Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

THIẾT KẾ SẢN PHẨM (PHẦN 3) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.47 KB, 8 trang )

THIẾT KẾ SẢN PHẨM
(PHẦN 3)
3.2 Phân loại công nghệ·
Theo nghĩa rộng công nghệ có thể được phân thành hai nhóm:
Công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình.
Công nghệ sản phẩm là nói đến những nỗ lực công nghệ nhằm phát triển
các sản phẩm hoặc dịch vụ mới, Ví dụ như VCR hoặc tài khoản quản lý tiền mặt.
Những công nghệ trên điển hình phát sinh từ việc thiết kế sản phẩm hoặc dịch vụ
các hoạt động nhằm phát triển sản phẩm và dịch vụ, điều này sẽ được nhắc đến ở
một phần khác.
Trong phần này, chúng tôi chỉ muốn tập trung vào công nghệ quá trình và
những tác động của nó đến hoạt động tác nghiệp trong các doanh nghiệp sản xuất
và dịch vụ. Công nghệ quá trình là nói đến việc tập trung các thiết bị và quy trình
sản xuất được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Sự khác biệt giữa
công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình có thể không hoàn toàn tuyệt đối.
Nhiều công nghệ tiến bộ (như những thay đổi về quá trình) về cơ bản bao
gồm cả việc cải thiện chất lượng của một số thiết bị sản xuất. Những thay đổi về
công nghệ của một quá trình có thể cũng có liên quan đến các sản phẩm trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ cuối cùng (ví dụ như máy tính cá nhân, các thiết bị và hệ
thống thông tin liên lạc).
- Có một cách phân loại công nghệ khác, đó là: Công nghệ phần cứng và
công nghệ phần mềm, thường được gọi phổ biến là phần cứng và phần mềm. Phần
cứng là nói đến các thiết bị, máy móc hoặc công cu. Trong khi phần mềm là nói
đến một tập hợp các quy tắc, thủ tục hoặc các hướng dẫn cần thiết để sử dụng phần
cứng.
Ví dụ, thiết bị kiểm tra quá trình tự động đòi hỏi một ngân hàng phải trang
bị phần cứng và cả phần mềm để có thể vận hành thiết bị nói trên. Tuy nhiên
người vận hành cũng có thể sử dụng một phần mềm khác để vận hành thiết bị trên.
Nói chung, phần cứng và phần mềm mang lại nhiều ích lợi cho công nghệ.
Vì thế, công nghệ mới có thể bao gồm những tiến bộ ở phần cứng hoặc
phần mềm, hoặc cả hai. Ở một số trường hợp, chỉ tồn tại phần mềm và khi đề cập


đến những thay đổi là những thay đổi trong phần mềm.
3.3 Những công nghệ được sử dụng trong quá trình sản xuất
Trong khi sự thay đổi công nghệ nói chung đều tác động đến hầu hết mọi
ngành công nghiệp, thì đôi khi có một số thay đổi công nghệ chỉ tác động trong
một ngành công nghiệp duy nhất.
Ví dụ, gạch bông là một tiến bộ công nghệ diễn ra duy nhất trong ngành
công nghiệp xây dựng. Còn lại hầu hết những tiến bộ công nghệ trong những thập
niên gần đây đều có một ý nghĩa lớn và tác động rộng đối với nhiều ngành công
nghiệp.
Nhìn chung, những tiến bộ trên mang lại sự tự động hoá nhiều hơn trong
quá trính sản xuất, trong đó máy móc được sử dụng thay thế trong các quy trình do
con người thực hiện.
Những ví dụ về các loại máy móc chính trong công nghệ sản xuất là thiết bị
điều khiển bằng số, trạm nhóm các máy điều khiển bằng số, robô công nghiệp, hệ
thống sản xuất và thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính (CAD, CAM), hệ thống sản
xuất linh hoạt (FMS), hệ thống điều khiển và hoạch định sản xuất tự động, và hệ
thống sản xuất điều khiển bằng máy tính.
Sau đây, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết về các loại công nghệ trên, đặc biệt là
công nghệ sản xuất điều khiển bằng máy tính và công nghiệp thiết kế với sự hỗ trợ
của máy tính.
- Thiết bị điều khiển bằng số bao gồm (1) máy công cụ điều hành được sử
dụng nhằm xoay, khoan, mài các chi tiết khác nhau của nhiều bộ phận; và (2) một
máy vi tính điều khiển các trình tự thực hiện của máy công cụ. Thiết bị điều khiển
bằng số lần đầu tiên được sử dụng tại các doanh nghiệp không gian Hoa Kỳ vào
năm 1960 và từ đó được sử dụng nhiều ở các ngành khác.
Trong nhiều mô hình về phần phản hồi những thông tin điều khiển gần đây
nhằm xác định vị trí của máy công cụ trong suốt quá trình làm việc, nhằm so sánh
vị trí thực của máy so với vị trí của máy theo chương trình, và thực hiện sửa chữa
khi cần thiết. Quá trình này được gọi là điều khiển thích nghi.
- Trạm nhóm điều khiển bằng máy thể hiện tính tự động hoá và linh động

cao hơn so với thiết bị điều khiển bằng máy. Các trạm máy không chỉ cung cấp
các máy móc điều khiển tự động mà còn mang những công cụ và những công cụ
này được thay đổi tự động cho phù hợp với yêu cầu của từng hoạt động tác nghiệp.
Ví dụ, một máy đơn có thể được trang bị một hệ thống vận chuyển con thoi giữa
hai vị trí làm việc để có thể cuốn vào hoặc chuyển đi.
Trong khi công việc được thực hiện tại bàn này, thì bộ phận này được đưa
đi và bộ phận thứ 2 được chuyển đến vị trí và công cụ cần thiết được đưa đến và
được phân công để thực hiện công đoạn kế tiếp Rôbô công nghiệp là những bộ
phận hỗ trợ cho các công việc thực hiện bằng tay và lặp đi lặp lại nhiều lần.
Một rôbô là một thiết bị đã được lên chương trình trước và đa chức năng,
và có thể được trang bị cánh tay cơ học (như kẹp, hoặc công cụ dùng để ráp
bulông hoặc để hàn, sơn) được dùng để thực hiện công việc lặp đi lặp lại như nhặt
hoặc đặt các thiết bị, hàn, sơn.
- Thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính (CAD) là một phương pháp hiện đại
để thiết kế sản phẩm hoặc thiết kế quy trình dựa trên sức mạnh của máy tính. CAD
bao phủ nhiều công nghệ tự động, như đồ hoạ vi tính nhằm khảo sát những hình
ảnh ảo của một sản phẩm và kỹ thuật với sự hỗ trợ của máy tính nhằm đánh giá
các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm.
CAD cũng bao gồm những công nghệ liên quan đến việc thiết kế quy trình
sản phẩm, như hoạch định quy trình sản xuất với sự hỗ trợ của máy tính: Để thiết
kế ra các chương trình điều khiển bằng số phục vụ trong vai trò như là hướng dẫn
cho các máy công cụ được điều khiển bằng máy tính, và để thiết kế cho việc sử
dụng và tuần tự của các trung tâm máy, được gọi là hoạch định quá trình.
Hệ thống CAD phức tạp có thể thực hiện các thử nghiệm giả , thay thế các
công đoạn đầy đủ của quá trình thử nghiệm mẫu và bổ sung mẫu.
- Gần gũi với CAD trong thiết kế quy trình là công nghệ nhóm , đây là
phương pháp sản xuất dựa trên việc phân loại, mã hoá, nhóm các phần và quy
trình dựa trên một hoặc nhiều yếu tố như hình dáng, nguyên liệu, và hoạt động tác
nghiệp sản xuất và công nghệ yêu cầu trong sản xuất.
Nó được sử dụng một cách rộng rãi trong việc xác định các ô của các nhóm

thiết bị có liên quan với nhau theo từng họ của các chi tiết, và cũng được gọi là sản
xuất theo ô .
- Các hệ thống vận chuyển nguyên liệu tự động (AMH) giúp cải thiện hiệu
quả của quá trình vận chuyển, lưu kho, và dự trữ nguyên liệu. Ví dụ như các băng
tải cơ giới, hệ thống tự động đặt các chủng loại nguyên liệu; và hệ thống thiết bị
hướng dẫn nhiều vị trí trong nhà máy, ích lợi của hệ thống AMH là giúp vận
chuyển nguyên liệu nhanh hơn, giảm tồn kho và giảm không gian dự trữ, giảm
thiệt hại sản phẩm và hiệu suất lao động tăng lên.
- Hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS) là nói đến một loạt các hệ thống khác
nhau ở mức độ cơ giới hoá, di chuyển tự động, và điều khiển bằng máy.
Một FMS là một hệ thống được thể hiện với sự gia tăng máy móc và sự tự
động: modun sản xuất linh hoạt, theo ô, nhóm, hệ thống sản xuất, và dây chuyền.
- Nhìn chung, chủng loại sản phẩm sẽ tăng lên từ sản xuất theo modun đến
hệ thống sản xuất linh hoạt. Hệ thống sản xuất linh hoạt là sự chọn lựa tốt nhất cho
loại hình sản xuất đa chủng loại nhưng sản lượng thấp.
- Hệ thống kiểm tra và hoạch định sản xuất tự động (MP&CS) đơn giản là
hệ thống thông tin dựa trên máy tính, giúp ta hoạch định, lập lịch trình và giám sát
hoạt động tác nghiệp sản xuất.
Hệ thống thu thập thông tin từ phân xưởng một cách liên tục về tình trạng
làm việc, nguyên liệu cung cấp, và v.v…, và giải phóng các đơn hàng hoặc thực
hiện đặt hàng. Hệ thống kiểm tra và hoạch định sản xuất phức tạp hơn cũng bao
gồm quy trình xử lý đơn hàng, kiểm tra phân xưởng, mua và tính toán chi phí.
- Hệ thống sản xuất tích hợp máy tính (CIM) là một phiên bản tự động của
quy trình sản xuất chung, trong đó ba chức năng sản xuất chính là thiết kế quá
trình và thiết kế sản phẩm; hoạch định và kiểm tra, và bản thân quy trình sản xuất
đã được thay thế bởi công nghệ tự động đã được mô tả .
Xa hơn nữa, máy móc tích hợp truyền thống dựa trên cơ sở liên lạc là viết
và nói được thay thế bởi công nghệ máy tính. Những hệ thống sản xuất tích hợp và
tự động cao như trên còn có tên gọi là: nhà máy tự động toàn diện hoặc nhà máy
của tương lai.

Bốn yếu tố quản trị chính, cơ bản xác định tốc độ ứng dụng và thành công
của một doanh nghiệp là:
- Sự kết hợp của một chiến lược CIM và nhận thức được tác động của CIM
đến hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp, chứ không chỉ là tác động đến tài
chính trong ngắn hạn.
Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định một cách rõ ràng rằng
phải cạnh tranh với đối thủ như thế nào (đặc biệt nhấn mạnh vào các yếu tố giá,
chất lượng, tính linh hoạt, sự phụ thuộc) và bằng cách nào CIM sẽ đóng góp thiết
thực cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Nhu cầu cho việc hoạch định cho toàn doanh nghiệp cần có liên hệ với
mọi chức năng kinh doanh.
Cách tốt nhất để lập kế hoạch cho CIM thường là thông qua ràng buộc về
tính kỷ luật trong công việc cùng với mối liên hệ trực tiếp với các nhà lãnh đạo
cấp cao.
- Cần thừa nhận rằng cấu trúc quản lý và các công việc của lực lượng lao
động có thể được thay đổi để tận dụng hết những tiềm năng của CIM. CIM là một
triết lý mới và là một công nghệ mới vượt qua những rào cản bộ phận và đòi hỏi
các kỹ năng công việc mới.
Cần biết rằng có một yêu cầu cần thiết để sử dụng CIM hiệu quả là sự
tương tác chặt chẽ giữa kỹ thuật và sản xuất, dẫn đến các cấu trúc theo nhóm. Các
loại nhóm tương tự hoặc các dạng mới trong các quan hệ tổ chức giữa tiếp thị, kỹ
thuật và sản xuất cũng cần phải có.
- Cần thừa nhận rằng các hoạt động khác nhau sẽ phải được thực hiện bổ
sung để hỗ trợ cho công nghệ CIM. Một công nghệ nhóm hoặc ô, sẽ đòi hỏi những
thay đổi định mức công việc, thủ tục bảo trì, công cụ (khuôn dập, thiết bị), v.v…

×