Nhân vât trữ tình trong bài thơ “giật mình” hay chính Ta cũng phải giật mình. Hãy
cảnh tỉnh mình khi chưa quá muộn!
Bài thơ như một lời tự sự của chính tác giả, như một lời tự sự của chính mỗi chúng
ta, nhắc nhở ta về thái độ sống “uống nước, nhớ nguồn”, thủy chung cùng quá khứ.
Cũng là một bài học làm người, Nguyễn Minh Châu qua tác phẩm “Bến Quê” để lại
trong ta những trăn trở, những suy ngẫm sâu xa mang tính triết lý.
“Bến Quê” được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Minh
Châu trong giai đoạn đổi mới nền văn học. Có nhà văn cho rằng, ông là người mở
đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất.
Bài học làm người ta bắt gặp trong “Bến Quê” được gởi gắm qua nhân vật trữ tình –
tư tưởng: nhân vật Nhĩ với nhiều nghịch lí trong cuộc đời.
Nhĩ là con người từng trải, có địa vị, đi rộng, biết nhiều. Bao cảnh đẹp chốn gần xa,
của ngon vật lạ trên thế giới anh đều được thưởng thức: “Suốt cả đời Nhĩ đã từng đi
không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”. Thế mà những cảnh vật gần gũi nơi bến
quê: “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng đang phô ra trước
khuôn cửa sổ gian gác nhà Nhĩ như một thứ vàng thau xen lẫn màu xanh non. Những
màu sắc thân thuộc quá như da thịt như hơi thở của đất mỡ màu” thì mãi cuối cuộc
đời khi bị cột chặt trên giường bệnh Nhĩ mới nhận ra! Cũng như lần đầu tiên Nhĩ để ý
thấy Liên – vợ anh mặc tấm áo vá! Hình ảnh người vợ tảo tần giàu đức hy sinh làm
Nhĩ thật sự cảm động. Đó là tiếng lòng, tiếng đau thương mà không phải lúc nào anh
cũng nghe cũng cảm được. Đến bây giờ Nhĩ mới khám phá ra vẻ đẹp của bến quê ư!
Đến bây giờ Nhĩ mới thấy Liên mặt áo vá ư! Tại sao vậy? Phải chăng vì quá mãi mê
khám phá những gì xa xôi mới mẻ mà anh đã bỏ quên đi điều gần gũi thân thương
và rất đỗi thiêng liêng!
Khát vọng cuối cùng của Nhĩ lúc biết mình sắp từ giả cõi đời là muốn đặt chân lên
mảnh đất ở bãi bồi bên kia sông, nơi ấy có bến quê của anh Nhĩ… Anh không thể tự
mình làm được điều đó. Bởi vì “nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh
tưởng mình như vừa bay được nửa vòng trái đất”. Anh đã phải cậy nhờ Tuấn – con
trai anh làm điều ấy. Tuấn là sinh viên học tại một trường đại học ở tận một thành
phố phía Nam đã miễn cưỡng nhận lời cha. Thế nhưng, lời cầu xin tha thiết và thái
độ khẩn khoản của người cha ốm đau tội nghiệp đã bị anh bỏ quên ngay sau đó. Anh
đã rơi vào trận chơi phá cờ thế trên vỉa hè và để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong
ngày về bãi bồi phía bên kia, để lỡ mất cơ hội duy nhất thực hiện ước nguyện của
người cha đáng kính!
9
“Suốt đời Nhĩ cũng từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật không dứt ra được.
Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một
cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều
vòng vèo hoặc chùng mình, vả lại, nó đã thấy có gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa
chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy
hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả
trong những nét tiêu sơ, và cái điều kiện riêng anh khám phá thấy như một niềm say
mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Những suy
nghĩ mang tính trải nghiệm của Nhĩ làm cho ta cảm thấy day dứt trăn trở! Làm sao
để thoát khỏi “cái điều vòng vèo chùng chình” trong cuộc sống? Trong cuộc đời? Bởi
vì chính cái điều vòng vèo chùng chình ấy mà Nhĩ đã đau đớn ân hận vào giờ phút
cuối cuộc đời! Và Tuấn – con trai anh rồi sẽ đau đớn ân hận bên linh cữu của cha! Và
cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có thể như thế!
Bài học làm người mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm trong “Bến Quê” thật là sâu sắc!
“Ánh Trăng” và “Bến Quê” – hai tác phẩm với hai thể loại khác nhau nhưng cả hai là
bài học quý giá cho mỗi chúng ta. Mắc-xim-gor-ki đã từng nói: “Văn học là nhân
học”. Học văn là học về con người, học cách làm người!
Cám ơn Nguyễn Duy, cám ơn Nguyễn Minh Châu bằng văn học nghệ thuật đã cho ta
bài học đạo lý làm người. Đó là hành trang sống của mỗi chúng ta để ta vững bước
trên đường đời. Đúng là: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẻ cho ta đường đi mà
nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng ta, khiến ta phải tự bước lên con đường ấy.
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”,
Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa,
đậm chất suy tư.
“Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa
thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ :
Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :
“Hồi nhỏ sống với đồng.
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”.
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông,
biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng
nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng
trăng mới trở thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng
10
chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.
Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình
với trăng :
“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô
tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên
nhiên, hoà vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi,
đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ.
Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình
nghĩa” ấy :
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ
hồi về thành phố đời sống cũng thay đổi theo :“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh
điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng dần
dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng
trưng cho những tháng năm gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành
từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành “người dưng” Con người ta thường
hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau : “ngọt bùi nhớ lúc đắng
cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện
nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng trăng” - con người, mảnh đất từng là
tri kỉ một thời.
Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :
“Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy người lính năm
xưa mới bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa
bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng "
" Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình ”.
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ
lượng biết bao ! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng
không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí
của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội
trong những tháng năm “không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta
11
thành dũng sĩ.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách
diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm
tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ
chung khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống
đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
(Sưu tầm)
Ánh trăng - Nguyễn Duy.
ÁNH TRĂNG
I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.Tác giả
- Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê làng
Quảng Xá, xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa. Năm 1966, ông nhập ngũ vào
bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường.
- Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972 – 1973
với chùm thơ bốn bài (Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười,
Bầu trời vuông ). Từ giải thưởng này, Nguyễn Duy trở thành một gương mặt
tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ và tiếp tục bền bỉ
sáng tác.
- Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ sau năm
1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam ở
thành phố Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm chính: Cát trắng ( 1973 ), Ánh trăng ( 1984 ), Mẹ và em ( 1987
0, Đường xa ( 1989 ),Về ( 1994 )…
2.Hoàn cảnh ra đời
- Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh , in trong
tập Ánh trăng – tập thơ của Nguyễn Duy được giải A của Hội nhà văn Việt
Nam năm 1984
- Nguyễn Duy viết bài thơ này khi cuộc kháng chiến đã khép lại được ba năm.
Ba năm sống trong hòa bình, không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ
niệm nghĩa tình trong quá khứ. Nguyễn Duy viết bài thơ Ánh trăng như một lời
tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống
thủy chung, ân tình.
II.Phân tích bài thơ
12
1.Bố cục bài thơ
a.Bài thơ là tâm trạng của tác giả được kể theo trình tự thời gian
- Ba khổ đầu: Kể về sự gắn bó của tác giả với vầng trăng
- Khổ thứ tư: Sự xuất hiện của vầng trăng
- Hai khổ cuối: Cảm xúc và suy tư lặng lẽ của tác giả
b.Bài thơ là sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình
- Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ.
ở quãng thời gian quá khứ đã có một biến đổi, một sự thực đáng chú ý: hồi nhỏ
rồi hồi chiến tranh sống hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên đến tưởng không
bao giờ quên “ cái vầng trăng tình nghĩa”; ấy thế mà “ từ hồi về thành phố”
quen sống cùng những tiện nghi hiện đại, vầng trăng tình nghĩa đã “ như người
dưng qua đường”
-Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính
là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng
trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với “ phòng buyn đinh tối om”. Chính vì
xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao
kỉ niệm nghĩa tình.
2.Hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ: Hình ảnh vầng trăng trong bài
thơ là một hình tượng đa nghĩa
a.Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên khoáng đạt, hồn nhiên
tươi mát.
- Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng,
sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “ hồi nhỏ sống với đồng” và sau này
là “ hồi chiến tranh ở rừng”. Lúc ấy, con người sống giản dị “ trần trụi với
thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng đã trở thành người bạn tri kỉ,
thành “ vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt những năm tháng tuổi ấu thơ
ở quê nhà đến hồi chiến tranh sống ở rừng.
- Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đại “ quen ánh điện
cửa gương”, con người bỗng quên đi cái vầng trăng “ ngỡ không bao giờ
quên” kia, bỗng vô tình với “ cái vầng trăng tình nghĩa” kia. Sự vô tình đến
mức tàn nhẫn:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.
13
- Rồi đến một hôm nào đó:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Con người đã quen với đèn điện nên quên trăng. Vầng trăng vẫn còn đó nhưng
“ như người dưng qua đường”. Phải đến khi đèn điện tắt, con người mới lại
nhìn thấy và nhận ra vầng trăng. Phải đột ngột như thế, phải bất ngờ như thế,
vầng trăng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc.
Ngửa mặt nên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
“ Ngửa mặt lên nhìn mặt”,
mặt người và mặt trăng đối diện nhau. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại cố
nhân. Khoảng khắc gặp gỡ bất ngờ đó khiến hồn người rưng rưng cảm xúc.
Vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí những những hình ảnh của thiên nhiên, của
quê hương đất nước.
b.Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho quá khứ
nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống
Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên,
của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao kỉ niệm
hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến
đấu.
Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng
trăng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Mặc cho con người vô tình “ trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó là hình ảnh tượng
trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “ ánh trăng im
phăng phắc” – phép nhân hóa khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con
người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô
14
tình nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên quá khứ. “ Ánh trăng im
phăng phắc” nhưng đủ làm con người “ giật mình” nhận ra sự vô tình không
nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng
quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì vẫn vẹn nguyên vĩnh hằng.
3.Nhận xét về kết cấu và giọng điệu của bài thơ.
- Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự
và trữ tình.
- Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ khi thì trôi chảy nhẹ tự
nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm
lắng biểu hiện suy tư.
- Kết cấu và giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính
chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng
mạnh ở người đọc
4.Nêu chủ đề và khái quát ý nghĩa của bài thơ
- Từ một câu chuyện riêng, bài thơ là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình
cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa đối với thiên nhiên,
đất nước, bình dị, hiền hậu.
- Ánh trăng không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ, chuyện của một người mà
có ý nghĩa với cả một thế hệ ( thế hệ đã từng trải qua những năm tháng dài gian
khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân tình nghĩa giờ được
sống trong hòa bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại ). Hơn thế bài
thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ với
quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình.
- Ánh trăng nằm trong mạch cảm xúc “ uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lí
sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Nguồn: Sưu tầm
Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng
trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy.
Trăng- Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để
rồi những tác phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh
tuyệt đẹp, lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy lại mang một tính chất triết lý thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
15
Đối với nhà thơ đây là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng
dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chuông gióng lên, đánh thức
tâm hồn u tối trong mỗi con người.
Có thể nói, với mỗi chúng ta, vầng trăng là một vật thể bình thường mà thiên nhiên,
đất trời ban tặng. Nhưng với Nguyễn Duy, vầng trăng không những là hình ảnh của
quê hương mà nó còn là người bạn tri âm, tri kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa
yêu thương, là một quan toà lương tâm trong tận sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. “Hồi
nhỏ sống với đồng/ Với sông rồi với bể/ Hồi chiến tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri
kỷ”. Tuổi thơ tác giả được gắn bó với “vầng trăng”, “với đồng”, “với sông” rồi “với
bể”. Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi người dân quê Việt Nam. Đến lúc đi
chiến đấu trăng lại như người bạn thân luôn sát cánh bên người lính, cùng người lính
trải nghiệm sương gió, bom đạn của chiến tranh, của đời lính. Tình cảm gắn bó bao
lâu, nay chỉ biết hợp thành hai “tri kỷ”. Một tình bạn thật đẹp, thật cao cả và trong
suy nghĩ của người lính: “Ngỡ không bao giờ quên/ Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Nhưng rồi năm tháng gian khổ qua đi, nay người lính năm nào đã xa làng quê thanh
bình của tuổi thơ về với thành phố cùng với những tiện nghi sinh hoạt: “Từ hồi về
thành phố/ Quen ánh điện cửa gương/ Vầng trăng đi qua ngõ/ Như người dưng qua
đường”. Những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên, những ngày khó khăn trong chiến trường
cùng “vầng trăng” đã đi vào dĩ vãng. Người lính năm xưa đã vô tình lãng quên quá
khứ, quên người bạn “tri kỷ” của mình. Dẫu bạn- đồng chí, có đi ngang qua ngõ thì
cũng chỉ là một thoáng lướt qua. Một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí người
lính. Nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt “Đèn điện tắt”, người lính phải giật mình
sững sờ: “Đột ngột vầng trăng tròn”. “Vầng trăng” lại tìm đến và đối mặt với người
lính. Người bạn năm xưa đã tìm đến, bạn ư? Bao lâu nay người lính đã quên mất rồi!
Nhưng, “đột ngột”- một sự xuất hiện không dự báo trước. “Trăng cứ tròn vành vạnh/
Kể chi người vô tình/ Ánh trăng im phăng phắc/ Đủ cho ta giật mình”.
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy,
viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả
sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một
cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự
khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng
lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà
lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng
là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh,
đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” - “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được
những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là
nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn
đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình
với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương
lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối
mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
(Sưu tầm)
Nguyễn Duy "Ánh trăng"- Nguyễn Duy
16
1. Tác giả:
Nhà thơ Nguyễn Duy (tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ), sinh năm 1984, tại xã
Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.
Tham gia cong tác từ 1965, làm tiểu đội trưởng dân quân trực chiến khu vực Hàm
Rồng - Thanh Hóa. Năm 1966, nhập ngũ tại Bộ tư lệnh Thông tin, lính đường dây,
tham gia chiến đấu tại các chiến trường : Khe Sanh - Đường 9 -
Nam Lào. Từ năm 1967, chuyển khỏi quân đội về làm báo Văn nghệ Giải phóng. Hiện
công tác tại tuàn báo Văn nghệ .
Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ, 1973); ánh trăng (thơ, 1984); Nhìn ra bể rộng
trời cao (bút kí, 1985); Khoảng cách (tiểu thuyết, 1985); Mẹ và em (thơ, 1987);
Đường xa (thơ, 1989); Quà tặng (thơ, 1990); (thơ, 1994);
Tác giả đã được nhận: Giải Nhất thơ tuần báo Văn Nghệ (1973); Tặng thưởng loại A
về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1985).
"Xuất hiện vào chặng cuối của chiến trang chống Mĩ cứu nước, từ khoảng 1972 trở đi,
Nguyễn Duy đã trở thành một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
Cho đến nay, Nguyễn Duy vần là một trong số không nhiều nhà thơ "thời ấy" con
sung sức và được bạn đọc yêu thích. Có thể thấy tài năng và con đường thơ của ông
phát triển và khẳng định gắn chặt với những tháng năm đầy những biến động của
lịch sử dân tộc. Những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, với chùm thơ đăng trên
báo Văn nghệ nảm 1972, Nguyễn Duy đã chiếm được lòng mến mộ của độc giả. Nhà
phê bình Hoài Thanh có công phát hiện và giới thiệu Nguyễn Duy . Ông đã khẳng
định ở thơ Nguyễn Duy có một vẻ đẹp "không gì so sánh được" ,
"Quen thuộc mà không nhàm chán" , "Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp
của những cuộc đời cần cù, gian khổ" , chất thơ của Nguyễn Duy chính là "cái hiền
hậu, một cái gì rất Việt Nam".
Sau chiến thắng năm 1975, Nguyễn Duy vần say sưa và tiếp tục con đường thơ của
mình. Tiếng thơ của ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu
quen thuộc mà hấp dẫn người đọc. Tập thơ nổi bật của Nguyễn Duy là tập ánh trăng
(1984). Tập thơ được coi là một bước tiến trong thơ Nguyễn Duy , tập thơ đã được
tặng Giải A của Hội Nhà văn Việt Năm 1984 (cùng với tập thơ hoa trên đá của Chế
Lan Viên) ánh trăng tiếp tục viết về bộ đội, về cuộc đời người lính sau chiến tranh với
những vần thơ tha thiết và thấm thía, những trăn trở băn khoăn (ánh trăng, nghe tắc
kè kêu trong thành phố ). Cũng ở tập thơ này, Nguyễn Duy còn dành nhiều bài thơ
viết về tuổi thơ, ruộng đồng cây cỏ, những vùng quê với những con người thân thuộc
bằng một tình cảm tha thiết nặng tình, nặng nghĩa (Đò Lèn, Tuổi thơ, Cầu Bố, Ông
già sông Hậu, Gửi Huế, Lời của cây, Sông Thao, Đà Lạt một lần trăng, ). Vần tiếp
tục chất giọng ca dao đậm đà, thân thuộc nhiều bài trong ánh trăng viết theo thể lục
bát hết sức nhuần nhị, ngọt ngào nhiều khi khó mà nbiết phân biệt được những bài
ca dao (Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nm dùng trong nhà trường).
2. Tác phẩm:
Bài thơ ánh trăng được xem như là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ về cội nguộn và ý
thức trước lẽ sống thủy chung.
17
Suy tư của người lính sau chiến tranh trong bài thơ "Ánh trăng"
Suy tư của người lính sau chiến tranh trong bài thơ "Ánh
trăng"
Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống
hàng ngày. Tưởng như sự bận rộn hôm nay sẽ khiến người ta quên lãng quá khứ.
Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những
thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng”
cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy
chung nghĩa tình cùng quá khứ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”.
Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là
nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng
đường dài sống trong tình thương yêu, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê
ấy, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng như mái nhà, như người bạn thân thiết của tâm
hồn. Ở đó tâm hồn tình cảm con người cũng đơn sơ thuần phác như chính thiên
nhiên. Trăng và người đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà thủy chung tưởng như
không bao giờ có thể quên được.
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Khi chiến tranh kết thúc. Người lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với ánh điện, cửa
gương, những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của
trăng. Cuộc sống hiện đại với nhiều tiện nghi đã làm cho con người thờ ơ, vô tình với
những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí chung một chiến hào mà trăng là biểu
tượng.
“Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Từ hình ảnh vầng trăng “tri kỉ”, vầng trăng tình nghĩa trở thành người dưng qua
đường, Nguyễn Duy đã diễn tả được cái đổi thay của lòng người, cái lãng quên, dửng
dưng đến phũ phàng. Cái so sánh thật thấm thía: “như người dưng qua đường”.
Cũng như dòng sông có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội.
Cuộc đời vốn cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành,
của những con người từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đặt con người vào bối cảnh.
“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buynh đinh tối om
18
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”.
Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm khắp không gian thì vầng trăng
xuất hiện khiến con người ngỡ ngàng trứơc ánh trăng thân thương của tuổi thơ trên
những nẻo đường ta sống và trong cuộc chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại
làm cho lòng người thay đổi Trước người bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói, chẳng
trách khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. Ánh trăng soi chiếu khiến người
ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ánh trăng trước sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy
một cách trong sáng, vô tư, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xưa ai đó quay
lưng dù trong quá khứ trăng là tri kỉ. Nhưng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động,
đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong khổ thơ “vô
ngôn” thể hiện sự bình tĩnh đáng quí. Qua bài thơ Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ
đẹp không bao giờ kết thúc. Dường như cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con
người lãng quên ánh trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn
con người không bao giờ ngơi nghỉ và việc hoàn thiện mình của chính mỗi con người
cũng không phải một sớm một chiều.
Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con
người. Người lính năm xưa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu
tranh loại bỏ sự vô tình vô nghĩa của bản thân, hướng tới sự cao cả, tốt đẹp.
“Ánh trăng” là bài thơ không quên về quá trình hướng thiện, quá trình hoàn thiện
mình của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay.
(Sưu tầm)
Cảm Nhận Về Ánh Trăng ( Nguyễn Duy) - Ngữ Văn 9
CẢM NHẬN VỀ ÁNH TRĂNG ( NGUYỄN DUY)
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành
đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại.
Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm
nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong
thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí
sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học sinh
trường PTNK thành phố Hồ Chí Minh).
Bài do cô giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí
Minh, cung cấp.
========================*****===================== ===
Bài làm:
19
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành
đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại.
Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm
nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong
thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí
sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân
ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa
tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà
thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng
thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi
quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và
trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong
sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả
một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và
lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn
cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới
đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ
“ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc
ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không
phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để
“chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió,
vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân
dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng
sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.
Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người
bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho
âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang
tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất
hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và
giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của
20
những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ
phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại
trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người
không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần
với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó,
người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng
thể quên được,“người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không
quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm
rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính
phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người
bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc
mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi
những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người
lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ
về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng
cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất
ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật
chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”,
“đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó
chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con
người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị
anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ
bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi
mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm
lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi
con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc
sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời
người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc
quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng,
cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như
người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị
quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt
21
người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự
trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng
vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm
thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới
có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào
dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép
nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản
hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ
và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái
tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn
thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những
hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết
lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị
suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng
không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình.
Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận
ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ
điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần
của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chởù cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi
người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy
thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì
hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài
thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật.
Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể
hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu
tâmtình đã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc/./
(Nguồn: Internet)
Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng dưng và đặc
biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng
dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy.
==============
Trăng- Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để
rồi những tác phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh
tuyệt đẹp, lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy lại mang một tính chất triết lý thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ
22
nguồn”. Đối với nhà thơ đây là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng
dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chuông gióng lên, đánh
thức tâm hồn u tối trong mỗi con người.
Có thể nói, với mỗi chúng ta, vầng trăng là một vật thể bình thường mà thiên nhiên,
đất trời ban tặng. Nhưng với Nguyễn Duy, vầng trăng không những là hình ảnh của
quê hương mà nó còn là người bạn tri âm, tri kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa
yêu thương, là một quan toà lương tâm trong tận sâu thẳm tâm hồn nhà thơ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”.
Tuổi thơ tác giả được gắn bó với “vầng trăng”, “với đồng”, “với sông” rồi “với bể”.
Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi người dân quê Việt Nam. Đến lúc đi
chiến đấu trăng lại như người bạn thân luôn sát cánh bên người lính, cùng người lính
trải nghiệm sương gió, bom đạn của chiến tranh, của đời lính. Tình cảm gắn bó bao
lâu, nay chỉ biết hợp thành hai “tri kỷ”. Một tình bạn thật đẹp, thật cao cả và trong
suy nghĩ của người lính:
“Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Nhưng rồi năm tháng gian khổ qua đi, nay người lính năm nào đã xa làng quê thanh
bình của tuổi thơ về với thành phố cùng với những tiện nghi sinh hoạt:
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện đi qua ngõ
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên, những ngày khó khăn trong chiến trường cùng
“vầng trăng” đã đi vào dĩ vãng. Người lính năm xưa đã vô tình lãng quên quá khứ,
quên người bạn “tri kỷ” của mình. Dẫu bạn- đồng chí, có đi ngang qua ngõ thì cũng
chỉ là một thoáng lướt qua. Một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí người lính.
Nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt “Đèn điện tắt”, người lính phải giật mình sững
sờ:
“Đột ngột vầng trăng tròn”.
“Vầng trăng” lại tìm đến và đối mặt với người lính. Người bạn năm xưa đã tìm đến,
bạn ư? Bao lâu nay người lính đã quên mất rồi! Nhưng, “đột ngột”- một sự xuất hiện
không dự báo trước.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy,
viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả
sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một
cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự
khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng
23
lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà
lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng
là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh,
đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” - “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những
điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình
bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá
khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình
với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương
lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối
mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
(Nguồn - Internet)
Về hai tác phẩm "Ánh trăng" và " Bến quê"
BÀI HỌC LÀM NGƯỜI TRONG HAI TÁC PHẨM“ÁNH TRĂNG” CỦA NGUYỄN DUY
VÀ “BẾN QUÊ” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
HÀ CHÂU ANH
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học
Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu
sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc động chân thành.
Trong văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã rất
thành công trong cảm hứng ngợi ca đất nước và nhân dân anh hùng. Từ sau năm
1975 đến nay, đất nước từng bước chuyển mình để đi đến sự đổi mới toàn diện.
Trên cái nền hiện thực ấy, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút của
mình vào các vấn đề có tính chân thực cao về đời sống xã hội. Một trong những đề
tài được quan tâm là sự tự thức tỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách.
Đọc tác phẩm “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy và “Bến Quê” của Nguyễn Minh Châu, ta
cảm nhận sâu sắc bài học làm người mà mỗi tác giả đã gửi gắm trong hành trình tìm
về nguồn cội và cuộc đấu tranh tự vấn lương tâm để thức tỉnh chính mình.
Đôi khi giữa cuộc sống phồn hoa đô hội, con người với đầy đủ những tiện nghi sinh
hoạt hiện đại, sang trọng, bị cuốn hút bởi nhiều thú vui mới lạ, hấp dẫn dễ đánh mất
đi những gì đẹp đẽ thân thương của quá khứ mà đáng lẽ phải trân trọng nâng niu,
yêu quý. Ta đã bắt gặp điều ấy qua “Ánh Trăng”. Bài thơ đã đạt giải A trong cuộc thi
thơ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. “Ánh Trăng” là lời nhắc nhủ về những tháng
năm gian lao mà anh dũng, nghèo khổ mà nồng ấm tình thương cuả cuộc đời người
chiến sĩ gắn bó với thiên nhiên, với con người bình dị, hiền hậu, Nguyễn Duy đã gợi
nhớ một miền ký ức thẳm sâu:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
24
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Dù sống ở “đồng”, ở “sông” hay ở “bể” ở “rừng” thì đi đâu nhân vật trử tình “Ta”
cũng có “Trăng” bầu bạn. Quan hệ giữa Vầng Trăng – Ta là quan hệ tri kỉ. Không
gian “Đồng” “Sông” “Biển” “Rừng” gợi nhớ quá khứ gian khổ. Ở đó Vầng Trăng đã trở
thành máu thịt của Ta:
“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ đến Vầng Trăng Tình nghĩa là quá trình gắn bó sâu nặng khẳng
định một tình cảm vững bền tưởng như không bao giờ thay đổi. Thế nhưng, “người ta
định rồi chẳng bao giờ người ta làm được” (lão Hạc – Nam Cao).
Nhân vật trữ tình trong Ánh Trăng đã như thế!
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
Vầng Trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ, Vầng Trăng Tình nghĩa nay đã biến thành Vầng Trăng người
dưng! Qủa là một sự thay đổi không thể lường trước. Một sự phản bội?
Điều gì đã làm nên sự phản bội đáng xấu hổ ấy? Phải chăng là sự đổi thay về môi
trường sống: Từ miền gian khổ thiếu thốn, khó khăn về nơi đầy đủ, sung sướng? từ
giữa thiên nhiên mộc mạc chân chất.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây ảo”
Về với “Ánh điện cửa gương:…? phải chăng “có mới, nới cũ”? Lối sống mới, cuộc sống
mới với bao nhiêu cái mới đã làm cho Ta quên đi Ánh Trăng quá khứ, đúng là sự tự
cắt bỏ đi một phần máu thịt của chính mình! Thế nhưng, “cuộc đời vốn đa sự, con
người vốn đa đoan” chỉ đến khi trong cuộc sống gặp trắc trở khó khăn thì Ta mới có
dịp để nhìn lại chính mình:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Chính trong lúc khó khăn ấy của cuộc sống, Vầng Trăng, lại đột ngột xuất hiện trọn
vẹn, thủy chung. Đối diện với “trăng tròn vành vạnh” là sự đối diện với sự vẹn tròn
chân thật, yêu thương và ấm áp. Đối diện với lòng độ lượng, khoan dung của quá
khứ ân tình, ân nghĩa Ta chợt thấy giật mình:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
25