Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tim hieu 80 nam lich su Dang CSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.02 KB, 13 trang )

CUỘC THI TÌM HIỂU VỀ "75 NĂM LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM"
Câu 1: Đảng Cộng sản Việt Nam do ai sáng lập, vào thời gian nào và
được thành lập trên cơ sở hợp nhất những tổ chức cộng sản tiền thân nào?
Vào năm 1929, những hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Việt Nam. Nhưng do hạn chế về năng lực
lãnh đạo, phần vì nội bộ có sự phân hóa nên Hội không đủ sức lãnh đạo phong trào. Yêu
cầu đòi hỏi bức xúc lúc này là phải có một chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Một số người tiên tiến trong tổ chức Hội nhận thức được rằng phải giải thể "Thanh niên",
thành lập Đảng Cộng sản, tuy nhiên một số khác chủ trương vẫn duy trì Hội "Thanh
niên".
Tháng 5 năm 1929 tại Hương Cảng (Trung Quốc), Đại hội lần thứ nhất của Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên được tiến hành. Trong Đại hội, vấn đề thành lập Đảng
được thảo luận, nhưng không thống nhất. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước,
ra tuyên bố lý do rút khỏi Đại hội và kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân
cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản. Ngày 17 tháng 6 năm 1929,
Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập tại 312 Khâm Thiên - Hà Nội. Tổ chức này
phát triển ở Bắc Kỳ và cử người vào Trung kỳ, Nam kỳ vận động thành lập Đảng Cộng
sản trong cả nước.
Do sự phân hóa của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và ảnh hưởng
của Đông Dương Cộng sản Đảng, các đồng chí lãnh đạo trong Tổng bộ và Kỳ bộ Nam kỳ
cũng tuyên bố giải tán "Thanh niên" và thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào khoảng
tháng 11 năm 1929 tại Khánh Hội, Sài Gòn.
Ngày 1 tháng 1 năm 1930 tại huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, các đồng chí trong Tân Việt
ở Trung kỳ tuyên bố giải tán Đảng Tân Việt để thành lập Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn.
Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam là
đòi hỏi bức thiết của cách mạng. Thấy rõ tình hình này, năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đang hoạt động ở Thái Lan đã trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch tổ chức Hội nghị hợp
nhất các tổ chức Đảng Cộng sản trong nước.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản


họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc dự thảo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) đã quyết định lấy ngày 3-2-
1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về lãnh đạo cứu nước kéo dài mấy
chục năm.
Câu 2: Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ
sự kết hợp những yếu tố nào, tại sao như vậy?
Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ quy luật ra đời của Đảng Cộng sản nói chung cần có
02 yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin và Phong trào công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa
trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai khác tài
nguyên, bóc lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính
sách khai thác. So với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chậm và nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1897 - 1914).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống thực
dân Pháp liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào công
nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu tranh trước mắt của phong
trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước là đánh đổ thực dân Pháp,
đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm 30 của thế

kỷ XX, phong trào yêu nước dần dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Người đã dày công truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Việc thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến sỹ yêu nước để
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố
ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân,
phong trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền
thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền
lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những
trong phong trào công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa
cộng sản trong nông dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước.
Câu 3: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta trải qua các kỳ Đại hội nào, được tổ
chức thời gian nào, tại đâu? Nêu tên của các đồng chí Tổng Bí thư (hoặc Bí thư Thứ
nhất) của Đảng từ khi Đảng ta được thành lập đến nay?
1 - Sau Cao trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931, thực dân Pháp
dùng mọi thủ đoạn đàn áp. Một mặt, dùng bom đạt triệt hạ làng mạc để khủng bố tinh
thần đấu tranh của quần chúng; mặt khác, dùng âm mưu lừa phỉnh để xoa dịu quần chúng
hòng tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của Đảng.
Từ đầu năm 1931, cơ quan Trung ương Đảng, rồi lần lượt đến các cơ quan xứ
uỷ, tỉnh ủy, huyện ủy đều bị địch khủng bố ngày càng quyết liệt. Cán bộ, đảng viên bị
bắt, bị tù đày. Hệ thống tổ chức Đảng bị địch vây bắt và phá vỡ. Lúc này thiếu một cơ
quan đầu não để thống nhất chỉ đạo trong toàn Đảng. Được sự chỉ đạo của Quốc tế
cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài nước được thành lập vào đầu năm 1934 tại Ma Cao
(Trung Quốc) đứng đầu là đồng chí Lê Hồng Phong. Sau khi hệ thống tổ chức Đảng
được xây dựng lại, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển, Ban chỉ huy ở
ngoài nước đã quyết định triệu tập Đại hội Đảng lần thứ nhất.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc)
từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1935. Tham dự Đại hội có 15 đồng chí đại diện cho
các Đảng bộ Bắc, Trung, Nam, Lào và những đồng chí hoạt động ở nước ngoài. Lúc này,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang công tác ở Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong
đang dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, không
tham dự được. Đại hội nhận định tình hình thế giới, trong nước và đề ra nhiệm vụ mới
của Đảng cho thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân
dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp tại căn cứ Việt Bắc (Chiêm
Hóa, Tuyên Quang) từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951. Đại hội có 158 đại biểu
chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên của Đảng bộ Việt
Nam, Lào, Cam-pu-chia. Tại Đại hội đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương
thành Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba diễn ra tại Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 12
tháng 9 năm 1960, có 525 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên cả nước
về dự Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư diễn ra tại Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20
tháng 12 năm 1976, có 1.008 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.550.000 đảng viên về dự
Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm diễn ra tại Hà Nội từ ngày 27 đến ngày 31
tháng 3 năm 1982, có 1.033 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.727.000 đảng viên cả
nước về dự Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ sáu diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18
tháng 12 năm 1986, có 1.129 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.900.000 đảng viên cả
nước về dự Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ bảy diễn ra tại Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27
tháng 6 năm 1991, có 1.116 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.135.002 đảng viên cả
nước về dự Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tám diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28 đến ngày 1
tháng 7 năm 1996, có 1.196 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.130.000 đảng viên cả

nước về dự Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ chín diễn ra tại Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22
tháng 4 năm 2001, có 1.170 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong
cả nước về dự Đại hội.
2 - Các đồng chí Tổng Bí thư (Bí thư thứ nhất) của Đảng ta từ khi được thành lập
đến nay:
Đồng chí Trần Phú: Sinh ngày 1 tháng 5 năm 1904 tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức
Thọ, Hà Tĩnh. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 10/1930 đến tháng 1/1931.
Đồng chí Lê Hồng Phong: Sinh năm 1902, quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng
Nguyên, tỉnh Nghệ An. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 3/1935 đến tháng 7/1936.
Đồng chí Hà Huy Tập: Sinh năm 1902, quê ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên,
tỉnh Hà Tĩnh. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 7/1936 đến tháng 3/1938.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ: Sinh ngày 9/7/1912, quê ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn,
Bắc Ninh. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 3/1938 đến tháng 1/1941.
Đồng chí Trường Chinh: Sinh ngày 9/2/1907, quê ở làng Hành Thiện, xã Xuân
Hồng, Huyện Xuân Trường, Nam Định. Hai lần giữ chức Tổng Bí thư:
Lần thứ nhất: Từ tháng 5 năm 1941 đến tháng 10 năm 1956.
Lần thứ hai: Từ tháng 7 năm 1986 đến tháng 12 năm 1986.
Đồng chí Lê Duẩn: Sinh ngày 7/4/1907, quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành,
huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Giữ chức Tổng Bí thư từ năm 1960 đến tháng 7 năm
1986.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh: Sinh ngày 1/7/1915, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên
Mỹ, Hưng Yên. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 12 năm 1986 đến tháng 6 năm 1991.
Đồng chí Đỗ Mười: Sinh ngày 2/2/1917, quê ở xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà
Nội. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 12/1997.
Đồng chí Lê Khả Phiêu: Sinh ngày 27 tháng 12 năm 1931, quê ở xã Đông Khê,
huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Giữ chức Tổng Bí thư từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4
năm 2001.
Đồng chí Nông Đức Mạnh: Sinh ngày 11 tháng 9 năm 1940, quê ở xã Cường Lợi,
huyện Na Rì, Bắc Cạn. Thời gian giữ chức Tổng Bí thư: từ ngày 22 tháng 4 năm 2001

đến nay.
Câu 4: Hội nghị Trung ương lần thứ mấy của Đảng ta năm 1941 quyết định
đường lối giải phóng dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám? Nêu thời gian và địa
điểm tiến hành hội nghị đó?
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9 năm
1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và ảnh
hưởng sâu sắc đến tình hình ở Đông Dương. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới đến gần,
Đảng ta chủ trương chuyển toàn bộ tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật. Đảng bố trí một
số cán bộ, đảng viên ở lại thành phố, còn phần lớn chuyển về hoạt động ở nông thôn.
Bước vào năm 1941, trước diễn biến phức tạp của tình hình Đông Dương và thế
giới, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cơ hội cứu nước đang đến gần nên đã quyết
định về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Khi về đến Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (Khóa I) tại Khuổi Nậm,
Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 - 19/5/1941. Hội nghị quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc,
giải phóng dân tộc lên hàng đầu; coi nhiệm vụ trung tâm của cách mạng là chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị TW 8 đã giải quyết hoàn chỉnh mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và dân chủ. Hội nghị nêu rõ: "Trong lúc
này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, không đòi được độc
lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu
mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được".
Để tập hợp và động viên các tầng lớp nhân dân đông đảo đứng lên làm cách mạng
giải phóng dân tộc, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là
Việt Minh.
Câu 5: Đại hội Đảng lần thứ mấy quyết định nước ta tiến hành đồng 2 chiến
lược cách mạng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam? Nêu nội dung cơ bản của đường lối chiến lược này?
Sau khi Hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước
vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế. Theo Hiệp định Giơ - ne - vơ, từ vĩ tuyến 17

trở vào tạm thời do thực dân Pháp chiếm đóng trong vòng 2 năm, sau đó Pháp sẽ rút khỏi
miền Nam để đi đến hiệp thương thông nhất đất nước. Nhưng với dã tâm xâm lược nước
ta, đế quốc Mỹ đã từng bước thay chân Pháp chiếm đóng miền Nam hòng biến miền Nam
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960), trên cơ sở phân
tích âm mưu của đế quốc Mỹ đối với miền Nam, phân tích đặc điểm tình hình của cách
mạng nước ta, vận dụng lý luận "cách mạng không ngừng" của chủ nghĩa Mác Lê-nin vào
đường lối cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định: vào thời hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa nhân dân ở miền Nam.
Thực hiện đường lối chiến lược do Đại hội III đề ra, miền Bắc ra sức thi đua lao
động sản xuất chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Sau 20 năm đấu tranh ngoan
cường, đánh bại mọi âm mưu xảo quyệt của đế quốc Mỹ, mùa xuân năm 1975, với thắng
lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền
Nam, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược giải phóng miền Nam thống nhất đất nước do Đại
hội III đề ra.
Câu 6: Đại hội lần thứ mấy của Đảng ta định hướng ra đường lối đổi mới đất
nước? Nêu nội dung chính của đường lối đó?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18
tháng 12 năm 1986 đề ra đường lối đổi mới. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới về
kinh tế và chính trị thể hiện rõ nét trên một số nội dung sau đây:
Một là, từ mô hình kinh tế hiện vật chỉ có hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập
thể) sang mô hình mới là kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể
tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đây
là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế bao cấp sang mô hình quản lý kinh tế
theo cơ chế thị trường. Điểm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xoá bỏ cơ chế tập trung

quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà
nước.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương pháp
quản lý hành chính mệnh lệnh, sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực
hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng pháp luật, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm ba bộ phận cấu thành: Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Câu 7: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được công bố khi nào? Nêu nội dung cơ bản của Cương lĩnh?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 24 đến
ngày 27 tháng 6 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam.
Cương lĩnh đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta; xác định 7
phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt Cương
lĩnh đã nêu lên 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã xây dựng như sau:
* 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường sự đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đai, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
* 7 phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân.

Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chât - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp lên cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành chính sách xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá
làm cho thế giới quan Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại, xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến
bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
* 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Câu 8: Quan điểm "Lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt" được đề cập lần đầu tiên trong văn kiện nào, vào thời gian
nào của Đảng ta? Phân tích quan điểm này?
Quan điểm "Lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt" được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng năm 1996.
Lãnh đạo kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, bởi lẽ:
Thứ nhất, Đảng ta xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
lâu dài không được xem nhẹ nhiệm vụ nào. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn nước ta
đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp, bị chiến tranh tàn phá,
tiềm lực kinh tế còn non yếu; hiện nay, chúng ta đang đứng trước 4 nguy cơ, trong đó có
nguy cơ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế càng đòi hỏi Đảng ta phải đề ra đường lối
lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân nhằm phát huy
mọi tiềm năng của đất nước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế là trung tâm, Đảng ta xác định: Phải đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát huy cao
độ nội lực, tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Tăng trưởng

kinh tế đi liền với phát triển văn hoá từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng an ninh.
Thứ hai, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách
mạng nước ta gần 1 thế kỷ qua. Ngày nay, muốn đưa đất nước phát triển đi lên theo con
đường XHCN thì phải không ngừng xây dựng Đảng trên cả 3 mặt trận chính trị - tư tưởng
- tổ chức để Đảng ngày càng vững mạnh. Xây dựng Đảng là then chốt vì:
Từ trước đến nay, do Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, nên
mặc dù cách mạng phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, có lúc tưởng chừng như không
thể vượt qua, nhưng Đảng ta vẫn vững vàng đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi. Bước vào thời kỳ xây dựng CNXH nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân là
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Do đó, công tác xây dựng Đảng phải
được đặc biệt coi trọng để Đảng có đủ sức lãnh đạo cách mạng. Nhất là trong tình hình
hiện nay, khi mà đại đa số cán bộ, đảng viên vẫn tiếp tục phát huy truyền thống của Đảng,
gương mẫu, tiên phong, là tấm gương cho quần chúng, thì vẫn còn một bộ phận cán bộ,
đảng viên sa sút về ý chí, phai nhạt về lý tưởng, suy thoái đạo đức, lối sống, làm ảnh
hưởng đến uy tín và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, cần phải đẩy mạnh xây dựng chỉnh
đốn Đảng để loại ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá biến chất, làm trong sạch đội ngũ
và nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng.
Câu 9: Giới thiệu tấm gương Đảng viên tiêu biểu trong những năm đổi mới ở
địa phương hoặc nơi công tác, học tập mà ông, bà, anh, chị, đồng chí tâm đắc nhất;
hoặc trình bày suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về lịch sử vẻ vang của Đảng ta và vai
trò to lớn của Đảng đối với tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc Việt Nam (trả
lời một trong hai nội dung; mỗi nội dung không quá 1500 chữ).
Những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về lịch sử vẻ vang của Đảng và vai trò to
lớn của Đảng đối với tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc Việt Nam.
TôI là một cán bộ Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã có hơn hai mươi năm
công tác và hơn 17 năm tuổi Đảng. Qua quá trình học tập rèn luyện công tác và trưởng
thành, tôi đã nhận thức thấy Đảng Cộng sản Việt Nam với lịch sử 75 năm qua thật sự vẻ
vang. Đảng lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đã đánh thắng đế

quốc Pháp, đế quốc Nhật giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị lầm than, đưa dân tộc ta
đứng dậy thoát khỏi thuộc địa và có tên trên bản đồ thế giới, được tự do độc lập; Đảng ta
tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, đưa nước ta đi lên CNXH; lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới,
sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết quả rất đáng phán
khởi, đã khẳng định con đường đi lên CNXH và công cuộc đổi mới của Đảng ta thực sự
đáng phấn đấulà ý Đảng, lòng dân. Qua đổi mới Đảng ta ngày càng lớn mạnh dân ta ngày
càng no ấm, cơ sở hạ tầng ngày một được nâng cao, văn minh, hiện đại; Đảng ta và dân
tộc ta đã ngày càng được các quốc gia, dân tộc và nhân dân thế giới biết đến và cảm
phục; Việt nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt
là tất cả các cường quốc lớn, các nước phát triển đều có quan hệ mật thiết; phúc lợi xã hội
ngày càng lớn, chế độ chính sách xã hội được thực hiện tốt, các đối tượng chính sách, có
công với nước được quan tâm và chăm lo chu đáo; tất cả trẻ em đều được cắp sách đến
trường; Tất cả, tất cả đều có sự lãnh đạo của Đảng; công lao của Đảng ta đối với nhân dân
ta, đối với cách mạng Việt Nam sẽ mãi mãi khắc ghi, sẽ trường tồn cùng lịch sử. Tôi
tuyệt đối tin tưởng và khắc ghi điều đó, là cán bộ đảng viên tôi nguyện đi theo Đảng đến
cùng, cống hiến và phục vụ Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta đến hơi thở cuối cùng, sẽ tiếp
tục cố gắng học tập rèn luyện vươn lên trong công tác, hoàn thành xuất sắc mà Đảng,
thành phố và cơ quan giao phó.
Câu 10: Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng, xin ông, bà, anh, chị,
đồng chí vui lòng cho biết điều tâm huyết nhất của mình muốn góp ý kiến với Đảng
để Đảng trong sạch, vững mạnh?
Trong tình hinh tình hình hiện nay như đánh giá của nhiều hội nghị Trung ương đã
nêu: Tình hình tham nhũng ngày một gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt hơn,
đã trực tiếp đe doạ đến sự tồn vong, sự mất còn của Đảng ta, của chế độ ta, kẻ thù đã lợi
dụng tình hình tham nhũng để chống phá ta quyết liệt, chống phá ta từ trong phá ra, từ
trên phá xuống và từ ngoài phá vào. Nhiều lúc, nhiều nơi tình hình đã trở lên rất nghiêm
trọng (như vụ tham nhung tập thể có tổ chức ở Phũ Quốc - Kiên Giang báo chí đã đăng
tải, hay như nhiều vụ án lớn như Tăng Minh Phụng, như Nam Cam, ). Đây là một vấn đề
lớn và Đảng ta đã có nhiều nghị quyết để phòng chống nhưng hiệu quả thực hiện rất hạn

chế. Hầu như chưa giảm mà có thể thấy gia tăng và tinh vi xảo quyệt hơn. Do vậy tôi thấy
Đảng ta cần phải có nnhững biện pháp mạnh hơn, cương quyết hơn, quyết liệt hơn, có
phân công trách nhiệm của các cấp các ngành cụ thể hơn. Cụ thể: Trước hết là chọn
người làm công tác chống tham nhũng phải thực sự công tâm khách quan, đảm bảo đạo
đức cách mạng, thực sự là những con người có năng lực, liêm chính, chính công vô tư, có
trình độ chuyên môn. Cương quyết loại bỏ cán bộ thoái hoá biến chất, có tư tưởng tư lợi
cá nhân, bè cánh, né tránh, sợ trách nhiệm ra khỏi bộ máy lãnh đạo nhất là cơ quan chống
tham nhũng. Cơ quan chống tham nhũng phải độc lập do đại hội Đảng các cấp bầu ra và
quyền kiểm tra giám sát tất cả các cấp uỷ. Cơ quan chống tham nhũng phảo có những giải
pháp hết sức cụ thể, độc lập kiểm tra, kiểm soát cán bộ đảng viên, lãnh đạo các doanh
nghiệp Nhà Nước, hàng tháng, hàng quý phải công khai tài sản và tài sản phải được công
khai cho nhân dân được biết. Việc lấy ý kiến nhân dân đánh giá cán bộ đảng viên phải
theo hệ thống độc lập trực tiếp với dân, phải bảo vệ người tố cáo. Tổ chức hòm thư góp ý
tại tất cả các nơi làm việc có liên quan đến dân, hòm thư này do cơ quan chống tham
nhũng trực tiếp quản lý và hàng tháng kiểm tra và tổng hợp một lần. Các bộ lãnh đạo phụ
trách chống tham nhũng phải công khai số điện thoại di động, cố định để nhân dân phản
ánh nhanh trực tiếp khi cần thiết. (kể cả phải liêm yết tại các hòm thư góp ý kiến). Căn cứ
vào đơn thư đó để rà soát và thanh lọc những ý kiến góp ý để xử lý và giải quyết theo
thẩm quyền và pháp luật quy định. Nếu làm như vậy ngoài tác dụng trực tiếp để giải
quyết các vấn đề bức xúc của dân còn có tác dụng dăn đe đối với cán bộ cầm quyền khi
thực thi công việc.
Về vấn đề tư pháp, xây dựng luật đặc biệt lưu ý đến các điều kiện thực hiện, các
khung pháp lý, các khung hình phạt, xử lý, phải cụ thể rõ ràng, càng hẹp càng tốt, tránh
quá rộng dẫn đến mỗi địa phương, mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, mỗi vụ việc vận dụng một
cách khác mà vẫn đúng sẽ tạo cơ hội để cán bộ trực tiếp thực thi công việc dễ vận dụng
để tham nhũng cửa quyền ức hiếp dân.
In bản tin này

×