Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Chất độc hóa học pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.93 KB, 18 trang )



Chất độc hóa học – tội ác còn đó!



Trong 10 năm (1961- 1971), trải
dài trên các tỉnh của miền Nam
Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào,
quân đội Mỹ đã sử dụng 72 triệu
lít chất độc hóa học diệt cây,
trong đó đáng chú ý là trên 40
triệu lít chất độc màu da cam có
chứa Đioxin – chất hóa học độc
nhất và bền vững nhất mà con
người tìm ra.

Chất độc diệt cây (antiplant) là
những chất độc hóa học thường
được sử dụng dưới dạng bột, keo,
dung dịch và được phun rải bằng
các phương tiện trên không hoặc
trên bộ … để phá hoại mùa màng
hoặc các thảm thực vật, nhiều loại
chất độc còn gây tổn thương cho
con người và động vật.

Chất độc diệt cây được quân đội
Mỹ sử dụng vào mục đích chiến
tranh từ năm 1940 và tìm ra trên
1000 chất phá hoại hoa m


àu và trên
12000 chất làm rụng lá. Trong
những năm 1952- 1954, lần đầu
tiên quân Anh s
ử dụng chất độc hóa
học diệt cây vào mục đích quân sự
ở Malaysia. Từ năm 1961 Mỹ tiến
hành chiến tranh hóa học ở Việt
Nam với quy mô lớn nhất, Mỹ đã
sử dụng 72 triệu lít trên chiến
trường đủ 17 loại chất độc diệt cây
chủ yếu là chất độc da cam, chất
tr
ắng, chất xanh, chất hồng, chất đỏ
tía…Chúng được gọi với cái tên
như thế là theo màu của các vệt s
ơn
quanh các thùng chứa nhưng khi
phun dải đều có màu tr
ắng vậy mức
độ của từng chất ấy ra sao ?. Tại
sao chúng chỉ quen gọi là chất độc
màu da cam?

Chất trắng (White), một chất diệt
cay có tác dụng làm khô kiệt đất
đai, diệt cỏ và có khả năng tồn tại
lâu trong đất. Kết quả thí nghiệm
của trường Đại học Yale (Mỹ) cho
thấy: sau 467 ngày hàm lượng chất

trắng còn lại trong đất là 80-
96,6%. Chất trắng đư
ợc sử dụng thí
nghiệm ở Nam Việt Nam từ năm
1967 và có hiệu quả hơn so với
chất đỏ tía (Purle) và da cam
(Orange), sau đó được sử dụng với
quy mô lớn để triệt hại rừng già ở
dạng dung dịch nước, nồng độ
25%; gay hại cho nhiều loài thực
vật thân gỗ thân gỗ mạnh hơn chất
da cam và chỉ phun một lần là đủ
triệt phá rừng. Do khả năng tích tụ
trong các lớp đất sâu, nên có thể
di
ệt cả những cây có dễ ăn sâu, liều
lượng sử dụng 15- 16 kg/ ha. Khối
lượng chất trắng đã sử dụng ở Việt
Nam khoảng 20 triêu lít, chiếm
khoảng 28% chất độc hóa học diệt
cây đã sử dụng.

Chất xanh ( Blue), chất này tác
động lên thực vật bằng cách rút
nước của lá cây, gây héo úa mạnh
đối với cay cối. Lá cây gặp chất
độc bị khử nước, cuộn tròn lại và
rụng trong vòng từ 2- 4 ngày. Để
triệt phá toàn bộ sự sinh trưởng
quân đội Mỹ đã phun dải nhiều lần

với liều lư
ợng 8 kg/ ha. Đối với cây
lúa nước, chất xanh gây ảnh hưởng
xấu đến quá trình t
ạo hạt, cây vẫ có
vẻ phát triển bình thường, liều
lượng để sử dụng diệt cây lúa nước
từ 3- 4kg / ha chất xanh được sử
dụng từ năm 1967 đến khi Sài Gòn
được giải phóng tháng 4-
1975.Khối lượng đã sử dụng là 8
triệu lít.

Chất hồng (Pink), chất diệt cây
loại lá rộng. Liều lượng sử dụng
làm dụng lá 18- 36 kg/ha, diệt cây
lá rộng 12kg / ha, diệt cây lúa nước
từ 30-60 kg/ha, chất hồng được sử
dụng rộng rãi trong nh
ững năm đầu
của cuộc chiến tranh hóa học –
chi
ến dịch Ranch Hand do quân đội
Mỹ tiến hành ở Nam Việt Nam.
Khối lượng đã sử dụng là khoảng
454898 kg.

Chất đỏ tía ( Purple), chất độc
diệt cây thường được quân đội Mỹ
dùng vào việc khai quang, làm trịu

lá cay dọc theo các tuyến đường
vận tải thủy bộ quan trọng, ngăn
chặn hoạt động vận tải hay chú
quân của ta. Loại cây sú vẹt, đước
r
ất nhạy cảm với chất đỏ tía lá rụng
hoàn toàn sau m
ột tuần bị phun dải,
thường dùng với liều lượng 28 lít
/ha. Chất đỏ tía được quân đội Mỹ
sử dụng những năm đầu của cuộc
chiến tranh hóa học với 645.000 lít.


Chất da cam (Orange), là chất
độc diệt cây có độc tính cao, và
được sử dụng nhiều nhất ở Việt
Nam, ở dạng lỏng sánh như dầu,
màu nâu thẫm, không tan trog
nước, tan trong diesel và mỡ, dễ
xâm nhập vào màng tế bào của lá,
đặc biệt là loài cây lá kép. Chất da
cam tương tác với hệ men của cây,
ức ché quá trình quang hợp, làm
ngừng trệ hình thành chất diệp lục
làm rối loạn điều tiết sinh trưởng,
gây xoắn lá, xoắn cành rễ, nứt vỏ
thân cành. Úa đỏ, khô cành lá, quả
cây ngừng lớn và ch
ết. Chất da cam

chia làm ba loại như sau: da cam I,
da cam II, và siêu da cam( hỗn hợp
của hai chất da cam II và chất
trắng).

Chất da cam có thể diệt cây không
bằng chất trắng nhưng rất nguy
hiểm với người là do nó chứa tạp
chất Dioxin. Đây là ch
ất độc có độc
tính cao nhất trong số các chất độc
tổng hợp được biết từ trước đến
nay( chỉ cần 1g đioxin cũng đủ giết
8 triệu người), sản phẩm phụ hình
thành trong quá trình điều chế chất
da cam, là nguyên nhân gây ra các
bệnh hiểm nghèo. Theo tính toán
của các nhà khoa học Liên Xô cũ
chỉ cần 1g đioxin cũng đủ giết 8
triệu người. Thế nhưng ch
ất da cam
trải xuống đồng ruộng, làng mạc
Việt Nam chiếm tới 60% (trên 40
triệu lít) tổng khối lượng chất độc
diệt cây mà quân đội Mỹ sử dụng,
trung bình 163mg/ ha cao gấp 28-
30 lần quy định dùng trong nông
nghiệp làm ch
ất diệt cỏ. Dioxin gây
nhiễm độc qua đường hô hấp, tiêu

hóa với các triệu chứng: da v
à niêm
mạc mắt bị kích thích, nhức đầu,
nôn mửa, tổn thương gan, phổi, hệ
tim mạch, cơ thể suy nhược; biến
loạn thể nhiễm sắc, tăng ung thư
gan, nguyên phát và dị tật ở con
cái, sẩy thai …Hiện nay, chính phủ
Mỹ, Hàn Quốc đã xác định hơn 10
loại bệnh cụ thể liên quan đến
Dioxin.

Vào đầu thập niên 1960, Mỹ tiến
hành chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” và bị tổn thất nặng nề vào
năm 1961. Cố vấn quân sự Mỹ đã
đề xuất sáng kiến dùng chất độc
hóa học diệt cây khai quang quanh
những nơi có du kích . Bất chấp
phản đối của một số nghị sĩ, tháng
11- 1961, Tổng thống John F.
Kennedy ra quyết định sử dụng
chất độc diệt cây để phá dải thực
vật ngăn chặn sự chi viện của miền
Bắc. Đến năm 1962, chương trình
rải chất độc diệt cây đư
ợc triển khai
trên quy mô lớn, ở nhiều vùng
thuộc các tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở
vào và mở rộng sang cả Đông

Dương.

Thực hiện “Chiến tranh cục bộ”, từ
sau năm 1965, cu
ộc chiến tranh hóa
học cũng leo thang. Chất độc hóa
học mới, phạm vi ngày càng rộng,
cường độ ngày một tăng. Các cựu
chiến binh Mỹ kể lại, một số máy
bay C-123 hai động cơ để rải chất
độc hóa học chiếm một khoảng
diện tích lớn trong sân bay Tân S
ơn
Nhất. Thông thường mỗi tốp máy
bay đi d
ải có hai chiếc khi cần thiết
có thêm chiếc F-4 đi yểm trợ. Máy
bay trở chất độc trong các thùng
trên 4000 lít phun dải ở độ cao 40
m. Một thiệt bị bơm có áp lực lớn
sẽ đẩy chất độc xuống qua những
chiếc vòi hai bên cánh với lưu

ợng 1.050 lit/giờ. Thời gian phun
chất độc hết khoảng 3,5 phút diện
tích khoảng 140 ha/ vụ.

Theo công bố của Viện khoa học
quốc gia và cục quân sự Mỹ, tổng
số vụ rải chất độc của Mỹ là 8.532

vụ. có 10 vùng bị ảnh hưởng nặng
nhất là: Phước Long (704 vụ ),
Thừa Thiên (606 vụ), Bình Định
(558 vụ), Long Khánh (502 vụ),
Tây Ninh (473 vụ), Quảng Nam
(373 vụ), Biên Hòa (366 vụ), Bình
Dương(357 vụ),Kon Tum (311 v
ụ),
10 vùng này chiếm tới 47% lượng
chất độc mà quân Mỹ đã phun trên
toàn miền Nam. Một số lưu vực
sông vùng Đông Nam bộ, sông
Hương, sông Thạch Hãn…Vì thế,
người dân ăn phải các loài cá trên
sông bị nhiễm Dioxin đã gián tiếp
bị nhiễm độc.

Theo số liệu ban đầu, quân đội Mỹ
đã sử dụng 72 triệu lít chất độc diệt
cây nhưng mới đây có tài liệu công
bố là 100 triệu lít, trong đó đáng
chú ý là trên 40 tri
ệu lít chất độc da
cam có chứa dioxin. Kết quả, h
ơn 2
triệu ngư
ời Việt Nam bị nhiễm chất
độc, 3.340.000 ha đất bị hủy diệt,
44% đất canh tác hoang hóa.
Những khảo sát của các nhà khoa

học 20 năm sau chiến tranh cho
thấy vẫn còn 22% rừng tự nhiên và
31% đất trồng thuộc vùng b
ị nhiễm
chất độc hóa học.

Với trên 40 triệu lít chất da cam m
à
Mỹ đã sử dụng, trên tàn bộ lãnh th

miền Nam Việt Nam đẫ tồn lưu
một lượng chất độc đioxin kỷ lục
trong lịch sử chiến tranh hóa học
thế giới: 170-
600 kg dioxin. Trong
quá trình tồn dư trong đất dưới tác
dụng của điều kiện thời tiết dioxin
dịch chuyển đến các khu vực xa
hơn- vùng thấp trũng tiếp tục tồn
tại ở đó.

Hậu quả của chất độc hóa học –

chủ yếu do chất do cam có chứa
dioxin – do Mỹ tiến hành cuộc
chiến tranh hóa học ở Việt Nam
không chỉ cho tác động trực tiếp,
phải tính đến ảnh hưởng lâu dài đ
ến
môi trường sinh thái và những di

ch
ứng cho các thế hệ nạn nhân chất
độc da cam, số nạn nhân ngày một
tăng theo thời gian.

Báo cáo của hội thảo quốc tế lần
thứ 2 ( 11- 1993) về tác hại của
chất diệt cỏ Mỹ dùng trong chiến
tranh Việt Nam cho thấy: rừng nội
địa bị phá vỡ cấu trúc, ch
ức năng bị
đảo lộn. Chỉ tính riêng rừng ngập
mặn và ứng phèn, có đến 240.000
ha bị phá hủy. Đặc biệt là rừng Sác
(Cần Giờ , thành ph
ố Hồ Chí Minh)
gần như bị phá trụi không còn cả
giống trồng. Phải cần 100 năm mới
khôi phục lại hệ sinh thái ở đây.
Chiến tranh hóa học làm cho tài
nguyên lâm sản bị cạn kiệt, tính ra
có tới 75 triệu m3 gỗ bị đốt cháy
thành than. Sau chi
ến tranh, ở miền
Nam chỉ còn 29,2% rừng dư
ới mức
an toàn sinh thái, không đủ chức
năng bảo vệ môi trường, hạn chế
tác hại của thiên tai, như chống xói
mòn, hạn hán, lũ lụt …


Đối với dân thường, qua phân tích
mô mỡ những người sống trong
vùng bị nhiễm độc ở miền Nam
Việt Nam, nồng độ dioxin cao hơn
so với người thường là 3-4 lần. Do
đó, nó là nguây yên nhân lên xáo
trộn về di truyền quái
thai, ung thư,
ch
ết yểu …Thực tế sau chiến tranh,
tại những vùng bị nhiễm chất độc
dioxin, tỉ lệ sinh con quái thai cao
gấp 10 lần, sinh con chết hay sẩy
thai cao gấp 6 lần…

Cuộc chiến tranh khốc liệt đã đi
qua, nhưng hơn 15 triệu tấn bom
đạn cùng với gần 100 nghìn tấn
chất độc hóa học đang để lại nhiều
vết tích trên mỗi mét đất và di
chứng cho nhân dân Việt Nam.
Những hố bom và tiềm ẩn chất độc
hóa học vẫn còn đó ở những làng
quê Việt Nam, những con người
hằng ngày chịu những nỗi đau ra
cam,cần một lời nói trách nhiệm
của các công ty hóa chất Mỹ và
những trái tim yêu thương đồng
loại!


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×