Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

thuận - phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.56 KB, 27 trang )

CÂU HỎI THI TÌM HIỂU :
NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ PHÚ YÊN (1930-1975)
ĐỢT II
PHẦN CÂU HỎI
Câu hỏi 1: Sự ra đời của các tổ chức Đảng và việc thống nhất các tổ
chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
Câu hỏi 2: Tổ chức tiền thân của Đảng CSVN ở Phú Yên trước năm
1930. Sự ra đời của Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Phú Yên và sự phát
triển của tổ chức Đảng trong những năm 1930-1931 ở Phú Yên?
Câu hỏi 3: Tại sao nói chiến thắng Đường 5 Xuân 1975 ở Phú Yên là
“trận Bạch Đằng giang trên cạn”, là “đòn quyết định cuối cùng” tiêu diệt
toàn bộ quân địch từ Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển miền
Trung?
Câu hỏi 4: Diễn biến và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975 ở tỉnh Phú Yên?
Câu hỏi 5: Bạn cho biết mục đích của Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết quả bước đầu của cuộc vận
động này ở Phú Yên?
Câu hỏi 6: Những cảm nhận của bạn về danh nhân văn hóa thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh?
Câu hỏi 7: Cảm nhận của bản thân bạn về cuộc thi Tìm hiểu những sự
kiện lịch sử Phú Yên (1930-1975) hướng đến kỷ niệm 80 năm thành lập
Đảng, 65 năm thành lập Nước, sinh nhật lần thứ 120 của Bác Hồ, 35 năm
giải phóng Phú Yên và giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước?
PHẦN TRẢ LỜI
Câu hỏi 1
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ
nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đảng cộng sản
ra đời là một sự kiện trọng đại của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp công nhân đã
trưởng thành đủ sức đảm nhận sứ mệnh giải phóng dân tộc của cách mạng nước ta. Trước khi
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời cách mạng Việt Nam đã có sự xuất hiện của ba tổ chức cộng


sản, hoạt động ở 3 miền khác nhau. Sự chia rẽ đó minh chứng cách mạng Việt Nam phát triển
, nhưng cũng là nguy cơ gây mất đoàn kết và chia rẽ nội bộ của cách mạng nước ta lúc bấy
giờ. Chính vì thế yêu cầu của cách mạng Việt Nam cuối năm 1929 đầu 1930 là phải thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1/ Sự chuẩn bị về lí luận và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam.
Sau khi chiếm trọn ba miền của Việt Nam năm 1884, Thực dân Pháp nhanh chóng đặt
ách thống trị của chế độ thực dân và tiến hành các chương trình khái thác thuộc địa. Nhân dân
Việt Nam đã điêu đứng trước những chính sách cai trị tàn bạo của Chủ nghĩa thực dân. Nhiều
cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu, quan lại và nông dân diễn ra nhưng đều bị thất bại. Tiếp đến,
những năm đầu thế kỉ XX nhiều phong trào đấu tranh diễn ra theo khuynh hướng cách mạng
dân chủ tư sản tiêu biểu như các phong trào Đông du, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh
nghĩa thục… điễn ra những không giành được thắng lợi. Sự thất bại của các khuynh hướng
cứu nước đã khiến cho cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về con đường
cứu nước, khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đó, năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước. Sau một thời gian bôn ba qua nhiều nước trên thế giới. Năm 1917, Nguyễn
Tất Thành đã trở lại Pháp hoạt động trong phong trào công nhân của nước Pháp. Lúc này ảnh
hưởng cách mạng tháng Mười Nga đã vang dội đến nước Pháp, qua học tập tìm hiểu nghiên
cứu các khuynh hướng cứu nước.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được Sơ thảo bản Luận cương của VI.
Lê-nin về “Vấn đề dân tộc và thuộc địa” . Từ ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga và
những quan điểm tiến bộ của Lê-nin đã giúp Nguyễn Ái Quốc xác định được con đường cứu
nước cho cách mạng Việt Nam: đó là con đường cách mạng vô sản. Kể từ đó Nguyễn Ái
quốc tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở Pháp. Tháng 12
năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Tại Đại hội này
Nguyễn Ái Quốc đã tán thành việc tham gia Quốc tế thứ III do Lê-nin sáng lập và tham gia
sang lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là một hoạt động đã làm chuyển biến từ tư tưởng đến
hành động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thời gian hoạt động tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác –

Lê nin về Việt Nam thông qua những tài liệu tuyên truyền bí mật. Chuẩn bị về mặt lí luận để
tiến tới thành lập ở Việt Nam một chính đảng của giai cấp vô sản.
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô trực tiếp tìm hiểu về cách mạng tháng Mười
Nga và thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại đây, Người đã trình bày những
quan điểm cơ bản của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trình bày
về sự nhất quán và cần thiết của quá trình đoàn kết của những người vô sản trên toàn thế giới.
Thời gian hoạt động tại Liên Xô đã bổ sung tính thực tiễn trong quá trình hoạt động cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc, là một bước chuẩn bị về mặt lí luận và tổ chức để tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau thời gian hoạt động tại Liên Xô, tháng 12 năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đã về
Quảng Châu (Trung Quốc). Người đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo cách mạng nước ta tại
Trung Quốc, cùng một số thanh niên từ trong nước sang để thành lập Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên vào tháng 6 – 1925. Đây là tổ chức cách mạng tiền than của Đảng cộng sản.
Từ những chủ trương và hoạt động của Hội đã đưa phong trào cách mạng Việt Nam trong
những năm 1926-1929 phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô sản. Đến trước Đại hội đại
biểu lần thứ nhất, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả
nước. Ngoài ra, một số đoàn thể quần chúng như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, Hội phụ
nữ… cũng được tổ chức.
2/ Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta trong năm
1928, 1929 đặt biệt là phong trào công nhân theo con đường cách mạng vô sản đã phát triển
mạnh mẽ. Cũng như nguy cơ tan rã và thất bại của Việt Nam quốc dân Đảng (theo khuynh
hướng tư sản). Trước tình hình đó, cần phải thành lập một đảng cộng sản để tổ chức và lãnh
đạo giai cấp công và các lực lượng yêu nước khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay
sai, giành độc lập và tự do. Do vậy, cuối tháng 3 – 1929 một số hội viên tiên tiến của Hội
Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì ( trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh )
đã họp tại số nhà 5Đ phố Hàm Long( Hà Nội) để lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam
gồm 7 người, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên.
Tháng 5 – 1929, tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh

niên họp ở Hương Cảng (Trung Quốc), kiến nghị thành lập Đảng Cộng sản không được chấp
nhận, đoàn đại biểu Bắc Kì bèn bỏ Đại hội về nước, rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân,
các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập đảng cộng sản.
Ngày 17 – 6 – 1929, đại biểu của các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì họp đại hội
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của đảng,
ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. Tuyên ngôn nêu rõ mục đích của Đảng là đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, chế độ phong kiến, giải phóng công nhân, nông dân, thành lập
chuyên chính vô sản, tiêu diệt giai cấp, thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái. Tuyên ngôn
gồm 2 chương. Chương thứ nhất giải thích chủ nghĩa cộng sản. Chương thứ hai nói về chính
sách của Đảng. Tuyên ngôn chỉ rõ cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ, nhiệm vụ
của nó là đánh đuổi được đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập, đánh đổ địa chủ,
phong kiến, thực hiện cách mạng thổ địa, lập chính phủ công nông binh, do giai cấp vô sản
lãnh đạo, khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng dùng chính sách thống nhất các giai cấp, đảng phái để chống đế quốc; khi thời cơ đến,
giai cấp thống trị đã rối loạn, quần chúng sôi sục cách mạng sẵn sàng hi sinh, Đảng sẽ đưa quần
chúng ra đấu tranh giành chính quyền, thành lập chính phủ xô viết công nông binh. Đây là một
văn kiện có tính chất cương lĩnh của Đông Dương Cộng sản đảng.Tiếp đó, các hội viên tiên
tiến của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và ở Nam Kì, cũng quyết định
thành lập An Nam Cộng sản đảng vào tháng 8 – 1929, trên cơ sở một số chi bộ cộng sản được
thành lập và đang hoạt động tại Trung Quốc và ở Nam Kì
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản đảng ( 6 – 1929 ) và An Nam Cộng sản đảng ( 8
– 1929 ) đã tác động mạnh mẽ đến Tân Việt cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của
Đảng Tân Việt, từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, cũng
tách ra để thành lập một tổ chức cộng sản thứ là Đông Dương Cộng sản liên đoàn ( 9 – 1929).
Như vậy, đến tháng 9 – 1929 ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản lần lượt tuyên bố
được thành lập. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt
Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cở sở đảng tại nhiều địa phương,
trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào
công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng,
chống cướp ruộng đất, với phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương… tạo

thành làn sóng đấu tranh cách mạng dân chủ khắp cả nước.
Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản nói trên lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng
với nhau. Tình hình đó nếu kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết
của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
3/ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3 – 2 – 1930 ) .
Lược đồ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Ngày 27 – 10 – 1929, Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức cộng
sản ở Đông Dương về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản. Bức thư đã phân tích tình hình cách
mạng quốc tế, sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Đông Dương, sự cần thiết phải có một
đảng cộng sản duy nhất, sự tai hại và nguy hiểm của tình trạng tồn tại nhiều tổ chức cộng sản
biệt lập. "Nhiệm vụ quan trọng hơn
hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả
những người cộng sản Đông Dương
là sáng lập một đảng cách mạng
của giai cấp vô sản ở Đông Dương,
chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản
mà thôi".
Lúc này, Nguyễn Ái Quốc
đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan).
Nên thư này chưa đến với Nguyễn
Ái Quốc, song với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy
đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên
quan đến phong trào cách mạng ở
Đông Dương nên Người đã chủ
động triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản đảng và An Nam
Cộng sản đảng họp từ ngày 3 đến
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-2-
1930). Ảnh chụp tranh của Phan Kế An .

ngày 7 – 2 - 1930 để bàn việc thống nhất thành một đảng cộng sản duy nhất cho cách mạng
Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, được tiến hành tại Cửu Long - Hương
Cảng (Trung Quốc). Hội nghị do Nguyễn Ái Quốc chủ trì có sự tham gia của hai đại biểu
người Việt Nam ở nước ngoài là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, có hai đại biểu của Đông
Dương Cộng sản đảng là Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đình Cửu, hai đại biểu của An Nam
Cộng sản đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu. Hội nghị được tiến hành bí mật nên địa
điểm liên tục được thay đổi lúc đầu tiến hành trên sân vận động, lúc thì ở ngoài bãi biển lúc
thì ở trong căn nhà của người công nhân tại Hương Cảng.
Hội nghị đã phân tích tình hình cách mạng Việt Nam và đã nhất trí thống nhất các tổ
chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã
thong qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo và được xem là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Trong đó Chính
cương vắn tắt nêu khái quát tình hình đế quốc Pháp thống trị kìm hãm sự phát triển của công
nghiệp Việt Nam, làm cho giai cấp tư sản bản xứ lệ thuộc vào đế quốc Pháp; nông nghiệp tập
trung và phát sinh khủng khoảng, nông dân thất nghiệp, đại địa chủ thì đứng về phe đế quốc,
vì vậy chính cương nêu chủ trương tiến hành cách mạng dân chủ tư sản, đánh đổ đế quốc
Pháp và phong kiến, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thành lập chính phủ công nông
binh, thi hành các quyền tự do dân chủ mở đường tiến tới xã hội cộng sản. Sách lược vắn
tắt ghi rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân; Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai
cấp công nhân và nông dân, lãnh đạo nông dân đấu tranh chống đại địa chủ. Đảng phải vận
động tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi với giai cấp công nhân, đồng thời tranh thủ hoặc
trung lập hoá tầng lớp trung, tiểu địa chủ, phú nông và tư sản Việt Nam theo nguyên tắc
không thoả hiệp, bảo vệ lợi ích công nông. Đảng phải nêu cao khẩu hiệu Việt Nam độc lập,
đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam khẳng định tính đúng đắn của đường lối chiến lược được vạch ra trong Chính
cương và Sách lược vắn tắt ngay khi Đảng mới ra đời
Nhân dịp mừng Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời
kêu gọi các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng Cộng sản. Sau hội nghị, ngày
24 – 2 – 1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã được hợp nhất thành
một đảng thống nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
4/ Ý nghĩa lịch sử của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam .
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 là một sự kiện quan trong của cách
mạng Việt Nam. Đánh dấu sự trưởng thành là lớn mạnh của cách mạng Việt Nam theo
khuynh hướng vô sản. Đảng ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã thực sự trưởng
thành và đủ sức thực hiện sứ mệnh lịch sử. Đảng ra đời là kết quả tất yếu của quá trình đấu
tranh, là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin , phong trào công nhân và phong trào yêu
nước ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về con đường
cứu nước, chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Từ đây
cách mạng Việt Nam đã có một giai cấp tiến tiến nhất lãnh đạo mà lực lượng tiên phong là
Đảng Cộng sản. Các xu hướng cứu nước khác đều không phù hợp với thực tiễn của cách
mạng Việt Nam nên lần lượt bị thất bại. Như vậy ngay năm 1930, cách mạng Việt Nam đã
lựa chọn con đường giải phóng dân tộc duy nhất của nước ta là con đường cách mạng vô sản.
Đây là sự lựa chọn của lịch sử và của cả dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Vì thế Đảng ra đời
là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi 2 :
TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG CSVN Ở PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1930
1. Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
So với một số tỉnh ở miền Bắc, hoạt động của chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
ở Phú Yên không mạnh và không đều khắp các huyện. Song đối với khu vực Nam Trung Bộ
thì Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phú Yên hoạt động khá tốt.
Do tham gia phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh của học
sinh ở Huế và Qui Nhơn, một số học sinh Phú Yên đã bị đuổi học trở về quê hương. Dưới tác
động của đường lối cứu nước mới, những thanh niên này khi về địa phương một mặt truyền
tay nhau đọc các loại sách báo tiến bộ như Nhành lúa, Tiếng dân, Tiếng chuông rè , mặt
khác tuyên truyền tư tưởng yêu nước, bàn biện pháp tập hợp lực lượng, hưởng ứng đường lối

đấu tranh của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Năm 1926, Phạm Đức (quê ở An Nghiệp, Tuy An) cùng một số thanh niên học sinh góp
tiền ra ngoài tỉnh học nghề, theo tinh thần “chấn hưng hàng nội hóa” do Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên đề ra, đồng thời gặp gỡ, tiếp xúc với những người yêu nước. Số thanh niên
ra Huế và Hà Nội có Phan Thanh Cưu, Huỳnh Thượng Chánh (Đồng Xuân), Phạm Nghĩa,
Đặng Tín (Tuy An). Trên đường đi, họ đã tìm đến nơi ở của nhà yêu nước Phan Bội Châu
(Huế), Ngô Đức Kế (Hà Nội) để dò hỏi tình hình. Sau một năm, họ trở về Phú Yên, cùng một
số anh chị em tại địa phương như Phan Thanh, Trần Chương, Võ Thị Trang mở rộng chi
nhánh Hưng nghiệp, một tổ chức làm kinh tế của Hội và tuyên truyền dân chúng dùng hàng
nội, bài hàng ngoại.
Lúc này ở Phú Yên có chi nhánh Hưng Nghiệp hội xã ở Sông Cầu - Đồng Xuân (bao gồm
cả Tuy An ngày nay) và ở Tuy Hòa.
Tháng 3-1928, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, y tá, quê ở Nghệ An, hoạt động trong tổ
chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Vinh bị đổi vào làm việc tại nhà thương Sông
Cầu. Khi đi, đồng chí được các đồng chí trong Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Trung Kỳ giao nhiệm vụ xây dựng phát triển lực lượng Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
tại Phú Yên. Đến Sông Cầu, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên tìm hiểu tình hình, nắm lại các tổ
chức Hưng nghiệp hội xã, liên lạc với Nguyễn Trung Hanh thư ký Tòa án, Nguyễn Giao ở Sở
Công chánh. Tháng 6-1928, chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phú Yên chính
thức ra đời gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Trung Hanh, Nguyễn Giao.
Đồng chí Nguyễn Văn Nguyên làm Bí thư chi bộ và hoạt động tại Sông Cầu. Đầu năm 1929,
đồng chí Nguyễn Văn Nguyên vào làm việc tại Tuy Hòa, còn đồng chí Nguyễn Trung Hanh
và Nguyễn Giao vào hoạt động ở Nam Kỳ. Từ đó chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
ở Sông Cầu không còn nữa.
Tháng 1-1929, đồng chí Hoàng Hữu Đàn, giao thông[1] của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên Trung Kỳ đến Phú Yên, móc nối, xây dựng lại cơ sở. Mùa hè 1929, Hoàng
Hữu Đàn bắt mối được Phan Thanh, Trần Chương, Võ Thị Trang, Phạm Sĩ Vinh (Trưởng kíp
ở Sở dẫn thủy nhập điền Tuy Hòa), Trần Hòa, Huỳnh Lưu, Trương Thị Hảo là những thành
viên của Hưng nghiệp hội xã, thành lập Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Tuy
Hòa. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Tuy Hòa hoạt động dưới hình thức hợp pháp là các

Hưng nghiệp hội xã, tập trung tuyên truyền tôn chỉ mục đích, phát triển hội viên. Hội cũng dự
định rải truyền đơn vào ngày 1-5-1929 trong toàn tỉnh, song kế hoạch đã bại lộ, không thực
hiện được. Mật thám bắt đầu theo dõi và khám xét truy nã tổ chức này.
Giữa năm 1929, cơ sở Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Trị bị vỡ. Qua sự
kiện này, địch phát hiện được các hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phú
Yên, nên cuối năm 1929 Hưng nghiệp hội xã ở Tuy Hòa bị niêm phong, những người lãnh
đạo Hội như: Phan Thanh, Trần Chương bị địch bắt. Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên lại tan rã.
2. Tân Việt cách mạng Đảng
Năm 1927, thầy giáo Phạm Đức Bân dạy học ở Trường tiểu học Thanh Hóa bị bọn thống
trị nghi thầy làm chính trị nên đổi vào huyện Cam Lộ (Quảng Trị).Tháng 9-1927, chúng lại
đưa vào Sông Cầu (Phú Yên). Cùng đi với thầy giáo Phạm Đức Bân có Nguyễn Văn Hợi,
Trương Khâm, và một số người khác.
Đến Sông Cầu, thầy giáo Phạm Đức Bân cùng các thầy giáo Bùi Dung, Trịnh Bá Đài và
một số thanh niên học sinh như Nguyễn Lân, Trương Khâm, Bùi Văn Hữu tuyên truyền, vận
động, xây dựng tổ chức Tân Việt tại Sông Cầu.
Tài liệu tuyên truyền lúc này là các quyển sách nhỏ của nhà xuất bản Quan hải tùng thư,
báo Thần Chung (Chuông thần) Tiếng Dân và những bài văn thơ yêu nước của cụ Phan Châu
Trinh, Phan Bội Châu, báo An Nam do luật sư Phan Văn Trường làm chủ bút, tờ Argus (chim
trĩ) của nhóm Clementi Pháp kiều ở Hà Nội có xu hướng dân chủ, còn những bài hát như
Chiêu hồn nước, Người đi đày, Hỡi đồng bào thường được hát và truyền miệng cho nhau.
Với hình thức giáo dục tình cảm, chọn mặt gửi vàng, đồng tâm đồng chí, tổ chức Tân Việt
ngày càng mở rộng, đấu tranh ngày càng hăng hái, ý chí phản đế, phản phong ngày càng
quyết liệt. Tân Việt là ngọn cờ cách mạng của Phú Yên lúc bấy giờ.
Cuối năm 1928, Tân Việt cách mạng Đảng ở Phú Yên thông qua đồng chí Phạm Bá Hòe
(công nhân nhà máy điện Qui Nhơn) đã có những liên hệ chặt chẽ với Trung ương Tân Việt
cách mạng Đảng nên phương pháp đấu tranh, tập hợp lực lượng có nhiều đổi mới. Các đảng
viên Tân Việt cách mạng đã tiến hành nhiều đợt rải truyền đơn, treo cờ ở Sông Cầu, kêu gọi
đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN Ở PHÚ YÊN

Vào cuối mùa thu 1929, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở
Xiêm (Thái Lan), được nghe báo cáo
về tình hình giữa các Đảng cộng sản
trong nước. Đầu tháng giêng năm
1930, Người từ Xiêm trở lại Hương
Cảng, triệu tập Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản. Dự hội nghị có 2
đại biểu của Đông Dương Cộng sản
đảng và 2 đại biểu An Nam Cộng sản
đảng, còn Đông Dương Cộng sản liên
đoàn thành lập sau nên không kịp cử
đại biểu đến dự hội nghị. Tại phiên
họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã ra
quyết định thống nhất các tổ chức
cộng sản, thành lập một Đảng Cộng
sản chân chính lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng.
Cuối năm 1929, đồng chí Phan Lưu Thanh, thành viên trong Hưng nghiệp hội xã ở La
Hai vào Sài Gòn học lái xe ô tô ở Trường Cơ khí Chu Văn Hai. Tại đây, ông được các đảng
Đảng bộ và nhân dân Tỉnh Phú Yên kỉ niệm 75
năm ngày thành lập Chi bộ cộng sản
viên cộng sản Nguyễn Chương và Tư Rèn (công nhân đóng tàu xưởng Ba Son) tuyên truyền
giác ngộ cách mạng.
Sau đó ông được giao nhiệm vụ về lại Phú Yên gây cơ sở và tổ chức các hoạt động nhằm
kêu gọi thợ thuyền, dân cày, binh lính nổi dậy chống bất công, cải thiện cuộc sống, đoàn kết
với vô sản thế giới chống đế quốc và phong kiến. Nhiều lần cờ Đảng được treo ở cây me
(giữa nhà công sứ Pháp với nhà Lục bộ), ở đồn lính khố xanh. Truyền đơn được rải từ cầu
Tam Giang đến chân dốc Găng, cầu Thị Thạc và nhà thương Sông Cầu.

Ngày 1-8-1930, cờ búa liềm được treo ở sân quần vợt, trường tiểu học, đồn lính khố xanh;
truyền đơn được rải từ cầu Thị Thạc đến trung tâm tỉnh lỵ.
Qua những hoạt động và thử thách thực tế, tháng 8-1930 Phan Lưu Thanh được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại chi bộ Thị Nghè (Sài Gòn) , rồi được cử về La Hai (Phú
Yên). Tại đây, qua liên lạc, móc nối, Ông đã tập hợp được một số thanh niên tiến bộ, kết nạp
họ vào Đảng cộng sản, đầu tiên là đồng chí Bùi Xuân Cảnh, rồi đến Phan Ngọc Bích (Việt
Hồng) Nguyễn Thạnh, Nguyễn Phục Hưng, Nguyễn Hữu Tánh, Nguyễn Diệp, Nguyễn Thị
Hảo.
Trên cơ sở đó, ngày 5-10-1930, tại thôn Đồng Bé, xã Xuân Long (Đồng Xuân), đồng chí
Phan Lưu Thanh đã tổ chức hội nghị đảng viên, tuyên bố thành lập chi bộ Đảng cộng sản tại
Phú Yên.
Tiếp theo việc thành lập của chi bộ Đảng tại Đồng Bé - La Hai, nhiều chi bộ Đảng khác
cũng được thành lập như: chi bộ Phước Lãnh, Thạnh Đức, Triêm Đức, Phước Hòa, Phú
Xuân, Hà Trung, Hà Bằng, Háo Danh, Khoan Hậu thuộc huyện Đồng Xuân và An Thổ, Ngân
Sơn thuộc huyện Tuy An.
TỈNH ỦY PHÚ YÊN RA ĐỜI (1 – 1931).
Sau một thời gian hoạt động và phát triển các cơ sở Đảng, đảng viên, số lượng đảng viên
và chi bộ Đảng tăng lên đáng kể. Tình hình đó, đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo chung
thì các hoạt động mới đạt hiệu quả cao. Do đó, tháng 1-1931, các đồng chí đảng viên tổ chức
Hội nghị và quyết nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời. Ban lãnh đạo gồm có 5 đồng chí; đồng chí
Phan Lưu Thanh được cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Tại cuộc họp, đồng chí Bí thư thay mặt
Tỉnh ủy lâm thời báo cáo tình hình trong và ngoài nước, vạch rõ tội ác của bọn thực dân, xác
định phương hướng, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng thời gian đến.
Tháng 2-1931, Tỉnh ủy lâm thời liên lạc với Phân ban Xứ ủy Trung Kỳ đóng tại Quy
Nhơn, được Phân ban Xứ ủy thừa nhận. Sau đó, Xứ ủy Trung Kỳ điều động đồng chí Phan
Lưu Thanh về công tác tại Phân ban và cử đồng chí Trần Toại (tức Kim Tương, quê ở Quảng
Ngãi) làm Bí thư Tỉnh ủy.
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRONG NHỮNG NĂM 1930 - 1931 .
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế Đông
Dương. Nhiều nhà máy, xí nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, hàng vạn công nhân bị sa thải,

đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó là hàng nghìn vụ bắt bớ diễn ra khắp cả
Bắc, Trung và Nam Kỳ, đã làm cho lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân đối với thực dân
Pháp ngày càng quyết liệt. Nhân dân nhiều nơi trong nước đã tổ chức đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ, chống đàn áp, bóc lột.
Những phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi đã khơi thành ngọn lửa làm bùng cháy
phong trào cách mạng ở Phú Yên.
Tháng 4-1931, tại Bầu Rùa dưới chân núi hòn Chảo, hơn 300 người dân đã tham gia mít
ting chống Pháp.
Từ tháng 5-1931 đến tháng 6 - 1931, các chi bộ Đảng tổ chức nhiều cuộc mit ting, lên án
chế độ thực dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh chống khủng bố trắng ở Nghệ Tĩnh và Quảng
Ngãi, đỉnh cao là các xã thôn trong huyện Đồng Xuân như La Hai, Triêm Đức, Thạnh Đức,
Phước Lãnh. Truyền đơn cũng được in rải nhiều nơi tại Sông Cầu, Tuy An, La Hai, Củng Sơn
và trên các trục đường giao thông lớn.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Phú Yên có xu hướng phát triển thuận lợi, Xứ ủy Trung
kỳ chủ trương hai tỉnh Bình Định và Phú Yên chuẩn bị lực lượng tổ chức cuộc biểu tình vào
ngày 20-7-1931, nhân kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp và Quốc tế chống chiến tranh (1-8-
1914), nhằm phát động một cao trào cách mạng mới, phân tán sự khủng bố của Pháp tại Nghệ
Tĩnh.
Kế hoạch đang khẩn trương chuẩn bị, ngày 13-7-1931 đồng chí liên lạc Sông Cầu - La
Hai bị địch bắt và chúng khai thác được nhiều tin tức. Đêm 17-7-1931, khoảng 30 lính tập
được ô tô chở đến La Hai và 5 làng lân cận. 5 giờ sáng cùng ngày, chúng bất ngờ tập kích và
truy bắt các đồng chí đảng viên.
Ngay trong đêm 17-7-1931, các đồng chí đảng viên bị bắt và giam trong nhà lao đã thành
lập ban lãnh đạo gồm: Phan Lưu Thanh, Bùi Xuân Cảnh, Nguyễn Tánh, Cao Lộc, Nguyễn
Khắc Khoan, Trương Tấn Ích. Ban lãnh đạo quyết định tất cả các đồng chí bị bắt không được
khai gì cho địch, nếu đồng chí nào chịu không nổi thì chỉ khai tập trung vào đồng chí Phan
Lưu Thanh là có tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Các đảng viên chưa bị lộ vào Tuy Hòa
hoạt động và tổ chức lại cơ sở Đảng. Ban lãnh đạo cũng đề ra nhiệm vụ đấu tranh chống chế
độ hà khắc của nhà tù, giúp đỡ những gia đình có người bị bắt đang gặp khó khăn, tố cáo
những tên lý trưởng ngoan cố ngóc đầu dậy lập công với địch để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ.

Do sự đấu tranh quyết liệt của các tù nhân, vào lúc 14 giờ 00 ngày 28-10-1931, phiên tòa
xét xử được mở tại dinh Án sát Sông Cầu. Thành phần tham dự có Công sứ, Tuần vũ, Án sát,
Tổng lý và đông đảo quần chúng nhân dân. Tòa đã kết án 31 người; đồng chí Trần Toại (Kim
Tương) bị tù chung thân phát phối, đồng chí Phan Lưu Thanh 15 năm tù phát phối, cả hai bị
đày lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Tỉnh ủy Phú Yên bị tan rã.
Thực hiện Nghị quyết của Chi bộ nhà lao Sông Cầu, đồng chí Phan Ngọc Bích vào Tuy
Hòa làm nghề kéo xe, thông qua công tác tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, một số thanh
niên tích cực được kết nạp vào Đảng. Ngày 24-11-1931, chi bộ Đảng Tuy Hòa được thành lập
tại chùa Bà (nay thuộc phường I) dưới chân núi Nhạn.
Tháng 7-1935, đồng chí Phan Lưu Thanh ra tù, sau đó, đồng chí cùng một số đảng viên
cũ (Huỳnh Lưu, Việt Hồng) khôi phục lại chi bộ đảng ở La Hai, Chi bộ bắt liên lạc với Xứ ủy
qua đồng chí Phan Đăng Lưu ở Huế và liên hệ với các tổ chức đảng ở phía nam Bình Định, tổ
chức một chi bộ gần nhà máy tơ Phú Phong, lấy tên là chi bộ Hồng Lĩnh.
Giữa năm 1935, tổng số đảng viên trong toàn phủ Tuy Hòa là 16 đảng viên (9 đảng viên
thuộc các thôn Nho Lâm, Hạnh Lâm, Tịnh Lâm, Long Tường, Qui Hậu; 7 đảng viên thuộc
các thôn Phước Hậu, Liên Trì, Mỹ Thạnh). Cuối năm 1935, đồng chí Trần Hào cùng một số
đảng viên ở Tuy Hòa lập Ban vận động thành lập Tỉnh ủy, Đồng chí Trần Hào được cử là
Trưởng ban. Cách mạng Phú yên được phục hồi sau phong trào đấu tranh 1930 – 1931.
Câu hỏi 3 :
Chiến thắng Đường số 5 Xuân 1975 ở Phú Yên là một chiến công của quân và dân Phú
Yên, được xem là “ trận Bạch Đằng giang trên cạn”, là “ đòn quyết định cuối cùng” làm phá
sản hoàn toàn kế hoạch rút lui chiến lược của địch về các tỉnh đồng bằng ven biển miền
Trung năm 1975. Để tìm hiểu về vấn đề này chúng ta nhìn nhận lại sự thật lịch sử diễn ra ở
Phú Yên cách đây gần 35 năm với những tư liệu cụ thể và khoa học. Đó là kế hoạch rút quân
chiến lược, quy mô của địch từ Tây Nguyên vè đồng bằng, sự chủ động và chỉ đạo kịp thời
của Khu ủy Khu V và Tỉnh ủy Phú Yên, sự phối hợp giưa bộ đội chủ lực và quân dân địa
phương ở huyện Tuy Hòa…Có như vậy chúng ta mới đánh giá đúng đắn về giá trị to lớn của
chiến thắng lịch sử Đường 5 Xuân 1975 ở Phú Yên.
* KẾ HO Ạ CH RÚT LUI CHI Ế N L ƯỢ C C Ủ A ĐỊ CH
Ngày 10 – 3 – 1975, Ngụy quân bị ta đánh đau và hiểm ở Buôn Ma Thuột đã khiến

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Cao Văn Viên, thiếu tướng Phạm Văn Phú - Tư
lệnh quân đoàn 2 ra lệnh cho sư đoàn 23, các đơn vị biệt động quân và không quân tái chiếm
Buôn Ma Thuột.
Ngày 12/3, tướng Phú ra lệnh sư đoàn 23 sử dụng trung đoàn 44 đổ quân xuống Phước
An để phản kích phía Đông. Đây là sư đoàn thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn trên
chiến trường Tây Nguyên. Nhưng chúng bất ngờ bị ta tấn công tiêu diệt.
Lực lượng cơ động bị tiêu diệt ngày 14/3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra Nha
Trang để nghe thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tình hình chiến sự của quân đoàn 2, đồng
thời yêu cầu Sài Gòn nếu muốn giữ Tây Nguyên phải tăng viện. Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu nói: “Chúng ta đang bị tấn công khắp nơi, chứ không phải ở quân đoàn 2, địch đánh
mạnh hơn năm 1968-1972, chúng ta không thể giữ nổi cao nguyên nữa. Tôi ra lệnh rút lui về
giữ vùng duyên hải Trung phần”. (Theo tài liệu của Bộ Tổng tham mưu ngụy).
Sau đó, kế hoạch rút quân được thiết lập. Những người có mặt gồm: thiếu tướng Phạm
Văn Phú, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm (phụ tá hành quân), chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang (Tư
lệnh sư đoàn 6 không quân), Phạm Duy Tất (Tham mưu trưởng quân đoàn, tư lệnh biệt động
quân) đều tuyên thệ giữ bí mật kế hoạch rút lui chiến lược này.
Ngày 15/3, Phạm Văn
Phú và Bộ tư lệnh nhẹ của quân
đoàn 2 rời khỏi Pleiku. Trước
đó, Phú triệu tập Phạm Duy Tất,
Tỉnh trưởng và Trưởng ty ngân
khố ngụy tại đây để đốt 30 triệu
bạc (theo tài liệu tổng kết của
binh đoàn Tây Nguyên).
Ngày 16/3, chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm điều động liên đoàn
21 biệt động quân từ Chư Prao về
giữ an ninh thị xã Pleiku (vì tình
hình tại thị xã này lúc bấy giờ
khá hỗn loạn). Sư đoàn 6 không

quân ngụy liên tục chở quân và
một số gia đình sĩ quan rời khỏi
Pleiku Xe địch bị ta tiêu diệt ở Thạnh Hội (Sơn Hòa),
tháng 3/1975 – Ảnh: TƯ LIỆU
Cùng ngày, một lực lượng lớn gồm: Liên đoàn 6 biệt động quân, thiết
đoàn 19, liên đoàn 20 công binh cùng hơn 300 xe quân sự và khoảng 900 xe dân sự từ Pleiku
theo đường 7 hành quân về Cheo Reo. Liên đoàn 25 biệt động quân đang trấn giữ vùng
Thanh An cũng rút quân về Phú Bổn. Cuộc rút quân trở nên hỗn loạn. Chiều 17/3, bộ phận đi
đầu của địch đã đến Củng Sơn. Hành trình của chúng là theo đường 7 đến tây Củng Sơn 4km,
rồi theo đường mòn xuống Hòn Một để về Thạnh Hội, dừng lại chờ bắc cầu phao để vượt
sông Ba.
Để bảo đảm cho lực lượng Tây Nguyên rút về Phú Yên, ngày 16/3, tướng Phạm Văn
Phú thành lập bộ phận Chỉ huy hành quân đặt tại Tỉnh đường Phú Yên do chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm, Phạm Duy Tất và Tỉnh trưởng Phú Yên điều hành. Cùng ngày, quân đoàn 2 điều
động phương tiện làm cầu phao từ Nha Trang ra sân bay Đông Tác, điều động lực lượng bảo
an chốt giữ trục đường 5 từ cầu Tổng lên Hòn Kén – Sơn Thành, điều động trận địa pháo từ
cầu Cháy – Hòa Đồng lên Hòn Kén – Sơn Thành.
Ngày 17/3, địch bắc cầu phao vượt sông Ba đoạn từ ngã ba sông Nhau và sông Ba.
Ngày 18/3, địch lần lượt qua cầu phao về co cụm khu vực Hòn Kén – Sơn Thành.
Cùng ngày, Tỉnh trưởng Phú Yên điều liên đoàn bảo an 924 sang chốt giữ trục đường
5, Tư lệnh quân đoàn 2 điều tiểu đoàn biệt động quân từ Khánh Hòa ra chốt đèo Cả và phản
kích chiếm lại Núi Một – Hòa Tân.
19 giờ ngày 19/3, địch từ Hòn Kén bắt đầu hành quân theo đường 5, bị ta chặn đánh,
tiêu diệt, địch co cụm lại Hòn Kén.
*QUÂN TA TRUY KÍCH BUỘC ĐỊCH PHẢI RÚT VỀ ĐƯỜNG SỐ 5 .
Về phía ta, sư đoàn 320 (do đại tá Nguyễn Kim Tuấn, Tư lệnh sư đoàn và thượng tá
Bùi Hy Bỏng, Chính ủy sư đoàn chỉ huy) truy kích diệt địch ở Cheo Reo, đường 7 đến Củng
Sơn. 20 giờ 30 phút ngày 16/3, sư đoàn 320 nhận lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây
Nguyên, nhanh chóng tổ chức lực lượng chốt đánh địch ở nam Cheo Reo, tập trung lực lượng
để đánh địch rút chạy trên đường 7, Cheo Reo.

Ngày 17/3, tiểu đoàn 9 (thuộc trung đoàn 64) vận động ra chốt chặn địch đường 7,
cách nam Cheo Reo 4km, diệt nhiều xe cơ giới. Sáng 18/3, tiểu đoàn 7 chặn đánh địch ở phía
nam cách thị xã Phú Bổn 8km; trung đoàn 48 đưa tiểu đoàn 2 áp sát thị xã nổ 11hon diệt 2 đại
đội; tiểu đoàn 1 áp sát sân bay, chuẩn bị cắt đường 7, Cheo Reo, Phú Thiện. Trong 2 ngày 18
và 19/3, trung đoàn 48 và trung đoàn 64 đánh chiếm thị xã Phú Bổ; trung đoàn 64 bao vây
đông Cheo Reo, chặn không cho địch theo đường 7 chạy về Phú Yên.
Từ 18 – 20/3, bị sư đoàn 320 của ta tấn công tiêu diệt, quân địch co cụm tại Cheo Reo.
Đến 22 giờ ngày 23/3, bộ phận đi đầu của trung đoàn 64 quân giải phóng bắt 11hon lạc được
với tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên. Hai bên 11hong báo tình hình cho nhau và triển khai
chuẩn bị tấn công địch ở Củng Sơn.
10 giờ ngày 24/3, mọi công tác đã chuẩn bị xong. Địch phát hiện sư đoàn 320 truy
kích nên đã phá cầu phao tháo chạy. Trung đoàn 64 và tiểu đoàn 96 tấn công địch ở Củng
Sơn, Núi Một phát triển đánh chiếm bãi xe Thạnh Hội; tiểu đoàn 96 phát triển đánh chiếm
yếu khu Phú Đức, Tuy Bình.
* CHIẾN THẮNG ĐƯỜNG 5, CHIẾN CÔNG VĨ ĐẠI CỦA QUÂN VÀ DÂN PHÚ YÊN
NĂM 1975.
8 giờ ngày 17/3, Chỉ huy tiền phương Phú Yên
nhận được điện của Tư lệnh Quân khu 5: “Địch
rút bỏ Tây Nguyên theo đường 7 về Phú Yên,
Tỉnh đội Phú Yên điều động toàn bộ lực lượng
tập trung đánh địch trên đường 7, không cho
chúng chạy thoát về Tuy Hòa; điều động tiểu
đoàn 96 hành quân lên tây Củng Sơn liên lạc
với sư đoàn 320 đánh địch tây Củng Sơn, nhận
điện tổ chức thực hiện và báo cáo”.
Sáng ngày 18-3, tại núi Hương xã Hòa Mỹ, quận Tuy Hòa 1, Sở chỉ huy tiền phương dưới
sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy, cùng lãnh đạo các ngành, các cơ
quan tham mưu quân đội họp quán triệt nhiệm vụ của Khu giao và quyết định phương án
chiến đấu, nhằm ngăn chặn, làm tan rã và tiêu hao lực lượng địch trên đường rút chạy.
Lực lượng tham gia đánh chặn địch trên đường số 5 có các tiểu đoàn 9, 13, 96 bộ binh,

tiểu đoàn trợ chiến 189, đại đội đặc công 25, 201, 24, đại đội 19 và K65 công binh, đại đội
377 và 203 bộ đội địa phương Tuy Hòa, đại đội 202, 378 làm nhiệm vụ chốt đường số 7, bộ
đội Sơn Hòa đánh tập hậu đội hình địch.
Đúng 4 giờ 15 phút ngày 19-3, tiểu đoàn 13 và bộ phận hỏa lực tiểu đoàn 189 tập kích
vào cầu Cháy (nằm giữa hai xã Hòa Mỹ và Hòa Đồng). Cùng thời gian đó, đại đội đặc công
201 tập kích hòn Kén thuộc xã Sơn Thành, đại đội 25 tập kích hòn Sặt. Tiểu đoàn 9 và đại đội
377 đánh chiếm Phú Thứ. Đại đội đặc công 203 đánh vào trụ sở ngụy quyền ở thôn Phước
Bình, xã Hòa Thành. Du kích và nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa Mỹ nổi dậy bao vây, bắn tỉa
gọi loa binh địch vận, buộc địch tháo chạy khỏi chốt núi Lá (Hòa Mỹ) và khu dồn Phú Hữu
(Hòa Thịnh), ta giải phóng hoàn toàn hai xã này. Tiểu đoàn 9 đánh vào xã Hòa Phong và nổ
súng tấn công hòn Sặt (lần thứ hai) diệt toàn bộ quân địch đóng tại đây.
Đến 11 giờ trưa ngày 19-3, địch cho hai máy bay A 37 và các trận địa pháo ở Bàn Thạch,
núi Nhạn, hòn Kén bắn vào cầu Cháy và một số khu vực khác, đồng thời chúng tập hợp lực
lượng còn lại của tiểu đoàn 236 tổ chức phản kích chiếm lại cầu Cháy để từ đó đánh vào Hòa
Thịnh, hòn Dù. Địch còn tổ chức một lực lượng khác đánh vào Hòa Phong, Phú Thứ.
Trong lúc ta đang tổ chức đánh trả các đợt phản công thì Sở chỉ huy thông báo có đoàn xe
địch hàng trăm chiếc từ hòn Kén chạy xuống. Tiểu đoàn 9 đã nhanh chóng chuyển đội hình từ
tấn công, truy kích sang phục kích ở đoạn hòn Sặt - Mỹ Thạnh. Khi 5 chiếc xe tăng lọt vào
trận địa, đại đội 3 tiểu đoàn 9 nổ súng diệt 4 chiếc, chiếc đi đầu vượt khỏi đội hình chạy đến
Phú Thứ bị đại đội 377 tiêu diệt, toàn bộ đội hình phía sau của địch lùi lại hòn Kén.
Đêm 19-3, một bộ phận của tiểu đoàn 13 vây chặt địch tại Phú Diễn, đến 5 giờ sáng ngày
20-3 ta xuất kích, diệt 40 tên.
Sáng 20-3, tiểu đoàn 13 phục kích từ thôn Phước Thịnh đến Mỹ Thạnh Tây, tiểu đoàn 9
phục kích từ Mỹ Thạnh Tây đến Lương Phước, đại đội 377 và 203 chốt tại cầu tổng Phú Thứ,
đại đội 19 và K65 công binh cùng 2 cối 82 đánh địch ở quốc lộ I đoạn từ Hòa Xuân vào Đèo
Cả, chặn không cho địch từ Phú Yên chạy vào Khánh Hòa và từ Khánh Hòa ra Phú Yên,
đồng thời kiềm chế trận địa pháo địch ở cầu Bàn Thạch. Tiểu đoàn 189 tập trung hỏa lực chi
viện cho các đơn vị chiến đấu đường số 5. Đại đội 201, 25 đặc công, bộ đội Sơn Hòa tập kích
địch ở hòn Kén. Đại đội 202 đặc công và các lực lượng vũ trang quận Tuy Hòa chặn đánh
địch trên đường số 7. Nhìn chung, ngày 20-3 ta đã hình thành một thế trận đánh địch trên hai

trục đường số 5 và số 7, suốt từ miền núi đến đồng bằng.
Sáng ngày 22-3, hàng trăm chiếc xe Hon-đa của địch chạy đến cầu Đồng Bò. Sở chỉ huy
tiền phương đã nắm được ý đồ của địch, thông báo các đơn vị quan sát, sẵn sàng nổ súng đề
phòng địch giả dân chạy thoát. Tiểu đoàn 13 và tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ này. Kết quả
ta diệt tại chỗ 120 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá. Thu hồi và
phá hủy 300 xe Hon Đa, 3 xe Jeep, 7 xe GMC, 20 súng và nhiều phương tiện chiến tranh. Số
địch chạy thoát về cụm tại hòn Kén.
Chiều ngày 22-3, Sở chỉ huy tiền phương điều tiểu đoàn 9 lên sát cầu Đồng Bò để đánh
chính diện và điều một bộ phận khác khóa đuôi bảo vệ cầu máng. Mặt khác, ta tăng cường
một bộ phận công binh và du kích chốt đường 5, đoạn từ Đồng Bò đến Lương Phước.
Sáng ngày 23-3, địch đưa liên đoàn bảo an 924 và tiểu đoàn 236 chia thành nhiều cánh có
máy bay yểm trợ, theo đường 5 tấn công cùng một lúc vào lực lượng ta ở Hòa Bình, Hòa
Phong và từ Hòa Tân đánh lên cầu Cháy, núi Lá, núi Hương phát triển qua hòn Sặt. Đến trưa,
địch đưa tiểu đoàn 268 từ hòn Kén đánh xuống, khi đến cầu Đồng Bò bị đại đội 3 tiểu đoàn 9
chặn đánh, địch phải rút về hòn Kén.
Một đơn vị khác của địch chiếm cầu Phú Thứ, phát triển lên Phước Thịnh, bị tiểu đoàn 13
chặn đánh phải rút về lại Phú Thứ. Để tiếp sức, địch điều thêm một tiểu đoàn biệt động từ
Khánh Hòa ra đánh theo hướng đông nam, khi đến xã Hòa Xuân bị đại đội 10, K65 và du
kích Hòa Xuân chặn đánh phải dừng lại tại Đèo Cả.
Tuy đã tìm mọi cách, nhưng đến hết ngày 23-3-1975 địch vẫn chưa thông được đường. 16
giờ ngày 23-3, tiểu đoàn 96 phối hợp với trung đoàn 64 sư đoàn 320 tấn công vào quận lỵ
Củng Sơn. Địch phát hiện quân chủ lực ta có xe tăng, nên hoảng hốt chen nhau tháo chạy qua
cầu phao tại Thanh Hội, đã làm cho hàng chục xe và hàng trăm tên lính rơi xuống sông chết
đuối. 9 giờ sáng ngày 24-3-1975 ta giải phóng Củng Sơn.
Sáng 25-3-1975, tiểu đoàn 96 phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 64 sư đoàn 320
phát triển qua Tuy Bình bao vây yếu khu Phú Đức, đến 8 giờ sáng toàn bộ bọn địch ở đây ra
đầu hàng.Trước tình hình đó, quân địch hoàn toàn hỗn loạn, thi nhau chạy về Tuy Hòa. Trên
đường số 5, đoạn từ Mỹ Thạnh Trung đến Lương Phước ta tiêu diệt 400 tên, làm bị thương
200 tên và bắt sống 1.200 tên, hàng trăm xe bị đổ, bị đốt cháy.
Chiến thắng đường 5 là một mốc son lịch sử đánh bại cuộc rút lui chiến lược về đồng

bằng của Mỹ-ngụy. Vì thế chúng ta có thể tự hào nói rằng chiến thắng Đường 5 Xuân 1975 ở
Phú Yên là “trận Bạch Đằng giang trên cạn”, là “đòn quyết định cuối cùng” tiêu diệt toàn bộ
quân địch từ Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển miền Trung.
Câu hỏi 4:
1. Chủ trương của Bộ Chính trị và kế hoạch tác chiến của Quân khu V
Thực tế tình hình sau Hiệp định Pa-ri cho thấy thời cơ chiến lược càng đến gần cũng
là quá trình Tổng hành dinh khẩn trương nghiên cứu, cân nhắc, thảo luận về phương hướng
và biện pháp chiến lược giành thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Nhân kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước chúng tôi xin giới thiệu những nét cơ bản về quá trình xây dựng và việc tổ chức thực
hiện kế hoạch chiến lược này.
Từ đầu tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã định hướng cho việc
hình thành chiến lược giải phóng miền Nam. Nghị quyết xác định: Bất kỳ trong tình huống
nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.
Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nên từ đầu năm 1973 Quân ủy
Trung ương đã chỉ thị hình thành một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ
chuẩn bị kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Từ đầu tháng 6 đến trung tuần tháng 8-
1973, kế hoạch chiến lược đã được dự thảo ba lần, mỗi lần đều được Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương cho ý kiến để bổ sung sửa chữa. Mỗi lần dự thảo và bổ sung đều thấy xuất hiện
những vấn đề mới cần được tiếp tục trao đổi, thảo luận. Đáng chú ý là ngay từ những ngày
chuẩn bị Hội nghị Trung ương 21, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thường nhấn mạnh khả năng phát
động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu là thành thị để giải
phóng miền Nam. Do đó, trong lần dự thảo thứ ba, Tổ trung tâm đi sâu phân tích những đặc
điểm của cuộc tổng khởi nghĩa, dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa có thể diễn ra và các biện
pháp chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để tiến hành tổng khởi nghĩa, tổng công
kích, lấy phát động quần chúng làm khâu chủ yếu nhất, trọng điểm số 1 là Sài Gòn. Tổng
công kích – tổng khởi nghĩa trở thành vấn đề nổi bật được thảo luận rất nhiều trong những lần
Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược.
Sau khi hướng dẫn Tổ trung tâm nghiên cứu kinh nghiệm kết thúc chiến tranh của
một số nước đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc… Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên

Giáp liên hệ với tình hình thực tế miền Nam nước ta, khẳng định không thể đặt vấn đề tổng
khởi nghĩa lên hàng đầu mà nhất thiết phải có những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện tiến công vào sào huyệt chủ yếu của
chúng trong các thành phố lớn, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến
tranh. Trải qua nhiều lần trao đổi, cuối cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhất trí phải phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả thành thị và nông thôn với quả đấm chiến lược là các binh đoàn
chủ lực, thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Tổ trung tâm tiếp tục
nghiên cứu và hoàn chỉnh bản kế hoạch chiến lược theo phương hướng đó.
Một trong những điểm quan trọng trong kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam là
yêu cầu, nhiệm vụ tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân đội Sài Gòn trong một thời gian
nhất định, phải hoàn toàn khác với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra trong cuộc Tổng tiến công
chiến lược Tết Mậu Thân (1968) và cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Do đó, trong nhiều
nội dung được nêu lên để nghiên cứu phân tích có hai vấn đề chủ yếu.
Về vấn đề thứ nhất (so sánh lực lượng), qua các nguồn tình báo chiến lược, Tổng
hành dinh đánh giá: Chủ trương của Mỹ lúc này vẫn cố tìm cách duy trì chính quyền Sài Gòn
để thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới; coi chính phủ cách mạng lâm thời chỉ là lực lượng
đối lập, phủ định lực lượng thứ ba. Mỹ ra sức lôi kéo Trung Quốc, khoét sâu mâu thuẫn Xô -
Trung hòng hạn chế viện trợ cho ta, gây sức ép nhằm buộc ta giảm hoạt động quân sự ở miền
Nam. Mãi đến hội nghị cuối tháng 9 - đầu tháng 10-1974 (khi thông qua dự thảo kế hoạch lần
thứ 7) Bộ Chính trị vẫn thận trọng nhận định: Ta phải vừa đánh vừa tiếp tục theo dõi phản
ứng của Mỹ nhằm hạn chế khả năng can thiệp của chúng. Đến hội nghị thông qua lần thứ 8
(cuối tháng 12-1974 đầu tháng 1-1975) Bộ Chính trị vẫn chủ trương kiềm chế Mỹ, đánh đổ
ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó phản ứng quyết
liệt của Mỹ bằng không quân và hải quân…
Về vấn đề thứ hai (hướng tiến công chiến lược chủ yếu): Từ cuối tháng 5-1973, Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng khẳng định: Buôn
Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch. Với nhận định đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ
trương phải đánh lớn, đánh đau, đánh hiểm mới giành được hoàn toàn bất ngờ, muốn vậy
phải làm đường để sử dụng xe tăng, pháo lớn. Tuy nhiên, trong quá trình thông qua các bản
dự thảo, việc chọn hướng chiến lược vẫn tiếp tục được trao đổi, thảo luận và qua đó xuất hiện

nhiều ý kiến khác nhau khi cân nhắc giữa các hướng: 1) Nam Bộ (mà trọng điểm là Sài Gòn-
Gia Định); 2) Quân khu 1 và Quân đoàn 1; 3) Huế – Đà Nẵng và 4) Tây Nguyên… Bắt đầu
bước vào hoạt động mùa khô 1974 – 1975, Tổng hành dinh sớm phát hiện khả năng đối phó
của địch đã hạn chế rõ rệt. Quân đội Sài Gòn không còn sức chiếm lại các vị trí đã mất. Biện
pháp chiến lược chủ yếu của chúng là bình định và lấn chiếm đã tỏ ra mất hiệu lực. Các chiến
thắng của ta ở Thượng Đức (tháng 8-1974) và nhất là Phước Long (tháng 1-1975) cho phép
khẳng định quân đội Sài Gòn không thể đương đầu với chủ lực của ta và sự phản ứng của Mỹ
chỉ có mức độ, nhất là sau lời tuyên bố ngày 22-1-1975 của Tổng thống Gerald Ford. Từ kết
quả 7 lần Bộ Chính trị thảo luận và cho ý kiến, đến lần dự thảo thứ 8 Tổ trung tâm dự kiến ba
phương án. Phương án 1: Tổng tiến công thực hiện đòn quân sự tiêu diệt địch ở tầm chiến
lược đi trước một bước nhằm tạo điều kiện và tích cực thúc đẩy nhanh chóng cuộc nổi dậy
của nhân dân các thành phố trung tâm, phối hợp tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi;
Phương án 2: Tổng công kích-tổng khởi nghĩa song song, tập trung lực lượng chủ yếu vào hai
trọng điểm: Phương án 3: a) Sài Gòn – miền Đông Nam Bộ và b) Trị Thiên – Quảng Đà;
Phương án 3): Nổi dậy của quần chúng ở các thành phố trọng điểm đi trước một bước; kịp
thời phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, giành thắng lợi ở hai trọng điểm
chiến lược là Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng.
Từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975, Bộ Chính trị họp nhằm xem xét lần cuối bản dự
thảo kế hoạch chiến lược. Dự thảo lần này không những đã được bổ sung một số điểm, điều
chỉnh một số chỉ tiêu mà còn được chỉ huy các chiến trường nghiên cứu, góp ý kiến. Cuối
cùng, bản dự thảo nhan đề “Kế hoạch chiến lược sắp tới” được Bộ Chính trị chính thức thông
qua. Quyết tâm chiến lược trong kế hoạch được thể hiện thành hai bước, mỗi bước đều có chỉ
tiêu giành thắng lợi cụ thể. Bước 1-năm 1975: Mở nhiều đợt tiến công và nổi dậy, làm cho
lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976; hướng tiến công chiến lược
đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên; bước 2 - năm 1976: Tổng tiến công và
nổi dậy, đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.
Khi thảo luận và thông qua dự thảo kế hoạch lần cuối, Bộ Chính trị nhận định: Cả
năm 1975 tiến công quân sự mạnh, tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ,… có thể
tạo ra thời cơ mới với nhiều thuận lợi mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến
mà ta chưa lường hết được. Thời cơ lớn tạo ra một ngày bằng 20 năm, nếu bỏ lỡ thời cơ là có

tội với dân tộc. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm
1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Do đó, bên cạnh kế hoạch hai bước
trên đây (kế hoạch cơ bản), Tổng hành dinh còn xây dựng một kế hoạch thời cơ, giải phóng
miền Nam sớm hơn hai năm.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, với thế chiến lược đã được tạo ra
trong 2 năm 1973 - 1974, Quân khu V đã hình thành một kế hoạch tác chiến trong năm 1975.
2. Tình hình chiến trường và chủ trương, nhiệm vụ của tỉnh Phú Yên .
* Tình hình chiến trường Phú Yên trong những năm 1974, đầu năm 1975. Về phía ta
trong năm 1974 ta chặn đánh sự lấn chiếm của địch, giữ vững vùng giải phóng của ta, đánh
bại một bước “bình định” nhất là vùng tranh chấp, đồng thời nhanh chóng xây dựng vững
chắc các thôn xã mới được khôi phục, đẩy mạnh công tác xây dựng vùng giải phóng.
Đối với địch: sau một thời gian thực hiện âm mưu “ tràn ngập lãnh thổ”, đến cuối năm
1974 địch vấp phải những đòn tiến công của ta trên toàn tỉnh nên chúng phải co về phòng thủ
một cách bị động.
* Chủ trương, nhiệm vụ của Phú Yên :
Theo sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V, Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên
đã chỉ đạo “ Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, khắc phục mọi khó khăn, tập
trung cao độ, giành thắng lợi lớn nhất trong năm 1975, nhằm góp phần với toàn miền Nam
tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong một thời gian ngắn” Trên cơ sở
đó ta sử dụng toàn bộ lực lượng tập trung của tỉnh vào hướng trọng điểm Tuy Hòa 1, Tuy
Hòa 2, mở ra từng mảng liên hoàn từ 3 đến 5 xã.
Để thực hiện được mục đích, yêu cầu của chiến dịch, từ những tháng cuối năm 1974
và tháng 1, 2 năm 1975 tỉnh khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Thường vụ Tỉnh ủy quyết định
thành lập 2 sở chỉ huy, để chỉ huy chiến dịch. Sử dụng một phần lực lượng huyện, du kích,
đội công tác tích cực hoạt động giữ thế chiến trường. Nhân dân Phú Yên bước vào cuộc đấu
tranh mới với khí thế phấn khởi và tin tưởng, ai nấy cũng muốn được tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu.Công tác chuẩn bị ở hậu phương và trên chiến trường diễn ra rất khẩn
trương, lực lượng thanh niên xung phong và bộ đội công binh ra sức mở đường nối liền
đường Hồ Chí Minh về đến căn cứ của tỉnh. Những đoàn xe ngựa, xe thồ chuyển hang trăm
tấn đạn dược, phương tiện ra chiến trường. Các hoạt động đấu tranh chính trị binh vận diến ra

sôi nổi góp phần tạo nên bước chuẩn bị cuối cùng trong cuộc Tổng tiến công lịch sử năm
1975 ở Phú Yên.
3. Diễn biến, kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở Phú Yên .
Thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam. Ngày 10-3-1975, quân chủ lực của ta mở
cuộc tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột và thu được thắng lợi, cũng thời điểm đó Phú Yên
bắt đầu mở chiến dịch tiến công địch.
Tại Đồng Xuân, ta tập kích vào bắc La Hai, bao vây xã Xuân Phước, chia cắt nhiều đoạn
đường từ Chí Thạnh đến La Hai, không cho địch vận chuyển tiếp tế. Hiệp đồng với bộ binh,
ta bắn cối 82 ly vào Bến Đá, công binh chặn đánh địch đi tuần, kiểm tra đường. Tại một số
xã, du kích cùng nhân dân nổi dậy phá khu dồn, đưa dân về làng cũ.
Tại Sông Cầu, ta đánh vào Hòa Lợi, Tuy Phong, tấn công bọn lính tuần đường từ cầu
Long Thạnh ra Thạnh Khê, du kích xã Xuân Cảnh phục kích chân hòn Dù đánh địch đến giải
tỏa. Xã Xuân Cảnh và một số thôn của xã Xuân Lộc được giải phóng.
Tại Tuy An, ta nổ súng tấn công tiêu diệt một đại đội bảo an rồi tiếp tục tấn công vào các
xã An Mỹ, An Dân. Nhân dân và du kích xây dựng các làng chiến đấu.
Ngày 17-3-1975, ta nổ súng tấn công vào trọng điểm Tuy Hòa. Đại đội 202 tiến công cứ
điểm núi Tranh, tiểu đoàn 96 bao vây, tiến công và tiêu diệt bắt sống gần hết 2 đại đội của
tiểu đoàn bảo an 220, đánh bại cuộc phản kích của tiểu đoàn 219 cùng một đại đội của tiểu
đoàn 210 của ngụy. Ta làm chủ hai xã Hòa Định, Hòa Quang và một phần của xã Hòa Thắng.
* Chiến thắng đường số 5, đánh bại cuộc rút lui chiến lược của Mỹ-Ngụy
Sau nhiều lần tiến công và phản kích nhằm chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột bị thất bại,
ngày 14-3-1975, địch quyết định bỏ Tây Nguyên. Ngày 15-3, Sở chỉ huy quân đoàn II từ
Pleiku về Nha Trang và toàn bộ quân địch ở chiến trường Tây Nguyên cũng được lệnh bỏ
Tây Nguyên xuống đồng bằng. Tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó tư lệnh quân đoàn II, từ
Pleiku xuống Phú Yên trực tiếp chỉ huy.
Ngày 17-3, bộ phận đi đầu của lực lượng địch đến Củng Sơn (quận lỵ Sơn Hòa). Tại thời
điểm này các xã nằm dọc theo đường số 7, lực lượng du kích phát triển khá mạnh, cứ điểm
núi Tranh bị ta tiêu diệt. Thấy tình thế bất lợi, sở chỉ huy quân đoàn II địch quyết định cho
bắc cầu dã chiến qua sông Ba, đoạn Thạnh Hội qua hòn Kén, để theo đường số 5 xuống đồng
bằng Tuy Hòa về Phú Lâm.

Thực hiện ý đồ đó, trong các ngày 17, 18, 19 tháng 3, máy bay trinh sát V0 10, L 19 bay
lượn không ngớt trên bầu trời Tuy Hòa để làm nhiệm vụ trinh sát đường số 5 và số 7. Nhiều
chuyến trực thăng H24 chở công binh, phương tiện làm cầu từ Nha Trang và Tuy Hòa bay
đến khu vực hòn Kén,
sông Nhau. Tiểu đoàn
268 thuộc liên đoàn 924
đóng ở thị xã Tuy Hòa
và 2 khẩu pháo 105 ly ở
cầu Cháy được địch kéo
lên hòn Kén, trực tiếp
chi viện cho cuộc rút
lui.
Ban Chỉ huy tiền
phương tỉnh Phú Yên
họp tại núi Hương
(Hòa Mĩ) tháng 3
-1975.
Sáng ngày 18-3, tại núi Hương xã Hòa Mỹ, quận Tuy Hòa 1, Sở chỉ huy tiền phương dưới
sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy, cùng lãnh đạo các ngành, các cơ
quan tham mưu quân đội họp quán triệt nhiệm vụ của Khu giao và quyết định phương án
chiến đấu, nhằm ngăn chặn, làm tan rã và tiêu hao lực lượng địch trên đường rút chạy.
Lực lượng tham gia đánh chặn địch trên đường số 5 có các tiểu đoàn 9, 13, 96 bộ binh,
tiểu đoàn trợ chiến 189, đại đội đặc công 25, 201, 24, đại đội 19 và K65 công binh, đại đội
377 và 203 bộ đội địa phương Tuy Hòa, đại đội 202, 378 làm nhiệm vụ chốt đường số 7, bộ
đội Sơn Hòa đánh tập hậu đội hình địch.
Đúng 4 giờ 15 phút ngày 19-3, tiểu đoàn 13 và bộ phận hỏa lực tiểu đoàn 189 tập kích
vào cầu Cháy (nằm giữa hai xã Hòa Mỹ và Hòa Đồng). Cùng thời gian đó, đại đội đặc công
201 tập kích hòn Kén thuộc xã Sơn Thành, đại đội 25 tập kích hòn Sặt. Tiểu đoàn 9 và đại đội
377 đánh chiếm Phú Thứ. Đại đội đặc công 203 đánh vào trụ sở ngụy quyền ở thôn Phước
Bình, xã Hòa Thành. Du kích và nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa Mỹ nổi dậy bao vây, bắn tỉa

gọi loa binh địch vận, buộc địch tháo chạy khỏi chốt núi Lá (Hòa Mỹ) và khu dồn Phú Hữu
(Hòa Thịnh), ta giải phóng hoàn toàn hai xã này. Tiểu đoàn 9 đánh vào xã Hòa Phong và nổ
súng tấn công hòn Sặt (lần thứ hai) diệt toàn bộ quân địch đóng tại đây.
Đến 11 giờ trưa ngày 19-3, địch cho hai máy bay A 37 và các trận địa pháo ở Bàn Thạch,
núi Nhạn, hòn Kén bắn vào cầu Cháy và một số khu vực khác, đồng thời chúng tập hợp lực
lượng còn lại của tiểu đoàn 236 tổ chức phản kích chiếm lại cầu Cháy để từ đó đánh vào Hòa
Thịnh, hòn Dù. Địch còn tổ chức một lực lượng khác đánh vào Hòa Phong, Phú Thứ.
Trong lúc ta đang tổ chức đánh trả các đợt phản công thì Sở chỉ huy thông báo có đoàn xe
địch hàng trăm chiếc từ hòn Kén chạy xuống. Tiểu đoàn 9 đã nhanh chóng chuyển đội hình từ
tấn công, truy kích sang phục kích ở đoạn hòn Sặt - Mỹ Thạnh. Khi 5 chiếc xe tăng lọt vào
trận địa, đại đội 3 tiểu đoàn 9 nổ súng diệt 4 chiếc, chiếc đi đầu vượt khỏi đội hình chạy đến
Phú Thứ bị đại đội 377 tiêu diệt, toàn bộ đội hình phía sau của địch lùi lại hòn Kén.
Đêm 19-3, một bộ phận của tiểu đoàn 13 vây chặt địch tại Phú Diễn, đến 5 giờ sáng ngày
20-3 ta xuất kích, diệt 40 tên.
Sáng 20-3, tiểu đoàn 13 phục kích từ thôn Phước Thịnh đến Mỹ Thạnh Tây, tiểu đoàn 9
phục kích từ Mỹ Thạnh Tây đến Lương Phước, đại đội 377 và 203 chốt tại cầu tổng Phú Thứ,
đại đội 19 và K65 công binh cùng 2 cối 82 đánh địch ở quốc lộ I đoạn từ Hòa Xuân vào Đèo
Cả, chặn không cho địch từ Phú Yên chạy vào Khánh Hòa và từ Khánh Hòa ra Phú Yên,
đồng thời kiềm chế trận địa pháo địch ở cầu Bàn Thạch. Tiểu đoàn 189 tập trung hỏa lực chi
viện cho các đơn vị chiến đấu đường số 5. Đại đội 201, 25 đặc công, bộ đội Sơn Hòa tập kích
địch ở hòn Kén. Đại đội 202 đặc công và các lực lượng vũ trang quận Tuy Hòa chặn đánh
địch trên đường số 7. Nhìn chung, ngày 20-3 ta đã hình thành một thế trận đánh địch trên hai
trục đường số 5 và số 7, suốt từ miền núi đến đồng bằng.
Sáng ngày 22-3, hàng trăm chiếc xe Hon-đa của địch chạy đến cầu Đồng Bò. Sở chỉ huy
tiền phương đã nắm được ý đồ của địch, thông báo các đơn vị quan sát, sẵn sàng nổ súng đề
phòng địch giả dân chạy thoát. Tiểu đoàn 13 và tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ này. Kết quả
ta diệt tại chỗ 120 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá. Thu hồi và
phá hủy 300 xe Hon Đa, 3 xe Jeep, 7 xe GMC, 20 súng và nhiều phương tiện chiến tranh. Số
địch chạy thoát về cụm tại hòn Kén.
Chiều ngày 22-3, Sở chỉ huy tiền phương điều tiểu đoàn 9 lên sát cầu Đồng Bò để đánh

chính diện và điều một bộ phận khác khóa đuôi bảo vệ cầu máng. Mặt khác, ta tăng cường
một bộ phận công binh và du kích chốt đường 5, đoạn từ Đồng Bò đến Lương Phước.
Sáng ngày 23-3, địch đưa liên đoàn bảo an 924 và tiểu đoàn 236 chia thành nhiều cánh có
máy bay yểm trợ, theo đường 5 tấn công cùng một lúc vào lực lượng ta ở Hòa Bình, Hòa
Phong và từ Hòa Tân đánh lên cầu Cháy, núi Lá, núi Hương phát triển qua hòn Sặt. Đến trưa,
địch đưa tiểu đoàn 268 từ hòn Kén đánh xuống, khi đến cầu Đồng Bò bị đại đội 3 tiểu đoàn 9
chặn đánh, địch phải rút về hòn Kén.
Một đơn vị khác của địch chiếm cầu Phú Thứ, phát triển lên Phước Thịnh, bị tiểu đoàn 13
chặn đánh phải rút về lại Phú Thứ. Để tiếp sức, địch điều thêm một tiểu đoàn biệt động từ
Khánh Hòa ra đánh theo hướng đông nam, khi đến xã Hòa Xuân bị đại đội 10, K65 và du
kích Hòa Xuân chặn đánh phải dừng lại tại Đèo Cả.
Tuy đã tìm mọi cách, nhưng đến hết ngày 23-3-1975 địch vẫn chưa thông được đường.
16 giờ ngày 23-3, tiểu đoàn 96 phối hợp với trung đoàn 64 sư đoàn 320 tấn công vào
quận lỵ Củng Sơn. Địch phát hiện quân chủ lực ta có xe tăng, nên hoảng hốt chen nhau tháo
chạy qua cầu phao tại Thanh Hội, đã làm cho hàng chục xe và hàng trăm tên lính rơi xuống
sông chết đuối. 9 giờ sáng ngày 24-3-1975 ta giải phóng Củng Sơn.
Sáng 25-3-1975, tiểu đoàn 96 phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 64 sư đoàn 320
phát triển qua Tuy Bình bao vây yếu khu Phú Đức, đến 8 giờ sáng toàn bộ bọn địch ở đây ra
đầu hàng.Trước tình hình đó, quân địch hoàn toàn hỗn loạn, thi nhau chạy về Tuy Hòa. Trên
đường số 5, đoạn từ Mỹ Thạnh Trung đến Lương Phước ta tiêu diệt 400 tên, làm bị thương
200 tên và bắt sống 1.200 tên, hàng trăm xe bị đổ, bị đốt cháy.
Chiến thắng đường 5 là một mốc son lịch sử đánh bại cuộc rút lui chiến lược về đồng
bằng của Mỹ-ngụy.
Tỉnh đường Phú Yên tại Tuy Hòa bị tấn công. Bọn địch tháo chạy, bỏ lại các phương tiện
chiến tranh để thoát thân trong chiến dịch mùa Xuân 1975
* Giải phóng thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh
Ngày 26-3 điện của A15 (tức Khu ủy khu V) gửi cho Tỉnh ủy Phú Yên: “Nhanh chóng
chuyển toàn bộ lực lượng vào đánh chiếm thị xã Tuy Hòa, bàn với chủ lực cho một bộ phận
cùng đánh vào. Hoàn thành xong thị xã chuyển lực lượng ra giải quyết phía bắc cùng với chủ
lực”. Ngày 27-3, địch ở Xuân Phước, Xuân Lãnh tháo chạy về La Hai. Ngày 28-3, Thường vụ

Tỉnh ủy, Sở chỉ huy tiền phương cùng với Bộ tư lệnh sư đoàn 320 gặp nhau, vạch kế hoạch
tấn công vào thị xã Tuy Hòa. Đêm 31-3, tỉnh thành lập Ủy ban quân chính gồm 23 đồng chí
và Ủy ban tiếp quản thị xã Tuy Hòa trên 100 đồng chí, chia ra 10 ban chuyên môn. Ở các
quận cũng thành lập Ủy ban quân chính để tiếp quản. Lực lượng đánh vào thị xã Tuy Hòa có
3 trung đoàn của sư đoàn 320, bộ đội tỉnh, huyện, xe tăng và pháo.
5 giờ sáng ngày 1-4-1975, trung đoàn 2 nổ súng tấn công vào trận địa pháo của địch đặt
tại núi Nhạn, cùng lúc xe tăng của ta xuất kích chiếm lĩnh cầu Ông Chừ, rồi phát triển theo
đường Trần Hưng Đạo đánh thẳng xuống phía nam Tòa hành chính tỉnh.Ở phía bắc thị xã,
trung đoàn 1 đánh chiếm sân bay Chóp Chài, sau đó phát triển theo đường Nguyễn Huệ
chiếm Ty cảnh sát, trung đoàn bộ 47, Tòa hành chính tỉnh.Ở phía tây bắc, bộ đội tỉnh đánh
chiếm Long Tường, xóm Lẫm, Quy Hậu, Phước Khánh. Ở Hiếu Xương, trung đoàn 3 đặt
pháo tại Lạc Nghiệp bắn vào quận lỵ Hiếu Xương, một cánh quân khác của ta chiếm giữ khu
vực Đông Mỹ, cầu Phú Khê, Thạch Tuân. Bộ đội tỉnh đánh chiếm Phú Hiệp, không cho địch
rút chạy ra biển.
9 giờ 30 phút ngày 1-4-1975, ta hoàn toàn làm chủ thị xã Tuy Hòa. Cờ Mặt trận dân tộc
giải phóng Miền Nam Việt Nam tung bay trên đỉnh núi Nhạn.
Lực lượng vũ trang ở Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân cũng nổi dậy bao vây đánh địch,
buộc chúng phải chạy trốn hoặc đầu hàng.
Đúng 10 giờ ngày 1-4-1975, toàn tỉnh Phú Yên được hoàn toàn giải phóng.
Ngày 1-5-1975, lễ mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam được tổ chức trọng
thể tại sân vận động thị xã Tuy Hòa. Đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân cách mạng thay mặt Đảng và chính quyền đọc diễn văn tại cuộc mít ting.
* Ý nghĩa thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1975 ở Phú Yên .
Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân năm 1975 ở Phú Yên là một thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử to lớn đối với nhân dân Phú Yên và cả nước.
Chiến thắng năm 1975 ở Phú Yên đã đập tan toàn bộ kế hoạch di tản chiến lược của
địch, đẩy lực lượng của địch trên chiến trường thuộc các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ rơi
vào thế hỗn loạn, hoang mang cao độ. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tỉnh Phú Yên nói
riêng và các tỉnh khác nói chung giải phóng khỏi sự thống trị của Mỹ - Ngụy.
Thắng lợi to lớn đó đã thể hiện lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, tinh thần hi

sinh,anh dũng vượt khó và sáng tạo của nhân dân Phú Yên. Một lòng theo Đảng theo Bác Hồ
nhân dân Phú Yên đã viết nên những trang sử hào hùng của quê hương.
Thắng lợi năm 1975 của nhân dân Phú Yên góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc
ta là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc. Thắng lợi
của nhân dân Phú Yên nói riêng và của dân tộc Việt Nam một lần nữa làm sáng tỏ chân lý vĩ
đại: "Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một dân
tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới
sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lê-nin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn,
giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình ủng hộ và
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế
Ảnh lính ngụy bị
bắt làm tù binh
dưới chân núi
Chóp Chài sáng
ngày 1 – 4 - 1975
giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu
sỏ"
Câu hỏi 5
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và
tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương
sáng để mọi người dân noi theo. Là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam
trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 23-
CT/TW về việc toàn Đảng, toàn dân tổ chức đợt học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để quán triệt,
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đợt học tập đã thu được nhiều kết quả tốt.
Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ 12
Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân,
đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại

Hội X của Đảng. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình
hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ quan Trung
ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại Hội X của Đảng, Bộ
Chính trị quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỷ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng (03-02-2007)
tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.
Qua 2 năm triển khai cuộc vận động trong toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong
tỉnh, ngày 26/11/2009, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” tỉnh Phú Yên đã tổ chức Hội nghị biểu dương, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm
169 tập thể và cá nhân tiêu biểu trong thực hiện Cuộc vận động.
Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
tỉnh Phú Yên khẳng định: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” đã thực sự đi vào cuộc sống và được các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành,
Mặt trận, hội, đoàn thể, đông đảo cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công nhân
viên chức, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình, tích cực hưởng ứng tham
gia. Qua Cuộc vận động đã xuất hiện ngày càng nhiều những cách làm hay, việc làm tốt,
nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong học tập và làm theo gương Bác.
Tại Hội nghị, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động đã biểu dương 48 tập thể và 121 cá nhân
có nhiều thành tích tiêu biểu xuất sắc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, được cấp ủy, Ban chỉ đạo các huyện, thị, thành phố và các
Đảng bộ trực thuộc chọn cử tham gia Hội nghị. Chính các tập thể và cá nhân tiêu biểu, cùng
với hàng nghìn gương mặt khác đang tích cực “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác là
những hình ảnh đầy sức thuyết phục về sự thành công của Cuộc vận động.
Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta
phát động trong giai đoạn hiện nay là làm cho toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta nhận thức sâu
sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh nâng cao đạo đức cách mạng, cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Đối với
tỉnh Phú Yên cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, bên
cạnh thực hiện những yêu cầu nhiệm vụ chung, Đảng bộ, các lực lượng vũ trang và nhân dân
tỉnh Phú Yên còn thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, an sinh
xã hội, thực hiện công bằng xã hội… Tạo ra sự chuyển biến một cách căn bản làm nền tảng
vững chắc, để Phú Yên luôn có sự tăng trưởng nhanh và ổn định trên con đường hội nhập
kinh tế thế giới.
Kết quả bước đầu ở Phú Yên sau 3 năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động thời gian qua, đã xuất hiện nhiều
tấm gương tiêu biểu. Bằng sự tôn kính và tấm lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ, mỗi người,
tuy ở những cương vị, điều kiện công tác và cuộc sống không giống nhau, nhưng tất cả có
một điểm chung là đều hướng đến cộng đồng bằng những việc làm cụ thể, thiết thực theo tấm
gương đạo đức của Người.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chỉ qua hơn
nửa chặng đường nhưng đã có sức lan tỏa và tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của cán
bộ, đảng viên, thể hiện rõ nhất qua thái độ ứng xử, đạo đức tác phong, sự năng nổ trong công
tác xây dựng nề nếp trong mỗi cơ quan, đơn vị, tạo sự đoàn kết, thống nhất, đấu tranh giúp
từng cán bộ, đảng viên hoàn thiện mình. Từ một cán bộ lãnh đạo một địa phương, một đơn vị
đến một già làng ở vùng cao, từ một giáo viên nhiều năm kinh nghiệm đến những thầy cô
giáo trẻ mới ra trường, từ một sĩ quan trong quân đội cho đến một tạp vụ bình thường. Tất cả
đều nhận thức và hưởng ứng tích cực cuộc vận động. Từ cuộc vận động Đảng bộ và nhân dân
tỉnh Phú Yên càng nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải học tập tấm gương đạo đức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tầm quan trọng tư tưởng và quan điểm của người trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trên tất cả các ngành các lĩnh vực của dời sống xã hội đều có sự
chuyển biến nhất định theo hướng tích cực, nhiều phong trào tiêu biểu, nhiều điển hình tiên
tiến đã được vinh danh, được nhân nhân tin tưởng. Qua cuộc vận động đã khẳng định vai trò
và năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng tập hợp lực lượng của các tổ chức chính trị xã hội.
Tất cả đều như một thể thống nhất nhất: thống nhất trong cả ý chí và hành động. Chính từ
cuộc vận động chúng ta tin tưởng rằng công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã lữa chọ sẽ mang lại những thành công mới cho dân tộc Việt Nam nói
chung và nhân dân Phú yên nói riêng trên con đường hội nhập và phát triển.
Câu hỏi 6:
Đại hội đồng UNESCO (tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa Liên Hiệp Quốc) tại
khóa họp từ 20-10 đến 20-11-1987 có ra nghị quyết “Về việc kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh”, toàn văn như sau:
“Đại hội đồng,
Nhận thấy rằng việc cử hành trên quy mô quốc tế những ngày kỷ niệm các nhân vật
vĩ đại của thế giới trí tuệ và văn hóa là nhằm góp phần vào sự thực hiện các mục tiêu của
UNESCO và hiểu biết quốc tế.
Ghi nhận rằng năm 1990 sẽ đánh dấu việc kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa vĩ đại của nước Việt
Nam. Nhận thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng vĩ đại của sự khẳng định dân tộc đã
cống hiến cả cuộc đời của Người cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.Nhận thấy rằng cống hiến quan trọng và đa dạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh
vực về văn hóa, về giáo dục và nghệ thuật đã kết tinh truyền thống văn hóa mấy ngàn năm
của dân tộc Việt Nam, rằng các lý tưởng của Người đã hiện thân những khát vọng của các
dân tộc trong việc khẳng định diện mạo văn hóa của mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau.
1- Kiến nghị với các quốc gia thành viên rằng sẽ hưởng ứng việc cử hành lễ kỷ niệm
lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tưởng nhớ đến Người bằng những biểu hiện
khác nhau làm hiểu rõ tầm lớn lao của các lý tưởng và sự hoạt động của Người trong công
cuộc giải phóng dân tộc.
2- Yêu cầu ông Tổng Giám đốc của UNESCO sẽ có những biện pháp thích ứng để
cử hành việc kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và mong sự ủng hộ
của Ngài đối với các hoạt động tưởng niệm sẽ được tổ chức trong dịp này, đặc biệt đối với
các hoạt động sẽ được tiến hành tại Việt Nam”.
Bản Nghị quyết trân trọng và súc tích của Đại hội đồng UNESCO làm cho tất cả
chúng ta càng thêm tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trong dịp kỷ niệm lần thứ 120

ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Là anh hùng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm thế kỷ XX. Người đã chủ trương tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mạnh chính nghĩa của thời đại và truyền thống bất khuất của
dân tộc Việt Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để chiến thắng kẻ thù.
Đó là quy luật của chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước là những lời
hịch vang vọng núi sông, là biểu tượng của lòng quả cảm, quyết tâm không gì lay chuyển nổi
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng dân tộc. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý của thời đại, ngọn cờ chiến đấu của các dân
tộc bị áp bức. Là danh nhân văn hóa, đặc trưng tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp nhuần
nhuyễn triết học phương Đông và triết học phương Tây, nắm vững văn hóa dân tộc và tiếp
thu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta. Những cống
hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người, xây dựng Đảng cầm
quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; thể hiện khát vọng dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh đã ngời sáng chất nhân văn cao cả.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là di sản vĩ đại để lại cho toàn Đảng, toàn dân. Đó
là tấm gương đạo đức trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư;
đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết. Người đã trở thành một mẫu mực đạo đức
không riêng cho nhân dân Việt Nam mà cho cả nhân loại yêu chuộng hòa bình, tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - danh nhân Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng luôn
sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. Nhân loại trên con đường vươn tới sự phát triển tự do
và toàn diện của mỗi người và của mọi người, đã tìm thấy trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh những giá trị trường tồn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn
gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh
kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo
dục gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là sự cống hiến to lớn đối với cách mạng

Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng cộng sản
Việt Nam (3-2-1930), sáng lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (19 -5 -1941), sáng lập
Quân đội nhân dân Việt Nam (22 – 12 – 1944 ) và sáng lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ( 2 – 9 – 1945 ) nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của mộtngười
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh
không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp
quốc UNESCO ra Nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh "Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn"
Về bản thân tôi là một giáo viên lịch sử cấp THCS, nên việc hưởng ứng cuộc vận động
“ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là phương pháp được tôi lựa chọn
nhằm rèn luyện phẩm chất đạo đức và năng lực của bản thân mình. Từ những quan điểm lãnh
đạo, các bài phát biểu, câu chuyện kể, những tác phẩm, những lời chỉ bảo ân cần của Hồ Chí
Minh đều là những di sản quý giá của dân tộc ta, là những bài học đạo đức chuẩn mực của
mỗi một con người. Xuất phát từ thực tế giảng dạy tại Trường THCS Đinh Tiên Hoàng,
huyện Tây Hòa , qua nhiều năm tìm hiểu và vận dụng tư tưởng của Người vào công tác giảng
dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh và tự rèn luyện mình, bản thân tôi cảm nhận sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây được xem là một biện
pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, là một cách tốt
nhất để mạng tri thức đến với học sinh mà tôi đang giảng dạy.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Học phải hành”, "Lý luận đi đôi với
thực tiễn", "Lý luận kết hợp với thực hành", "Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với
nhau”, "Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói "đi đôi",
"gắn liền", "kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: "Thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý

luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm,
còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực
tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương
tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh
lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa,
không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn
tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt
động thực tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm
thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ
bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành
cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách
mạng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh nghiệm của họ
tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ" (Hồ Chí Minh, 1995, tập
5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí
Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì
không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập
6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận
không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận,
khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng
không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng
được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng
không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt
chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông,

tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành
cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở
thuần túy. "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào
công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập
5 tr. 234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không
cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời,
khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực
tiễn luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau
phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản
này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và quần
chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về
việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện
sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ
sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện
trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các
cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong,
các hợp tác xã, bệnh viện, trường học Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp
gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng,
sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý
luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có phương pháp học tập đúng đắn, học
phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh

kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất cần
thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý
luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr.
496). Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa
Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác- Lênin,
"học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác - Lênin" (Hồ Chí Minh, 1995, tập
9 tr. 292). Đó là học theo kiểu "mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là
"phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà
giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta" (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 8, tr. 497). "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để
mà làm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên
"học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc
để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng" (Hồ Chí Minh,
1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác -
Lênin, cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân
nhằm có cái để mặc cả với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và
phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học
tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là
kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có
như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mới có hiệu quả. Cùng
với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin thì còn phải chống giáo điều
trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán
bộ, đảng viên: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều (Hồ Chí

Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện
pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành,
lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất
phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều
thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn
trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn
mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác
- Lênin. "Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những
kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa
xét lại, (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên
phải biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
công tác. "… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ,
phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để
giúp cho cán bộ tiến tới" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh " cần
phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát
triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 417).
Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được "bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8,
tr. 496). Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ
như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra
từ tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được
bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. "Làm như thế theo
Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao
hơn và công tác có kết quả hơn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×