Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Gesner (1516 -1665): Nhà động vật học và thực vật học lỗi lạc pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.92 KB, 20 trang )



Gesner (1516 -1665):
Nhà động vật học và
thực vật học lỗi lạc



Zurich là thành
phố lớn nhất của
Thụy Sĩ, nằm
dưới chân d
ãy núi
Alpes, bên m
ột hồ
nhỏ, cách biên giới nước Đức
chừng ba mươi cây số về phía
Nam. Chính nơi đây, ngày 26
tháng 3 năm 1516, Konrad von

Gesner
(1516 - 1665)

Gesner đã ra đời. Có lẽ nghề
nghiệp của cha, nghề buôn bán
da lông thú luôn gắn với những
động vật nên từ nhỏ cậu bé
Konrad đã có cơ h
ội quan sát say
mê các loài thú? Nhận thấy con
trai sớm biểu lộ t


ài quan sát khác
thường nên ông bố đã gửi cậu
đến ở nhà người bác, vốn là
người chuyên trồng các loại dư
ợc
thảo.

Ngoài những giờ đến lớp, Konrad
đã có dịp theo ông bác đi đây đi đó
để kiếm tìm các loại cây lá, có lẽ v
ì
vậy mà tình yêu thiên nhiên hoa
trái đã sớm định hình trong tâm trí
cậu thiếu niên ham học hỏi. Ở
trường cậu Konrad cũng được các
thầy dạy yêu thương quý mến vì
tính nết chăm chỉ, đầu óc thông
minh khác thường: chỉ sau hai năm
đến lớp, cậu đã đọc được nhiều tập
sách của các tác giả La Mã và Hy
Lạp.

Cha của ông là một tín đồ theo nhà
cải cách tôn giáo Ulrich Zwingler
(1484-1531), ở Zurich, và đã bị tử
thương trong một trận chiến với
những người Thiên Chúa giáo, nên
cậu thiếu niên Konrad mồ côi cha
lúc vừa tròn mười lăm tuổi. Nhưng
Konrad thật may mắn là có ba ông

thầy đã tận tình giúp đỡ: một ngư
ời
nhận làm cha nuôi, một thầy khác
chu cấp nơi ăn ch
ốn ở trong suốt ba
năm trời, và một thầy nữa thì lo
tiền bạc để cậu có thể tiếp tục lên
Strasbourg học. Rồi sau đó, cả ba
thầy lại đóng góp công sức để
chàng thanh niên Gesner được đến
học ở Bourges và nghiên cứu văn
học và ngôn ngữ ở Paris. Chỉ có
một điều làm cả ba thầy đều cảm
thấy thật phiền lòng: đó là lúc
chàng thanh niên Gesner mư
ời chín
tuổi quyết định lập gia đình v
ới một
cô gái trẻ, ngoan nhưng nghèo và
chẳng có chút của cải gì mang về
nhà chồng. Tuy buồn phiền nhưng
các thầy vẫn không bỏ rơi chàng
thanh niên chưa nghề nghiệp và đ
ịa
vị trong xã hội. Ba ông lại kiếm
cho Gesner một chỗ dạy học tại
Zurich rồi thuyết phục những ngư
ời
quen biết cho chàng vay n
ợ để theo

học trường Y khoa ở Basel.

Gesner lên đường tới thành phố
Basel ở cách Zurich khoảng sáu
mươi cây số về phía Tây Bắc, sát
biên giới nước Đức, kế bên b
ờ sông
Rhin. Tại đây, có trường đại học
nổi tiếng cổ xưa nhất được xây
dựng từ năm 1459. Cảm nhận đư
ợc
lòng yêu thương vô hạn của các
thầy nên Gesner quyết chí học tập
và làm việc. Kết quả đầu tiên của
những năm tháng ở Basel là cuốn
từ điển Hy Lạp - La Tinh đã được
xu
ất bản năm 1537, khi Gesner vừa
tròn hai mươi mốt tuổi. ít lâu sau,
Gesner được bổ nhiệm làm giáo sư
dạy tiếng Hy Lạp và Do Thái ở
Viện Hàn lâm Lausanne (1537-
1540). Nhờ công việc dạy học nên
cuộc sống gia đình được ổn định v
à
Gesner có thể yên tâm tiếp tục học
tập.

Thời gian trôi qua nhanh chóng,
chàng trai Gesner hai mươi lăm

tu
ổi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa ở Đại
học Basel. Sau một thời gian hành
nghề ở nhiều thành phố châu Âu,
Gesner đến Venezia, một thành ph

ở miền Đông Bắc Italia, bên bờ
biển Adriatic để nghiên cứu các
biển (1545). ít lâu sau, Gesner trở
về thành phố Zurich quê hương để
nhận giảng dạy thêm môn V
ật lý tại
trường Carolinum. Lúc ba mươi
tám tuổi, Gesner được bổ nhiệm
làm bác sĩ của thành phố; vài năm
sau trở thành giáo sư môn Khoa
học tự nhiên tại Đại học Zurich.

Ngoài lĩnh vực y học, Gesner say
mê tìm hiểu các loài cây cỏ, hoa lá.
Trước kia, cây cỏ thường được mô
tả theo tổng thể, nhưng nay ông lại
chú ý đ
ến từng chi tiết các phần của
cây, hoa và hạt giống kèm toàn bộ
hình dáng. Gesner là người đầu ti
ên
xác định sự khác biệt giữa giống
(genus) và loài (species), cũng như
giữa loại (order) và l

ớp (class). Một
điều được ông luôn khẳng định là
hiếm có loài cây nào mà giống
(genus) không thể chia tách thành
hai hoặc nhiều loài (species),
Gesner nêu ví dụ những tác giả chỉ
mô tả một loại cây long đờm
(gentiane), còn ông thì mô tả đến
mười loại.

Sau khi cho in cuốn “Lịch sử cây
cỏ” (Paris, 1541) và tập tài liệu Y
học phổ cập (1545) nhấn mạnh đến
vai trò dinh dưỡng của sữa, Gesner
tập trung toàn bộ sức lực cho
những bộ sách lớn. Ông dự định
dành hơn mười năm (1545-1555)
biên soạn bộ sách đầu tiên có nhan
đề “Tủ sách toàn năng”, gồm 20
tập. Đây là một bảng liệt kê (bằng
tiếng La tinh, Hy Lạp và Do Thái),
khoảng 1.800 tác giả cổ xưa được
sắp xếp theo thứ tự chữ cái, kèm
tiêu đề các công trình nghiên cứu,
những trích dẫn, bàn lu
ận về những
đóng góp của mỗi tác giả. Năm
1584 là năm kết thúc bộ sách với
19 tập, đáng tiếc là tập 20 gồm
phần y học không bao giờ được

hoàn tất. Sau đó bộ sách được bổ
sung thêm (1549) tập 21, đây là
một tài liệu bách khoa về Thần
học.

Ngay sau khi kết thúc bộ sách lớn,
Gesner lại bắt tay vào công việc
biên soạn bộ “Lịch sử động vật”
gồm 5 tập, (1551-1587). Có thể coi
đây là công trình tham khảo chủ
yếu về Động vật học của thế kỷ
XVI, trong đó các động vật được
xếp loại theo thứ tự chữ cái, với
mục đích sửa chữa những hiểu biết
sai lầm thời đó cũng như loại bỏ
những huyền thoại. Đối với mỗi
con vật, ông dành 8 phần bàn luận,
bao gồm: tên gọi (theo nhiều ngôn
ngữ khác nhau), hình thái ngoài và
sự phân bố theo địa dư, cách ứng
xử của con vật theo môi trường
sống kèm bệnh tật, bản chất và các
bản năng, những lợi ích c
ủa con vật
(trong chăn nuôi, săn bắn), th
ức ăn,
những vị thuốc xuất xứ từ con vật
và cuối cùng, phần 8 luận bàn về
triết học, văn học cũng như những
kiểu cách ví von dân dã liên quan

đến con vật (thí dụ như “ứng xử
kiểu bò mộng”, “suy nghĩ như đầu
bò”…). Tuy nhiên, cách phân loại
đôi khi hơi tùy tiện: các động vật
có vú được phân chia thành hai
nhóm: hoang dã và gia súc, nhóm
thứ hai này lại được chia nhỏ thành
những động vật tập quần, có sừng
(trâu…) ho
ặc không có sừng (ngựa,
heo, chó và cả mèo). Tập đầu tiên
dày 1.100 trang, đề cập đến các
loài
bốn chân đẻ con, kèm nhiều hình
vẽ tuyệt đẹp được xuất bản năm
1551 (Zurich). Liên tiếp trong ba
năm sau đó, ra đời ba tập bàn về
các động vật bốn chân đẻ trứng
(1554), về chim (1555) (ông là
người đầu tiên mô tả chim bạch
yến), về cá cùng với các động vật
khác sống dưới nước (1556). Cho
tới hai mươi năm sau khi Gesner
qua đời, mới xuất bản thêm tập thứ
5 (cũng là tập cuối cùng) viết về
rắn (1587). Bộ sách vĩ đại này gồm
tổng cộng bốn nghìn năm trăm
trang, một nghìn bản khắc gỗ kèm
trích dẫn hai trăm năm mươi tác gi


nổi tiếng. Bốn tập đầu bộ sách (về
sau được dịch sang tiếng Đức,
Zurich, 1563) trở thành tài liệu
tham khảo chủ yếu của ngành Đ
ộng
vật học hiện đại. Gesner đã viết bộ
sách với văn phong rất trau chuốt
và dành riêng 176 trang cỡ lớn để
mô tả ngựa, 40 trang về cừu và 30
trang về voi, kèm nhiều hình vẽ
thật đẹp khắc trên gỗ. Ông quan
niệm những kiến thức về Động vật
học rất cần thiết đối với tất cả mọi
người, từ thầy thuốc, thợ săn đến
người nấu bếp; và việc nghiên cứu
tìm hiểu đời sống động vật, ong,
kiến cũng làm cho đời sống con
người thêm phong phú. Tuy nhiên,
ông không chú ý mô tả thật khoa
học các hình thái bên ngoài. Do
vậy, những động vật sống ở châu
Âu mà ông đã có dịp quan sát (như
loài có vú, chim, cá, rắn, giun và c

những côn trùng) đều được minh
họa rất đẹp. Ngược lại những động
vật sống ở châu á, châu Phi v
à châu
Mỹ đều được minh họa đơn thuần
qua lời kể truyền miệng. Vì thế

nhiều hình vẽ đã làm độc giả phải
ngạc nhiên bật cười (hơn nữa ông
còn thêm nhiều chi tiết thần thoại
như con rắn thần, động vật một
sừng). Gesner là người đầu tiên mô
tả nhiều dạng nửa vật nửa người
như con “jumar”, một dạng động
vật lai tạp, hư ảo, mang hình nửa
ngựa, nửa bò, như dạng quái vật
đầu người mình ngựa; cá lai giữa
cá chình với rắn vipe; con hươu ca
o
cổ lai tạp giữa lạc đà với báo, sư tử
lai báo, bò đực lai ngựa cái. Có
điều đặc biệt là tất cả những động
vật được mô tả đều rất sống động
như những con vật có thật ở vùng
Bắc châu Phi. Trong suốt quá trình
nghiên cứu tìm hiểu các động vật,
ông đã nhận đư
ợc rất nhiều mẫu vật
từ khắp nơi gửi tặng, nào là những
xương, da động vật hiếm, nào là
những vỏ sò, sừng trâu bò. Mỏ con
chim toucan kỳ lạ vùng Nam Mỹ
và những mẫu động vật hóa thạch
cũng được gửi đến.

Mặc dù đã bỏ nhiều công sức cho
bộ sách “Lịch sử động vật” vĩ đại

và danh tiếng Gesner đã vang dội
khắp châu Âu, nhưng ông vẫn ch
ưa
hài lòng mà lại tiếp tục hoàn tất
một bộ sách mới mang nhan đề
“Làm quen v
ới các ngôn ngữ khác”
(1555) để ghi nhận và giải nghĩa
khoảng 130 ngôn ngữ đã được biết
đến ở thời đó.

Ông còn viết những tập tài li
ệu nhỏ
(xuất bản liên tục hai mươi năm, từ
1751 đến 1771) để chuẩn bị cho bộ
sách “Môi trường Thực vật học”.
Nhằm biên soạn bộ “Bách khoa
toàn thư Thực vật học” tương ứng
với bộ sách về động vật suốt nhiều
năm, ông sưu tập rồi cấy trồng
nhiều mẫu cây đã kiếm nhặt được
trên các triền núi Alpes. Về ph
ương
diện này, có thể coi Gesner như
người mở đường cho ngành Sinh
Thực vật học núi cao. Ngoài việc
thành lập một Viện Bảo tàng, ông
còn xây dựng được một kho lưu tr

khoảng 1.500 bản khắc gỗ, họa

hình về cây cỏ, động vật do chính
ông thực hiện. Những chi tiết về
cây cỏ, hoa trái, những mô tả tỉ mỉ
cây cảnh trong cuốn sách “Hoa
nước Đức”, chứng tỏ tài quan sát
tinh tường của Gesner vượt trội h
ơn
hẳn các nhà Sinh học trư
ớc đó cũng
như đương thời.

Đối với những người dân bình
thường, Gesner lại nổi tiếng vì tình
yêu thiên nhiên, ông thường đến
nơi thôn quê hoặc các v
ùng núi non
hiểm trở vừa để ngắm nhìn cảnh
đẹp vừa để sưu tầm những loại cây
lá quý hi
ếm. Độc giả thời đó (1555)
đã say mê đọc cuốn truyện ông kể
về chuyến leo tới đỉnh Gnefstein
thuộc dãy núi Pilatus, Thụy Sĩ, với
nh
ững đoạn văn mô tả đầy cảm xúc
chân thật. Niềm yêu mến phong
cảnh núi non quê hương của ông đ
ã
ảnh hưởng đến nhiều nhà khoa học
sau này (như De Saussure ở thế kỷ

XVIII) và khơi nguồn cho ngành
Địa chất học núi cao.

Được phong tước quý tộc lúc bốn
mươi tám tuổi, Gesner là một thầy
thuốc, một nhà Đ
ộng vật học, Thực
vật học, giáo sư tiếng Hy Lạp, một
nhà nghiên cứu Từ điển học đầy t
ài
năng. Nhưng suốt nhiều năm tháng
cuối đời, ông sống trong cảnh
nghèo túng, bệnh tật, đôi mắt cận
thị từ xưa lại thêm mệt mỏi sau
những tháng ngày miệt mài nghiên
cứu, việc đọc sách đã làm ông luôn
bị rối loạn thị lực.

Khi bệnh dịch hạch bùng nổ tràn
lan khắp Zurich, trên cương vị một
thầy thuốc, ông đã chữa trị cho rất
nhiều người bệnh tại thành phố qu
ê
hương nhưng cuối cùng chính căn
bệnh này lại bùng phát ở Basel
ngày 13 tháng 12 năm 1565, đã
cướp đi sinh mạng của nhà khoa
học lỗi lạc Gesner, lúc đó ông mới
tròn bốn mươi chín tuổi.


G
ần hai thế kỷ sau khi ông qua đời,
bộ sách “Thực vật học” (1753-
1759) mới được xuất bản nhưng
cũng làm giới khoa học châu Âu
kinh ngạc về tài năng ghi chép,
quan sát của ông, đồng thời khẳng
định Gesner là một nhà Thực vật
học lỗi lạc trong công việc phân
loại cây cỏ. Với tài năng xuất
chúng và những đóng góp to lớn
cho khoa học, Gesner đã được
Cuvier (1769-1832, nhà Động vật
học, người Pháp) tôn vinh là
“Plinius của Thuỵ Sĩ”.

×