Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Chúa Trịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.78 KB, 8 trang )


Chúa Trịnh
Chúa Trịnh (1545 – 1787) là tập đoàn phong kiến kiểm soát quyền lực nhà nước
Đại Việt thời nhà Hậu Lê, khi nhà vua không có thực quyền vẫn được duy trì ngôi vị.
Bộ máy triều đình lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu.
Nổi lên nắm quyền lực
Sau khi vua Lê Hiến Tông mất năm 1504, các vua kế vị đều là những hôn quân hoặc
yếu ớt. Đến năm 1527, quyền thần Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê Cung Hoàng rồi
sáng lập nhà Mạc. Năm 1533, ở Thanh Hóa, một võ tướng nhà Lê là Nguyễn Kim nổi
dậy chống lại nhà Mạc. Ông tôn lập hậu duệ nhà Lê là Lê Duy Ninh làm vua, tức là Lê
Trang Tông vào thời Lê Trung Hưng. Trong vòng 5 năm, tất cả các vùng phía nam
sông Hồng nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Lê Trung Hưng nhưng họ không thể
chiếm Thăng Long. Trong thời gian này, nhà Lê cũng phát triển thế lực về phía Nam,
chiếm quyền kiểm soát vùng cực nam lãnh thổ nơi từng là đất đai của Chăm Pa.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, mẹ thích ăn gà nên ông thường
bắt trộm gà của hàng xóm cho mẹ ăn. Hàng xóm rất ghét, nhân khi Trịnh Kiểm đi
vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ đâu bèn đi tìm,
đến vực tìm ra xác mẹ thì mối đã xông đầy lên rồi. Sau có ông thày tướng đi qua chỉ
vào ngôi mộ mẹ Trịnh Kiểm đọc rằng:
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Truyền tộ bát đại
Tiêu tường khởi vạ
Nghĩa là:
Chẳng đế chẳng bá
Quyền nghiêng thiên hạ
Truyền được tám đời
Trong nhà dấy vạ
Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia
nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Ngọc Bảo cho.


Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực quận công. Năm 1545,
Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn
thể quân đội.
“Phù Lê diệt Mạc”
“Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ”
Nắm quyền trong triều đình Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh Kiểm lo đối phó với
các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực. Ông đầu độc giết con cả của Kim là
Nguyễn Uông. Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hãi xin xuống trấn giữ vùng Thuận
Hóa - Quảng Nam ở phía Nam. Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ
mang tiếng, mà Thuận - Quảng là nơi xa xôi, “ô châu ác địa” nên bằng lòng cho
Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng. Từ đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ
quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi
nhà Lê, nhưng còn do dự sợ dư luận, bèn sai người tìm đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm bấy giờ đang ẩn dật. Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình (“Giữ chùa thờ
Phật thì ăn oản”), Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy
Bang, cháu 5 đời của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ
đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò, làm bề tôi cho nhà Lê,
hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người đời truyền lại câu: “Lê tồn
Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.”
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Hai anh
em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa
hai đường không thể cự nổi bèn đầu hàng nhà Mạc, được nhà Mạc thu nhận và phong
chức.
Bản ý của vua Lê Anh Tông là ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, do đó mâu
thuẫn với Trịnh Tùng. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi khác. Trịnh Tùng
lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó, Trịnh Tùng
lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về lập mưu giám sát, rồi bức chết. Từ đó
vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh Tùng tự mình xử trí mọi việc trong triều. Các
vua Lê sau có ý định chống lại đều bị xử tử và thay thế bằng một hoàng đế nhỏ tuổi

hoặc dễ bảo hơn.
Khôi phục Thăng Long

Tranh vẽ đám rước chúa Trịnh xuất hành, thế kỷ 17

Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt
(trên danh nghĩa vẫn là chiến đấu dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía
bắc. Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù
Lê diệt Mạc”, thanh thế họ Trịnh ngày một lớn. Ở vùng Tây bắc, anh em Vũ Văn Mật,
Vũ Văn Uyên cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy phục. Sau đó năm 1550,
thái tể nhà Mạc là Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là Nguyễn Thiến
mang gia quyến về hàng.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co. Được tăng sức mạnh,
họ Trịnh liên tiếp tấn công ra bắc đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long.
Nhà Mạc lúc đó dưới sự chèo lái của Khiêm Vương Mạc Kính Điển đã đứng vững.
Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải
Dương) nhưng quân Lê-Trịnh vẫn không vào được Thăng Long. Ngược lại, sau những
đợt tấn công ra bắc, quân Trịnh cũng phải đối phó với những đợt tiến công vào Thanh
Hóa - Nghệ An của Mạc Kính Điển. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co
nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê-Trịnh, Nguyễn
Quyện bên Mạc.
Sau khi trấn thủ Thuận Hoá (năm 1558), năm 1570, Nguyễn Hoàng lại xin trấn thủ
Quảng Nam. Chúa Trịnh mải lo chiến trường phía bắc nên chấp thuận. Năm 1572,
Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn
phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Vua Mạc là Mậu Hợp
ít lo chính sự, phụ chính Mạc Đôn Nhượng không đủ năng lực. Quân Lê-Trịnh bắt đầu
chiếm ưu thế. Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long.
Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh
thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ kinh thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân

tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ
chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn
Quyện bị bắt rồi bị giết, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại
ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên nên muốn giết Khuê.
Tháng 8 năm 1592, Bùi Văn Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với
Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mạc Mậu Hợp thua chạy
về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự
mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến ác liệt tại khu vực các phủ
Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân Mạc thua to. Mạc Mậu
Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Sau vài cuộc chiến khác chống lại các thế lực tàn dư nhà Mạc, Trịnh Tùng rước vua
Lê Thế Tông trở lại Thăng Long năm 1593.Họ Trịnh đánh dấu quyền lực bằng cách
tiến hành xây Phủ chúaở Thăng Long.
Dẹp tàn dư họ Mạc
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc
chưa bị tiêu diệt hết. Các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc
quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623.
Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Đại Việt có lợi cho họ nên can thiệp
để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Vì vậy cháu Mạc Kính Điển là Kính Khoan và
con Khoan là Kính Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đã làm chủ Bắc
Bộ và Bắc Trung bộ.
Khi nhà Minh sụp đổ (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ
Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn
(1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh
Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm
dứt.
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đã xây dựng căn cứ và phát triển thành

một thế lực độc lập, hình thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy các chúa Nguyễn
vẫn hợp tác với chúa Trịnh để chống nhà Mạc và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà
Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai trị các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt
với một chính quyền độc lập. Hơn thế nữa, họ đã có công mở rộng lãnh thổ Đại Việt
lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa Nguyễn
ngày càng trở nên khó chịu đối với các chúa Trịnh.
Những sự căng thẳng lên đỉnh điểm năm 1627 khi chiến tranh nổ ra giữa hai phe.
Trong khi phe chúa Trịnh kiểm soát một vùng rộng lớn và đông dân cư hơn, thì chúa
Nguyễn lại có nhiều ưu thế. Thứ nhất, họ chỉ muốn bảo vệ lãnh thổ của mình, họ
không muốn tấn công miền bắc. Thứ hai, chúa Nguyễn có thể lợi dụng ưu thế về các
tiếp xúc của mình với những người châu Âu, đặc biệt là những người Bồ Đào Nha, để
mua các loại súng hiện đại của châu Âu. Thứ ba, điều kiện địa lý cũng ưu đãi cho họ,
đất đai phẳng vốn thích hợp cho những quân đội được tổ chức lớn lại hiếm có ở lãnh
thổ của họ, nơi núi non hầu như lan ra đến tận biển.
Chúa Nguyễn xây dựng hai giới tuyến rất vững chắc kéo dài vài dặm từ biển đến tận
các ngọn đồi ở phía bắc thành Phú Xuân. Họ đã bảo vệ hai giới tuyến này chống lại
nhiều cuộc tấn công của các chúa Trịnh. Trong thời gian từ 1627 đến tận 1672, hai bên
giao chiến cả thảy 7 lần. Năm 1655, quân Nguyễn thắng thế vượt sông Gianh đánh
Nghệ An, chiếm 7 huyện và mang theo nhiều dân cư ở đây vào khai khẩn trong nam.
Năm sau quân Trịnh phản công chiếm lại.
Năm 1672, hai bên đình chiến, Tây Định Vương Trịnh Tạc và Hiền Vương Nguyễn
Phúc Tần lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt Việt Nam. Đất nước bị chia ra bởi hai
gia đình cai trị. Hai bên cùng mang danh nghĩa tôn phò nhà Hậu Lê.
Dẹp yên khởi nghĩa nông dân
Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh
Cương đều là những chúa giỏi cai trị. Sau khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh-
Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn thịnh trị.
Các chúa Trịnh cai trị khá tốt, luôn giữ hư danh cho vua nhà Lê. Tuy nhiên họ là
người lựa chọn ra vua, họ thay thế vua khi họ thích và họ cũng có quyền cha truyền
con nối để chỉ định nhiều quan chức hàng đầu trong triều đình. Không giống như các

chúa Nguyễn, những người thường gây chiến với Chân Lạp và Xiêm La, các chúa
Trịnh giữ quan hệ hòa bình hữu hảo với các nước láng giềng.
Năm 1729, Trịnh Cương chết, con là Trịnh Giang lên thay. Trịnh Giang phế bỏ vua Lê
Duy Phường (1729-1732), lập Lê Thuần Tông (anh Duy Phường) rồi giết Duy Phường
năm 1735; tư thông với cung nữ của cha, lại gây ra thuế khóa nặng nề làm mất lòng
dân. Từ đó nông dân liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa. Đó chính là phong trào khởi nghĩa
nông dân Đàng Ngoài.
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa. Năm 1739, hậu duệ nhà
Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải
Dương. Tông thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật
đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa. Đến năm 1740 đồng loạt
các cuộc khởi nghĩa lớn của quận He Nguyễn Hữu Cầu, quận Hẻo Nguyễn Danh
Phương và Hoàng Công Chất bùng phát. Chính sự Bắc Hà hết sức rối ren.
Trịnh Giang không khắc phục được khó khăn, lại mắc bệnh nằm bẹp dưới nhà hầm
không điều hành được công việc. Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh phế bỏ Trịnh
Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài năng, Trịnh
Doanh điều chỉnh chính sách, ra tay đánh dẹp, dần dần củng cố lại tình hình Bắc bộ.
Trong cuộc chinh phạt các cuộc khởi nghĩa, nổi lên tên tuổi các danh tướng Hoàng
Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đình Trọng. Đến khi Trịnh Doanh mất (1767), cơ bản
các cuộc khởi nghĩa đều bị dẹp tan, chỉ còn Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật. Con
Doanh là Trịnh Sâm lên ngôi nhanh chóng dẹp nốt các cuộc khởi nghĩa này năm 1769.
Lê bại Trịnh vong
Tây Sơn khởi nghĩa
Hòa bình lâu dài với Đàng Trong kết thúc khi cuộc nổi dậy Tây Sơn ở phía nam chống
lại chúa Nguyễn bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn được chúa Trịnh Sâm coi là một
cơ hội để kết liễu chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam. Năm 1774, Trịnh Sâm cử lão
tướng quận Việp Hoàng Ngũ Phúc mang quân tấn công và chiếm Phú Xuân. Quân
Trịnh tiếp tục tiến về phía nam trong khi quân Tây Sơn chiếm các thành khác ở trong
nam. Các chúa Nguyễn giữ Gia Định tới tận khi nó bị chiếm vào năm 1777 và dòng họ
nhà Nguyễn gần như bị tiêu diệt.

Lần đầu tiên bờ cõi của Lê-Trịnh được mở rộng đến Quảng Nam.
“Truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi vạ”
Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm là truyền được 8 đời chúa. Năm 1782, Trịnh
Sâm qua đời. Ngay từ khi Sâm còn sống đã diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa
con trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán. Cán còn nhỏ nên thực chất đó là phe
Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đình Bảo (cháu
Hoàng Ngũ Phúc). Vì Tuyên phi được sủng ái nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi
Sâm mất, Trịnh Cán lên thay, quận Huy phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông
làm binh biến giết chết quận Huy, phế bỏ Trịnh Cán và đưa Tông lên ngôi chúa, đổi
tên là Khải.
Tuy nhiên từ khi Trịnh Khải lên ngôi, chính sự cũng không sáng sủa. Quân kiêu binh
cậy công làm càn, cướp của, phá phách kinh đô, kể cả nhà các quan lại. Trịnh Khải
không dẹp nổi.
Ngoài biên cương, sau khi quận Việp mất, thành Phú Xuân giao cho Bùi Thế Đạt. Sau
Đạt cũng rút về bắc giao lại cho Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể. Tướng sĩ kiêu
ngạo, lơ là mất cảnh giác phòng bị.
Vua chúa cùng chạy
Xem thêm: Nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ
Tây Sơn không muốn trở thành kẻ bầy tôi của các chúa Trịnh và sau một vài năm củng
cố quyền lực ở phía nam, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ tiến ra phía bắc Đại Việt vào
giữa năm 1786 với một đội quân đông đảo. Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại và
chúa Trịnh Khải phải chạy về phía bắc rồi sau đó bị bắt và tự vẫn.
Quân Tây Sơn rút về, sau đó các bầy tôi cũ lại lập con Trịnh Giang là Trịnh Bồng lên
ngôi. Vua Lê mới là Chiêu Thống muốn chấn hưng nhà Lê nên triệu Nguyễn Hữu
Chỉnh đang trấn thủ Nghệ An ra giúp. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi
mất tích.
Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm
ra giết Chỉnh rồi đến lượt Nhậm lại mưu cát cứ ở Bắc Hà khiến Lê Chiêu Thống phải
bỏ đi lưu vong, chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Vua Càn Long điều một
đội quân lớn tới Đại Việt nhằm tái lập vua Lê. Quân Thanh chiếm được Thăng Long

năm 1788 nhưng sau đó bị Nguyễn Huệ giáng cho một đòn nặng nề đầu năm 1789.
Quân Thanh thua to, rút chạy. Nguyễn Huệ -lúc ấy đã là hoàng đế Quang Trung - sau
đó được vua Thanh công nhận và chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt. Chiêu
Thống lưu vong và mất (1793) ở Trung Quốc.
Các chúa Trịnh cầm quyền từ năm 1545 đến năm 1787, tổng cộng 243 năm, được 10
đời chúa. Nếu kể cả Trịnh Cối và Trịnh Cán là có 12 chúa. Xét ra đời Trịnh Khải,
Trịnh Bồng ngắn và rối ren nên thường chỉ tính 8 đời cầm quyền vững vàng, thịnh trị
của họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm như lời “sấm ngữ”. Có lẽ câu chuyện về
mẹ Trịnh Kiểm do đời sau đặt ra.
Đánh giá
Các chúa Trịnh đã tránh một số vấn đề quản lý triều đình bằng cách lựa chọn người
giỏi nhất từ thế hệ trẻ họ Trịnh để cai trị đất nước. Thứ bậc anh em không được họ
Trịnh coi trọng nhiều và đã có lời nói rằng đứa con thứ hai sẽ trở thành người lãnh đạo
tốt hơn. Giống như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này, các chúa Trịnh cũng gặp
phải vấn đề với các cuộc nổi dậy của nông dân và việc không có ruộng đất đã trở
thành một nguồn gốc gây nên các vấn đề cho triều đình.
Các chúa Trịnh chú ý tới việc giữ vững các quan hệ tốt với Trung Quốc và giữ gìn xã
hội Khổng giáo hơn các chúa Nguyễn. Những người châu Âu hầu như không có lãi
khi buôn bán với các chúa Trịnh, cả người Hà Lan (năm 1637) và người Anh (năm
1673) đều đã lập thương điếm nhỏ ở trung tâm Thăng Long nhưng không phát triển
được.
Vào những năm sau này khi nhà Nguyễn nổi lên và cai trị toàn bộ Việt Nam, các chúa
Trịnh đã bị đánh giá thấp, thậm chí lên án trong chính sử, điển hình là sách "Khâm
định Việt sử Thông giám cương mục". Nếu nhìn nhận khách quan hơn, phần lớn các
chúa Trịnh đều là những người tài. Chỉ trừ Trịnh Giang, các chúa từ Trịnh Kiểm đến
Trịnh Sâm đều là những vị chúa tài ba, do đó đã hoàn thành việc đánh dẹp và cai trị
phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Đại Việt ổn định trong gần 2 thế kỷ. Chiến tranh
Trịnh-Nguyễn diễn ra trong 45 năm giữa thế kỷ 17 nhưng trong thời gian đó Bắc Hà
không có cuộc bạo loạn, chống đối nào của nông dân.
Các chúa Trịnh Căn, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm ngoài võ công còn được đánh giá là

những người hay chữ. 5 chúa đầu từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Căn đều rất thọ (từ 68 đến
81 tuổi), hẳn các chúa cũng phải là những sống người nghiêm túc và điều độ. Các
thành tựu của nhà Lê Trung Hưng thực chất là thành tựu do các chúa Trịnh.
Hiển nhiên với ngôi vị “phi đế phi bá”, vừa thực sự là người cầm trịch trong bộ máy
chính quyền, vừa phải cảnh giác với sự nổi dậy đòi quyền của họ Lê, các chúa Trịnh
phải luôn có thái độ cứng rắn, cương quyết, không thể ôn hòa như các vua Hiến Tông,
Túc Tông nhà Lê sơ trước đây, nhằm bảo vệ địa vị của mình. Do đó việc phế lập tại
triều đình trong cuộc đấu tranh đó là khó tránh khỏi. Chỉ có các vua Lê bằng lòng sống
chung với họ Trịnh mới có thể tồn tại.
Trong 3 chúa cuối cùng của họ Trịnh, trừ Trịnh Cán quá nhỏ không đáng kể, hai chúa
Trịnh Khải và Trịnh Bồng dù không đủ năng lực nhưng cũng là những người biết cách
rút lui. Trịnh Khải tự vẫn không để mình lọt vào tay Tây Sơn, Trịnh Bồng bỏ đi mai
danh ẩn tích khi biết dòng họ mình không còn đủ uy tín để giữ ngôi cai trị. Không ai
trong họ Trịnh đi cầu viện nước ngoài như những người đứng đầu các tập đoàn song
song tồn tại khi đó là Nguyễn Phúc Thuần (định cầu viện nhà Thanh), Nguyễn Ánh
(cầu Xiêm, Pháp, Bồ), Lê Chiêu Thống (cầu viện Thanh). Các tập đoàn phong kiến Lê
và Trịnh gần như cùng mất một thời điểm nhưng cách rời bỏ vũ đài chính trị của họ
Trịnh không giống với họ Lê.
Danh sách chúa Trịnh

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×