Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Điều khiển lưu lượng và tắc nghẽn trong mạng ATM, chương 11 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.1 KB, 7 trang )

Chương 11: ĐIỀU KHIỂN TẮC NGHẼN
2.1 Khái niệm tắc nghẽn:
Trong cuộc sống hàng ngày ta thấy những sự tắc nghẽn như :
kẹt xe hoặc sự chờ đợi trong một số dòch vụ ví dụ như xếp hàng
mua vé…Tắc nghẽn được đònh nghóa một cách tổng quát là trạng
thái của một hệ thống khi mà nhu cầu về tài nguyên vượt quá
những tài nguyên sẳn có trong một khoảng thời gian nào đó.
Trong mạng ATM, tắc nghẽn được đònh nghóa là trạng thái
mà trong đó tải yêu cầu từ User đối với mạng đạt tới hoặc vượt
quá những giới hạn thiết kế của mạng vốn để đảm bảo chất
lượng dòch vụ chỉ ra trong hợp đồng lưu lượng. Nguyên nhân gây
ra tắc nghẽn có thể do biến động tăng không dự báo của dòng
lưu lượng hoặc do sự cố trong mạng.
Các tài nguyên có thể trở thành tắc nghẽn trong mạng ATM
bao gồm: các cổng chuyển mạch, các bộ đệm, những liên kết
truyền dẫn, đơn vò xử lý, lớp thích ứng ATM và những đơn vò
điều khiển chấp nhận kết nối(CAC). Tài nguyên mạng mà có
nhu cầu vượt quá khả năng thì được gọi là điểm tắc nghẽn cổ
chai.
2.2 Điều khiển tắc nghẽn:
Điều khiển tắc nghẽn là một chức năng quan trọng trên
mạng ATM, hoạt động ngay cả khi không có tắc nghẽn.
Do vậy không có sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý
lưu lượng và điều khiển tắc nghẽn. Mục đích của điều khiển tắc
nghẽn là để tối thiểu hóa phạm vi và thời gian tác động của tắc
nghẽn. Điều khiển tắc nghẽn được chia thành ba mức : Quản lý
tắc nghẽn, tránh tắc nghẽn và khắc phục tắc nghẽn. Phạm vi
hoạt động của từng mức và bảng phân loại các mức điều khiển
tắc nghẽn được mô tả như hình trên.
I. Quản lý tắc nghẽn:
Không tắc nghẽn Tắc nghẽn nhẹ Tắc nghẽn nghiêm trọng


Khắc phục
Tránh
Quản lý
Lý tưởng
Lượng tải đưa
vào(%)
Lưu
lượng tải
trên
mạng(%)
100
40
70
40 65 100 160
Loại
Mức cell Mức chùm dữ liệu Mức kết nối
Quản lý tắc
nghẽn
Dùng UPC loại bỏ cell Phân bổ tài nguyên
Kỹ thuật xây dựng
mạng
Tránh tắc nghẽn
- Chỉ thò tắc nghẽn phía
trước rõ ràng(EFCI)
-UPC thay đổi bit CLP
Điều khiển luồng dựa
vào Windows, Rate hay
Credit
-CAC "overbooked"
-Chặn cuộc gội

Khắc phục tắc
nghẽn
-Loại bỏ cell có chọn lọc
-UPC động
-Phản hồi sự mất cell
-Xóa cuộc gọi
-Các thủ tục điều hành
Quản lý tắc nghẽn hoạt động ở vùng không tắc nghẽn với
mục đích không để mạng tiến vào vùng tắc nghẽn. Các chức
năng ở mức này bao gồm : phân phối tài nguyên, UPC ở chế độ
loại bỏ (Discarding), CAC ở chế độ đặt trước hoàn toàn (CAC
Fully-booked) và kỷ thuật xây dựng mạng.
1.1 Phân phối tài nguyên:
Một trong những cách điều khiển là tránh nó hoàn toàn.
Điều này có thể thực hiện được bằng cách phân phối tài nguyên
một cách đúng đắn. Việcï phân phối tài nguyên dựa vào: dung
lượng trung kế , không gian bộ đệm, các thông số UPC/NPC và
các thông số VPC.
Nếu hoạt động của UPC được thiết lập để loại bỏ các cell
vượt quá tốc độ đỉnh và tất cả trung kế cùng với các tài nguyên
về bộ được phân phối cho hoạt động ở tốc độ đỉnh thì tắc nghẽn
sẽ không thể xảy ra. Như vậy với phương pháp này thì mạng
phải có lượng dự trữ tài nguyên để phục vụ cho việc khôi phục
mạng nếu xảy ra tắc nghẽn hoặc có sự cố xảy ra trên mạng.
Mặc dù phương pháp này có thể tránh được hoàn toàn sự tắc
nghẽn nhưng nó sẽ đưa đến vấn đề là hiệu quả sử dụng mạng
rất thấp và lãng phí tài nguyên. Phương pháp này có thể hiệu
quả đối với các mạng cục bộ như LAN nơi mà giá thành đầu tư
cho sự truyền dẫn và các thiết bò là tương đối rẻ.
1.2 UPC loại bỏ(UPC discarding):

UPC hoạt động như một cảnh sát giao thông ở lối vào của
mạng, với việc thực thi chế độ loại bỏ các cell không phù hợp
công với việc đảm bảo sự phân phối tài nguyên ở mức độ phù
hợp thì tắc nghẽn có thể không xảy ra. Trong phương pháp này
UPC discarding sẽ thực hiện tại nút đầu tiên của mạng do đó
các lưu lượng mà có thể gây ra tắc nghẽn sẽ không được đưa
vào mạng để không gây nghẽn đối với nút này và các nút tiếp
theo trên tuyến.
1.3 CAC đặt trước hoàn toàn (CAC fully booked):
Ở chế độ này, CAC chỉ chấp nhận các kết nối có các thông
số lưu lượng như PCR, SCR và MBS không làm vi phạm chất
lượng dòch vụ của các kết nối khác đang tồn tại.
Trong phương pháp này PCR, SCR và MBS được sử dụng để
đặt trước toàn bộ các tài nguyên về bộ đệm , trung kế và chuyển
mạch. Điều này sẽ đảm bảo rằng trong trường hợp xấu nhất là
tất cả các nguồn đều gửi thông tin thì các luồng cell phù hợp vẫn
đảm bảo được chất lượng dòch vụ ở mức độ chấp nhận được.
1.4 Kỷ thuật xây dựng mạng:
Một phương pháp để đạt được sự phân phối tài nguyên một
cách hiệu quả là dựa vào những quyết đònh kó lưỡng lúc vạch ra
kế hoạch và khuynh hướng mang tính lâu dài khi xây dựng
mạng. Đây là phương pháp được sử dụng cho hầu hết các mạng
công cộng và mạng riêng ngày nay. Nhửng quyết đònh này bao
gồm việc xác đònh đúng thời điểm và vò trí để lắp đặt hoặc nâng
cấp chuyển mạch hay dung lượng trung kế. Cùng với nó là tập
hợp các kết quả đo lường mang tính thống kê về lưu lượng và
hiệu xuất yêu cầu thực tế để mô hình hóa một cách chính xác
những nguồn lưu lượng dùng cho các giải thuật hoạch đònh
mạng.
II. Tránh tắc nghẽn:

Tránh tắc nghẽn hoạt động giữa hai vùng không tắc nghẽn
và tắc nghẽn nhẹ, bao gồm các thủ tục ngăn chặn và khắc phục
tắc nghẽn trong trường hợp lưu lượng trên mạng đạt cực đại tuy
nhiên tải vẫn tiếp tục được đưa vào vùng tắc nghẽn nhẹ. Các
hoạt động ở mức này bao gồm: chỉ thò tắc nghẽn phía trước
(EFCI_Explicit Forward Congestion Indication), UPC ở chế độ
đánh dấu (tagging), CAC ở chế độ đặt quá tài nguyên (CAC
Over-booked), khóa cuộc gọi(Call blocking) và điều khiển
luồng.
2.1 Chỉ thò tắc nghẽn phía trước (EFCI):
Phương pháp này sử dụng vùng kiểu tải trọng (PT_Payload
Type) trong phần header của tế bào ATM để đặt bit EFCI. Khi
một phần tử mạng rơi vào trạng thái tắc nghẽn nó có thể thiết
lập chỉ thò tắc nghẽn phía trước trong vùng PT của phần header
để những nút khác trong mạng hoặc thiết bò đầu cuối đích kiểm
tra chỉ thò này và phát hiện được trạng thái trong mạng. Lưu ý
rằng những cell có vùng PT được đặt EFCI sẽ không bò loại bỏ
và nó dành riêng cho hoạt động tránh tắc nghẽn; các nút không
bò nghẽn thì không nên thay đổi EFCI vì nó được dùng để thông
báo sự tồn tại của tắc nghẽn từ bất kỳ nút trung gian nào đó tới
đầu cuối nhận.
Bên cạnh việc sử dụng bit EFCI trong các cell thông tin để
thông báo cho các nút phía sau , các mạng ATM còn có cơ chế
thông báo tắc nghẽn ngược về phía sau trên một vòng phản hồi
giống như cơ chế thông báo tắc nghẽn ngược về phía sau giống
NÚT NÚT NÚT
EFCI
40 60 80 100 120 140 160
40
50

60
70
80
90
100
110
Lưu lượng tải trên
mạng(%)
Lưu lượng tải đưa
vào(%)
Có điều khiển
Không điều khiển
ĐIẾU KHIỂN HỒI TIẾP
như cơ chế BECN(Backward Explicit Congestion Notification)
trong Frame Relay. Điều này được minh họa trong hình sau:
Nếu tắc nghẽn được nhận thấy bất cứ nơi đâu trên tuyến, bao
gồm tắc nghẽn ở liên kết ra của một nút, thì lúc đó một thông
báo nghẽn được gửi ngược trở lại nút khởi điểm . Nút khởi điểm
có thể làm chậm lại dòch vụ đang thực hiện trên kết nối đó, hoặc
loại bỏ cell có chọn lọc hay thực hiện cả hai. Nói cách khác,
nguồn phát mà đang gây ra tắc nghẽn có thể điều tiết trở lại để
tránh khỏi trạng thái tắc nghẽn.
Trong đồ thò hình trên cho chúng ta thấy hai đường cong của
độ thông suất hữu dụng theo tải xét trong trường hợp có điều
khiển và không có điều khiển. Trong trường hợp không có điều
khiển thì có thể xảy ra suy sụp do tắc nghẽn (độ thông suất giảm
một cách nghiêm trọng).
Phương pháp này chỉ có thể làm việc nếu thời gian tắc nghẽn
thực sự lớn hơn thời gian đi một vòng mạng (round trip), nếu
không thì sự tắc nghẽn sẽ chấm dứt trước khi sự điều khiển phản

hồi có tác dụng.Trường hợp xấu nhất trong trường hợp này đó là
lưu thông đầu vào mang tính chất tuần hoàn với một chu kỳ xấp
xỉ bằng một vòng mạng.
2.2 UPC đánh dấu:
Trong điều khiển lưu lượng UPC được yêu cầu đầu tiên và
nó cũng được yêu cầu trong hoạt động tránh tắc nghẽn. Một
trong những cơ chế điều khiển thông số sử dụng là UPC đánh
dấu, hoạt động của UPC đánh dấu là thay đổi giá trò bit CLP để
chỉ ra những cell không phù hợp (CLP = 1). Kỹ thuật này cho
phép những lưu lượng có thông số vượt quá những thông số lưu
lượng thỏa thuận mà vẫn được chấp nhận cho vào mạng và điều
này có thể gây ra tắc nghẽn. Nếu kỹ thuật tránh tắc nghẽn này
được sử dụng thì một kỹ thuật tương ứng như loại bỏ cell có
chọn lọc hoặc UPC động phải được sử dụng để khôi phục mạng
nếu có tắc nghẽn nghiêm trọng xảy ra.
2.3 CAC đặt quá tài nguyên (CAC overbooking):
Ở chế độ này các kết nối yêu cầu các thông số lưu lượng ví
dụ như PCR lớn hơn giá trò được sử dụng trong phần lớn thời
gian. Khi một số lớn các kết nối này chia sẽ một tài nguyên
chung thì khả năng tất cả cùng sử dụng tài nguyên ở mức độ yêu
cầu cao nhất là thấp. Do vậy nhiều kết nối có thể được chấp
nhận hơn.
CAC overbooking cũng phải được sử dụng kết hợp với cơ chế
khắc phục tắc nghẽn như cơ chế UPC động và xóa kết nối.
Trong đó UPC động là cấu hình lại các thông số về lưu lượng
bằng cách thương lượng lại với User.

×