Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nói với con (tài liệu hay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.64 KB, 22 trang )

NHÀ THƠ Y PHƯƠNG
KIN TRÚC VIT: NHÀ THƠ Y PHƯƠNG TÊN THẬT LÀ HỨA VĨNH SƯỚC, SINH NGÀY 24-12-1948
TẠI LÀNG HIẾU LỄ, XÃ LĂNG HIẾU, HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG. THƯỜNG TRÚ TẠI
D2, P212, THANH XUÂN BẮC, HÀ NỘI. DÂN TỘC TÀY. ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
HỌC SINH TRƯỜNG CẤP I,II,III THỊ TRẤN TRÙNG KHÁNH. NHẬP NGŨ NĂM 1968, BỘ ĐỘI ĐẶC
CÔNG, VÀO CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM NĂM 1972. NĂM 1981 CHUYỂN NGÀNH. HỌC TRƯỜNG
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM KHÓA 1976-1979, HỌC TRƯỜNG VIẾT VĂN NGUYỄN DU KHÓA II (1982-
1986). SAU TỐT NGHIỆP CÔNG TÁC TẠI SỞ VĂN HÓA THÔNG TIN CAO BẰNG. NĂM 1991: PHÓ
GIÁM ĐỐC SỞ VĂN HÓA THÔNG TIN CAO BẰNG. NĂM 1993: CHỦ TỊCH HỘI VĂN HỌC NGHỆ
THUẬT TỈNH CAO BẰNG. NĂM 2004: PHÓ BAN THƯỜNG TRỰC BAN SÁNG TÁC, TRƯỞNG BAN
KIỂM TRA HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM. ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM KHÓA 6.
TÁC PHẨM:
- "NGƯỜI HOA NÚI" (KỊCH BẢN SÂN KHẤU-1982);
- "TIẾNG HÁT THÁNG GIÊNG" (TẬP THƠ-1986);
- "LỬA HỒNG MỘT GÓC" (TẬP THƠ IN CHUNG-1987);
- "LỜI CHÚC" (TẬP THƠ-1991);
- "ĐÀN THEN" (TẬP THƠ-1996);
- "CHÍN THÁNG" (TRƯỜNG CA-2000)
- "THƠ Y PHƯƠNG" (TẬP THƠ-2002);
- "THẤT TÀNG LỒM" (NGƯỢC GIÓ-THƠ SONG NGỮ TÀY - VIỆT-2006);
- "ĐÒ TRĂNG" (TRƯỜNG CA-2009).
GIẢI THƯỞNG:
- GIẢI A CUỘC THI THƠ TẠP CHI VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI (1983-1984)VỚI CÁC TÁC PHẨM: "TÊN
LÀNG", "PHONG TUYẾN KHAU LIÊU", "NÓI VỚI CON".
- GIẢI THƯỞNG LOẠI A TẬP THƠ "TIẾNG HÁT THÁNG GIÊNG" GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC 1987
CỦA HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM.
- GIẢI A TẬP THƠ "LỜI CHÚC" CỦA HỘI ĐỒNG VĂN HỌC DÂN TỘC 1992, HỘI NHÀ VĂN VIỆT
NAM.
- GIẢI B GIẢI THƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG TRƯỜNG CA "CHÍN THÁNG" 2001;
- GIẢI THƯỞNG NHÀ NƯỚC CÁC TÁC PHẨM "TIẾNG HÁT THÁNG GIÊNG", "LỜI CHÚC". "CHÍN
THÁNG" 2007.


NHÀ TH Y PHNG
NGUYỄN XUÂN HẢI
Tôi lặng nhìn ông. Nhà thơ mà tôi hằng yêu mến, đã đoạt Giải nhất cuộc thi thơ tạp chí Văn
nghệ Quân đội năm 1983 - 1984, được trao Giải thưởng Nhà nước với ba tập thơ nổi tiếng:
"Tiếng hát tháng giêng", "Chín tháng" và "Lời chúc"; từng đảm nhiệm chức Phó giám đốc Sở Văn
hóa - Thông tin, rồi Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, từng là Ủy viên Ban Chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6… có quan niệm hạnh phúc thật giản dị. Giản dị như "chén
nước" mà ông tâm niệm "chớ rót đầy"
Hết ngắm nhà thơ lại nhìn bức tranh miền núi khá đẹp treo trên bức tường ngăn phòng giữa
nhà. Được biết nhà thơ là người dân tộc Tày miền núi Trùng Khánh, Cao Bằng. Có lẽ nên bắt
đầu câu chuyện từ bức tranh kia chăng? Tôi tự nhủ như vậy và hỏi:
- Nhìn bức tranh treo ở vị trí trang trọng nhất trong nhà, em nhớ đến những câu thơ rất ấn
tượng trong bài "Tên làng" của bác:

"Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan tành tiếng thác
Vang lên trời vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con"
Phải chăng bức tranh là góc nhìn của họa sĩ nào đó về làng Hiếu Lễ nơi bác sinh ra?
Nhà thơ trầm ngâm:
- Họa sĩ gì đâu. Bức tranh do con trai mình vẽ. Đúng là có một góc làng Hiếu Lễ trong tranh. Đó
là những dãy núi và ngôi làng xây bằng đá hộc hậu cảnh. Còn tiền cảnh là vùng non nước Cao
Bằng thu nhỏ. Cháu đã chọn những phong cảnh đặc trưng nhất của cả miền quê rộng lớn đưa
vào tác phẩm của mình. Một cây cầu treo khấp khểnh như câu thơ của ông bà, một con sông
thượng nguồn như suối nhạc
- Nếu như con trai của bác vẽ tranh về quê hương bằng cọ, bằng màu thì bác cũng có những
bức vẽ quê hương bằng ngôn ngữ và nhạc điệu là thơ phải không ạ? Em nhớ trong bài "Nói với

con" bác viết những câu thơ rất gợi:

"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm nên phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con"
Đọc thơ bác có thể hiểu được nỗi lòng của người con với quê hương. Trong số những tập thơ
mà bác đã xuất bản, thành công nhất vẫn là mảng thơ viết về đất đai và con người một miền
non nước phên dậu của Tổ quốc. Nhưng hình như những bài thơ đầu tay của bác lại viết về
người lính?
Nhà thơ hồi tưởng:
- Đúng như vậy. Chính trong môi trường quân ngũ mình mới bắt đầu sáng tác và nhận ra năng
khiếu thơ của mình. Còn nhớ năm 1968, tròn 20 tuổi, mình nhập ngũ và là một anh lính đặc
công thực thụ. Trải qua những tháng ngày luyện tập vất vả, hết ở vùng núi Miếu Môn, Hà Tây
đến miền sông biển Hải Phòng, hình ảnh đồng đội - những người lính đặc công đã trở thành
thân thiết. Trong một đợt thi báo tường của đơn vị, mình gửi luôn ba bài thơ, trong đó hai bài
viết về bộ đội đặc công và một bài viết về những người lính dân tộc thiểu số tham gia cuộc
chiến tranh vệ quốc.
Cũng tháng đó mình được chọn làm “lính thuyết minh phim” trong đội chiếu bóng của Tổng cục
Chính trị. Đội chiếu bóng được lệnh vào phục vụ cho phái đoàn Liên hiệp quân sự bốn bên ở
trại Đavít, gần sân bay Tân Sơn Nhất. Tiếp đó đội chiếu bóng được lệnh phục vụ cho các đồng
chí lãnh đạo mặt trận đóng ở khu căn cứ Lộc Ninh. Mãi đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng
mình mới trở ra miền Bắc.
Nghe các bạn trong đơn vị cũ kể: Những bài thơ của mình đăng trên báo tường đã lọt vào "mắt
xanh" một nhà thơ nào đó. Hai bài thơ nhan đề "Phía mặt trời mọc" và "Dáng một dòng sông"
được chọn in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Được tin ấy, mình sướng đến phát cuồng và

những trang in đầu đời ấy vẫn còn lung linh đến tận bây giờ. Đến tạp chí nhận báo biếu và
nhuận bút mà mát từ gan bàn chân, mát lên đến tận đỉnh đầu…
Vâng, trong bài thơ "Dáng một dòng sông" nhà thơ Y Phương viết từ năm 1972 đã có những câu
chữ khá tinh tế về người lính ở một binh chủng đặc biệt:
"Rét
Run
Văng người
Sông lẳng lặng
Càng về đêm càng sáng"

Nhưng bạn đọc biết đến Y Phương, nhớ Y Phương nhiều hơn là thơ tình yêu. Một bạn thơ đã
nhận xét: Chừng như Y Phương là một nhà "yêu học", một người sinh ra để yêu và để làm thơ
ngợi ca vẻ đẹp của người đàn bà. Trong một bài thơ tình ngắn, ông viết:
"Khi lửa tắt
Nó thoát vào không khí
Khi mặt trời lặn
Nó thoát vào không khí
Khi mặt trăng lặn
Nó thoát vào da thịt em."
("Da thịt em").
Một bài thơ tình khác, bài "Mùa hoa" cũng rất ngắn, đọc xong, một bạn văn đã phải thốt lên:
"Sẽ buồn biết mấy nếu ở cái xứ mà trà vừa rót đã nguội, rượu chưa kịp nhắm đã nhạt không có
những vần thơ làm liêu xiêu hồn người như:
"Mùa hoa
Mùa đàn bà
Mặt đỏ phừng
Thừa sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi
Mùa hoa
Mùa đàn ông

Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ".
Khi tôi hỏi về hoàn cảnh và thời gian ra đời bài thơ này, Y Phương tâm sự:
- Hồi đang học ở Trường viết văn Nguyễn Du, tình cờ một lần mình nghe được một câu chuyện
đùa liên quan đến sự phồn thực của người Tày. Câu chuyện ấy trở thành nỗi bức xúc nội tại
thôi thúc mình sáng tác… Mình đã viết những câu thơ theo cách tư duy và xây dựng hình tượng
của người Tày… Có lẽ vì thế mà bài thơ đã tìm được lối riêng đến với bạn đọc.
- Và bác còn viết cả bằng tiếng Tày, phải không ạ?
Thay cho câu trả lời, nhà thơ bước vào phòng viết lấy ra tập thơ song ngữ mang nhan đề
"Ngược gió - Thất tàng lồm" do Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc ấn hành. Tập thơ khá dày dặn,
44 bài, một bên tiếng Việt, một bên tiếng Tày. Sau khi viết lời đề tặng cho tôi, nhà thơ bộc
bạch:
- Sáng tác thơ bằng tiếng dân tộc là rất cần thiết. Đó cũng là một cách tốt nhất để góp phần
bảo tồn văn hóa và chữ viết. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta thiếu một cơ chế giúp cho các nhà
văn người dân tộc hào hứng với việc sáng tác văn chương bằng tiếng dân tộc. Thứ nhất là đầu
ra của tác phẩm. Với cơ chế thị trường hiện nay, sách in bằng tiếng dân tộc rất khó bán, không
có lợi nhuận nên các nhà xuất bản không mặn mà đón nhận nó.
Hiện chúng ta đã có Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc nhưng kinh phí tài trợ cho việc xuất bản các
tác phẩm bằng tiếng dân tộc rất hạn hẹp và nhuận bút trả cho tác giả cũng rất thấp. Khi sáng
tác bằng tiếng dân tộc, nhà văn phải tư duy bằng hình tượng của dân tộc mình rồi thể hiện
bằng hai thứ tiếng nên lẽ ra nhuận bút phải cao hơn so với sáng tác bằng một thứ tiếng, chứ
không thể bằng hay thấp hơn như cách trả hiện nay.
Có lẽ vì thế mà lâu nay hầu hết các nhà văn dân tộc thiểu số sáng tác chủ yếu bằng tiếng phổ
thông. Riêng tôi, tự thấy phải có trách nhiệm với việc bảo tồn văn hóa và chữ viết của dân tộc
mình nên dẫu nhuận bút có thấp, thậm chí không có thù lao, tôi vẫn tiếp tục sáng tác bằng cả
hai thứ tiếng. Trong dòng thơ song ngữ ấy, "Ngược gió - Thất tàng lồm" là tập đầu
Tôi mở tập sách do nhà thơ vừa tặng, lật trang 8, trang 9 có bài "Ngược gió - Thất tàng lồm" và
đọc được những dòng như sau:
"Ngót sáu mươi năm đi bộ
Bây giờ anh mới gặp

Một hồ nước lân tinh
Một miền người tươi xanh
Ngược đồi gió mang theo hơi ấm
Anh đang có một trời sao chín
Một bếp lửa hồng sắp sửa trăm năm
Dẫu một ngày chỉ một bữa ăn
Làm vui cả rừng buồn, biển sầu, núi khóc
Anh đang lớn như người ta vẫn ước
Ước một đời trẻ lại khó gì đâu
ấy là khi anh cười rung rung chòm râu"
Quả là những câu thơ đậm phong cách Y Phương và tựa như tuyên ngôn thơ của ông trong giai
đoạn mới. Phải chăng trong cái hồ nước lân tinh kia có cả một chén nước xúc cảm tâm hồn
của nhà thơ từ nhiều năm trước. Phải chăng trong cái bếp lửa hồng trăm năm kia có cả một
thanh củi mà nhà thơ đã chọn làm địa chỉ e-mail của mình. Y Phương còn có "Mẹ đất" (tên bài
thơ đầu trong tập "Ngược gió - Thất tàng lồm".
Nhà thơ đã hội tụ đất, nước và lửa trong dòng chảy cảm hứng văn chương và đã thành công
trong rất nhiều sáng tác. Từ nhiều năm trước, nhà thơ Tế Hanh đã nhận xét về ông như sau: Y
Phương là một nhà thơ, một nhà thơ miền núi rất mới mẻ, thơ anh vừa dân tộc, nhưng vừa có
cái gì hiện đại, hôm nay và mai sau Còn nói như một bạn thơ thì "Chén nước xúc cảm tâm
hồn ông đã rót đầy tràn qua mí mắt người đọc thơ ông nữa". Và tôi cũng nghĩ như vậy
*Kiế
n trúc sư Đoàn Đức Thành và nhà thơ Y Phương cùng có tuổi thơ ở Trùng Khánh, Cao Bằng.
CHÙM TH Y PHNG
Chén nc
Anh tự biết mình như chén nước
Chớ rót đầy
Cao Bằng, 1986.
Lng l đêm
Trên đầu ta
Trăng khe khẽ sáng

Sương khe khẽ lắng
Mây khe khẽ trôi
Dưới lưng ta
Chiều khe khẽ thở
Trong ngực ta
Khe khẽ người
Mùa hoa
Mùa hoa
Mùa đàn bà
Mặt đỏ phừng
Thừa sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Mùa đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn vừa đi vừa ngái ngủ.
Ánh trăng
Dưới ánh trăng
Tiếng đàn then
Vừa đủ nghe
Cỏ lấp lánh
Khe khẽ ướt
Tiếng đàn nép vào nhau
Ánh trăng nhợt trên đầu
Buồn vô cớ dềnh lên.
Cao Bằng, 1987.
Đi tìm
Nhà em tận miền Đông
Nhà anh mãi miền Tây
Từ anh sang em

Đi hỏng đôi giày
Anh đi quên vung tay
Cởi áo vắt vai
Phăm phăm bước
Mặt trời cũng một mình
Đi tìm
Mặt trăng.
Cao Bằng, 1987.
Ct giu
Vàng bạc với đá quý
Anh cất vào rương hòm khóa kỹ
Nhưng em, anh biết giấu vào đâu
Thôi đành
Nuốt em vào trong bụng.
Ngi đp ph Vn Cam
Hình như hồi xưa
Mẹ nuôi Hương bằng hoa
Với xôi nếp dẻo
Nên da em mịn màng
Có nhiều lần
Anh trộm ngó sang
Rồi một lần
Thấy em sắp cưới anh chàng dở hơi
Tiếc là
Anh có vợ rồi
Mới sinh em bé cũng xôi nếp vàng
Thế rồi
Chẳng hiểu vì sao
Chân cứ tìm sang
Phố Vườn Cam

Phố Vườn Cam
Thuở nào.
Phố Vườn Cam, 1999.
Ru cn
Vò rượu cần
Từ từ nóng
Từ từ uống
Từ từ say
Không rõ đêm hay ngày
Từ từ nắm tay em hay em nắm tay ta
Là là bay vào cõi tiên
Trời
Khi tỉnh dậy
Chỉ còn mình ta nằm còng queo trên giường ôm rượu rỗng.
Đăk Lăk, 1996.
Nói vi con
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn.
Tên làng
Con là con trai của mẹ

Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Em - cn ma rào - ngn la
Tặng K
Nhiều như nước suối
Nhớ em
Nhiều như lá hoa
Nhớ em
Em hiền lành
Chậm chạp
Em đội chum rượu đến với anh
Bằng đôi chân to khoẻ
Lách qua đau khổ
Đến với anh
Em mới nở cho anh một cô nàng đa cảm nữa

Ôi
Em
Cơn mưa rào
Ngọn lửa
Có em về
Anh mất dần thói xấu
Biết ăn năn trước lúc bình minh
Khẩu súng trường qua cuộc chiến tranh
Anh bắn vỡ tảng ngực thằng xâm lược
Em là mực trong ngòi
Là cơm trong nồi
Là gà gáy
Cũng là quả ớt
Những gì anh có được
Đều bắt đầu từ em
Chờ đón em
Hạt ngô bông lúa
Em về cấy gặt
Có em rồi ngắn ngày tháng Chạp
Bàn tay mềm ra suối lại thơ ngây
Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp.
Cao Bằng, 1980
Ph xa
Phố xưa
Bây giờ vẫn như xưa
Những mái nhà nâu
Những cột nhà đen
Đêm đêm lép bép ngọn đèn.
Tôi đi trên con đường xưa
Tránh đứa trẻ đang bò chơi bi

Tránh ông già lim dim sưởi nắng
Tránh người yêu xưa đầu đường áo trắng
Con trên vai đi thẳng chẳng nhìn ai
Giận nhau lâu
Nhớ nhau dài
Tôi trở về tìm người yêu xưa ở phố
Em gọi
Nhưng tôi không ngoái cổ
Giả vờ đi.
Trùng khánh, đêm 29 tháng Chạp.
Lên Cao Bng
Chúng tôi lên Cao Bằng
Vượt đèo Cao Lù
Qua đèo Lê A
Đến đèo Liêu qua đèo Mã Phục
Xuyên qua rừng vầu rừng trúc
Như bầy ong như đàn chim.
Chúng tôi lên Cao Bằng, Cao Bình
Bước đá
Bước mây
Bước mùa đông
Bước mùa hè
Cây đàn tính dây trong dây đục
Ăn cơm lam mấy khúc
Áo tơ tằm đi đánh giặc bền lâu.
Lên Cao Bằng chưa rõ phố phường đâu
Sương tháng Chạp mịt mù sông Hiến
Chỉ lấy đường
Chỉ lấy đèolàm vui
Làm đẹp

Hoa cháy đỏ miền rừng Phja bjooc
Dòng Khuổi Slao con gái tắm cùng trăng
Hút thuốc lá Cao Bằng
Mới thấy đất quê mình thơm lâu đến thế
Đất sinh ra em
Đất hiền như mẹ
Đất Hòa An cho giọng nói mềm sao
Đất Trùng Khánh, giọng miền cao
Nghe hơi cứng
Câu Hà Lều nghiêng ngả
Lên Cao Bằng xin đừng làm lạ
Mời rượu cả chum mời quả cả cây
Có thương em anh mới tới đây
Đi qua bản không vào nhà là người già trách đấy
Tết tháng Giêng hẹn từ tháng Bảy
Tin nhau không nói nhiều lời.
Lên Cao Bình đâu cũng gọi nàng ơi
Lên Cao Bằng đâu cũng nhớ người ơi.
Cao Bằng, ngày cấm rượu.
 !"#!$!%& &'
()*
(TT&VH Online) - +,-./!0!123 !"#4567&-89:
;<!12=.!>=?=?@:!< ABC!DEEFG/!2
(H"2. ;2,=I2B((C3,DEIEJ0?"/F7!>=.
= K2'&&2L K2/FMIL&<.=!.2E!"&!"I/-&:=
N!%!12=&:- O.!N-O&(.”
P+&&>!=A?=3,&E)IQ R*
Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm
1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm
đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát

Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo
đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như
một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ
xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người
xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo,
sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón”
cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa
con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình.
Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là
lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy
giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng
như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào
những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài
thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo,
đói khổ bằng văn hóa.
Bài thơ 28 câu này được xem
như là viết riêng cho đứa con
đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài
thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa
dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp
của văn hóa truyền thống dân tộc Tày.
Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên
tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm
của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những

tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác
phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng
lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác
phẩm của mình.
PNL/" < !JISI,0 N3
Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng
khiến nhiều người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như chưa hiểu hàm ý của
hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa
của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu
thốn khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc
không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi.
Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con
cháu mình. Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô.
Không phải do tôi sợ đánh mất bản bản sắc riêng mà là niềm tự hào chính đáng về văn hóa dân tộc của
mình. Tôi tự hào vì tôi là người Tày.
Có lần, một cậu bé ở tận trong Huế lặn lội ra Hà Nội, tìm đến nhà và
hỏi chuyện tôi về bài thơ. Hình như cậu bé chuẩn bị thi vào trường
quốc học Huế. Đúng vậy. Cậu học trò ấy đã chọn bài thơ “Nói với
con” để làm bài thi môn văn. Và cậu ấy đã đỗ thủ khoa. Một số giáo
viên ở trường chuyên ở các tỉnh, cũng đích thân tới tận nhà gặp và
hỏi trực tiếp tôi về bài thơ “Nói với con”.
Bài thơ mà mọi người hay băn khoăn thắc mắc nhất là hai
câu: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ” nghĩa là sao?
Tôi bật cười, cái đó thì quá đơn giản. Có gì đâu, đứa con sinh ra thì
phải có cha có mẹ. Đó là khởi điểm của một con người. Một điều
nữa “vách nhà ken câu hát” làyếu tố văn hóa phi vật thể. Người con
trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho

nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây
không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất bằng đá nữa. Nó đã trở
thành một chủ thể văn hóa. Văn hóa ăn nhau ở sự khác biệt chứ
không nói sự hơn kém.
Câu chuyện với nhà thơ người Tày Y Phương tưởng như không thể
dứt ra được. Từ chuyện ông ước mơ đi học các phép thuật để làm
thầy tào; chuyện ông đi “buôn lậu” đến những quan niệm của ông về
làm thơ. Mời các bạn đón đọc kỳ sau.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập
ghềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao
quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
"Tôi là người dân tộc Tày.
Chúng tôi sinh hoạt như những
người Tày ngay giữa lòng Thủ
đô "
Nhà thơ Y Phương
Nói với con - Y Phương.
NÓI VỚI CON
I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.Tác giả
- Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh
năm 1948, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Y Phương
nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981
chuyển công tác về Sở Văn hóa – thông tin Cao Bằng. Từ năm
1993, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao
Bằng.
- Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong
sáng, cách tư duy hình ảnh của con người miền núi
2.Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng
đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, quê hương vốn là một
tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam suốt bao đời nay. Bài
thơ Nói với con cũng nằm trong cảm hứng lớn rộng, phổ biến

ấy nhưng Y Phương đã có một cách nói xúc động của riêng
mình. Hình thức người cha tâm tình, dặn dò đối với con đã đem
đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin
cậy.
II.Phân tích bài thơ
1.Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối
với con.
- Con lớn lên từng ngày trong tình yêu thương, trong sự nâng
đón và mong chờ của cha mẹ. ở bốn câu thơ đầu, bằng các
hình ảnh thật cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình
đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười
của con đều được cha mẹ chăm chút, mừng vui đón nhận.
- Con được trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên
nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương.
+ Cuộc sống lao động cần cù và tười vui của “ người đồng
mình” được nhà thơ gợi lên qua các hình ảnh đẹp: “ Đan lờ cài
nan hoa – Vách nhà ken câu hát”. Các động từ cài, ken vừa
miêu tả cụ thể nói lên tình cảm gắn bó, quấn quýt.
+ Rừng núi quê hương thật thơ mộng và nghĩa tình. Thiên
nhiên ấy đã che chở, đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn,
lối sống: “ Rừng cho hoa – Con đường cho những tấm lòng”
2.Những đức tính cao đẹp của “ người đồng mình” và mong ước
của người cha qua lời tâm tình với con.
- “ Người đồng mình thương lắm …Không lo cực nhọc”, “ Người
đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ gắn
bó với quê hương dẫu còn cực nhọc đói nghèo. Từ đó, người
cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thủy với quê
hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý
chí, bằng niềm tin của mình.
- “ Người đồng mình thô sơ da thịt…Nghe con”. Người đồng

mình mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể thô sơ
da thịt nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và mong
ước xây dựng quê hương. Chính những con người như thế, bằng
sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày, đã làm nên quê hương
với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp: “ Người đồng
mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm
phong tục ”. Từ đó, người cha mong muốn con biết tự hào với
truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin mà vững bước
trên đường đời.
3.Cảm nhận về tình cảm của người cha đối với con, rút ra điều
lớn lao nhất mà người cha truyền tới được cho con.
- Tình cảm yêu thương trìu mến, thiết tha và niềm tin tưởng
của người cha qua lời nói với con.
- Điều lớn lao nhất mà người cha truyền tới cho con chính là
lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống
cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời.
4.Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ
- Giọng điệu thiết tha trìu mến
- Xây dựng các hình ảnh cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc
mà vẫn giàu chất thơ.
- Bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên.
Nguồn: Sưu tầm
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ “Nói với con” (SGK lớp 9) tại nhà
riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này.
Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy
sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên,
ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói:“nghề chính của tôi là tạp vụ, có
nghề phụ làm thơ.”
Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với
con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả
nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như
một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh
giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu

như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành
“phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu
lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do
lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin.
Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng
như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích
cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta
phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa. Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp,
bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa
truyền thống dân tộc Tày.
Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết
đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em
học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện
nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng
lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình.
Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng khiến nhiều
người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như
chưa hiểu hàm ý của hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong
SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và
sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà
đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc
không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai
căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân
tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con cháu mình. Tôi là người dân tộc Tày.
Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô. Không phải do tôi
sợ đánh mất bản bản sắc riêng mà là niềm tự hào chính đáng về văn hóa dân tộc của
mình. Tôi tự hào vì tôi là người Tày.
Có lần, một cậu bé ở tận trong Huế lặn lội ra Hà Nội, tìm đến nhà và hỏi chuyện tôi

về bài thơ. Hình như cậu bé chuẩn bị thi vào trường quốc học Huế. Đúng vậy. Cậu
học trò ấy đã chọn bài thơ “Nói với con” để làm bài thi môn văn. Và cậu ấy đã đỗ thủ
khoa. Một số giáo viên ở trường chuyên ở các tỉnh, cũng đích thân tới tận nhà gặp và
hỏi trực tiếp tôi về bài thơ “Nói với con”.
Bài thơ mà mọi người hay băn khoăn thắc mắc nhất là hai câu: “Chân phải bước tới
cha/ Chân trái bước tới mẹ” nghĩa là sao? Tôi bật cười, cái đó thì quá đơn giản. Có gì
đâu, đứa con sinh ra thì phải có cha có mẹ. Đó là khởi điểm của một con người. Một
điều nữa “vách nhà ken câu hát” làyếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi
ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm
đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất
bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Văn hóa ăn nhau ở sự khác biệt
chứ không nói sự hơn kém.
Câu chuyện với nhà thơ người Tày Y Phương tưởng như không thể dứt ra được. Từ
chuyện ông ước mơ đi học các phép thuật để làm thầy tào; chuyện ông đi “buôn lậu”
đến những quan niệm của ông về làm thơ
(TT&VH Online).
 !"!12TU=
V
32E N)!2!"
Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít.
Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia
đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ
của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc,
che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp
giọng nói tiếng cười:
Chân phải
tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay,
trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút

từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con
sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia
đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ
thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hường sâu nặng
nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình, là những người
cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh địa
phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền
núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình
ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách
nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho
hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến
cho con bao điều tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê,
trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao
dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi
xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn
của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh
phúc:
Cha mẹ
trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người
đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là
sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm
động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người

đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi
chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ
nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách
sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt
wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hưong : "không
chê không chê không lo" dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn
nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là
lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp
cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm
thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc
mạc thiếu thốn nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê
hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương".
Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn
dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng
"nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của
nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến wá.
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn
ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình
ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta
hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống,
với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống .

+N3+()&B W!2;"3 
!"#!12.X(SEJ2(C3Y N!0(
Z>!.JLE[!12()?X&!2 !"F
Bài làm


Gửi người cha vùng cao
Cha Y Phương yêu kính !
WI!&Y!12!2\L23]!“ Nói với con#.
!^QLJ2"32"?%]!L_3`":;H N!
(2IL(a2(/B(b!"FG"3,.)!2
E<L!"&/!12!BE;K.Jc(/&!12!"JL
;"LFG/3O!""&!2L=.!/IL
!"@&&!=!2A`A.!d30"FG2.J]!!"?"e
&Y(.!!"&Y(.IR!"J&(\L<()
LI-FG"(SfE!W-!f3,I
I!&&<;" '2E!12!2(.3L=&F+!
!2!d30"KfINL@&-03,;K>
ISCho hoa#!"I!"2tấm lòngFg!;K)
!X!H.!"I)(H&!"(S?=\L<FG"
EE<L<<NL\L2f)!2A:E.!&
<<&2I)!122K&BL&Y(;b!2dh+!
J;" '2E!12!2(.>;K.!LC!I!"W
!^):->!3Fi aI2?_E
302?=!RL?L-O!!/j"!/I( k!
!a&( l!;"!/Y<LI;<;kEF
G"E<L.!0(-O!Người đồng mình#&Y(!2*
G2IS;LEN!"!"J]!(: =33,?,!"3,
.3,W  ),!"!(%2)!2F
G2E<B(.!"JJ23f(@(I/W-NIQ
302I-FmL<()!'j"I.??n
\LE,!"J?=!>IL(!"Jc".?<L
SM!2"ILIQkê cao quê hương#FG"J&(
I! )!J]!.!B( !0&!!2&L=E<L.
AoK3!!"IFG2.!^3,c32"!"

ISE<L(0I a!2"IEYEI,,FG&!"
E<L3HJc=J(C!(:!!12. E<L3HI!!2F
G"(!0(!LC!JIS!"!"I!&(!"!12
!2FG23,?=.IR!"J?Y!f&!2
A:EI,JL!LC!I ?Y!!0JcL!;"B(
b302f2-0?=!2h
Con gái của cha.
Nguyễn Thị Thanh HuyềnLớp 9A – THCS Thanh Thuỷ - Phú Thọ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×