Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

ĐỀ TÀI : Tín dụng ngân hàng pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.44 KB, 30 trang )

Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu

ĐỀ TÀI
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG


Giáo viên thực hiện :
Sinh viên thực hiện :
Nhóm: Cẩm Tú trang 1
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Nhóm: Cẩm Tú trang 2
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
1.1.Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tin dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế. trong nền kinh tế
thị trường ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, quan hệ tín
dụng ngân hàng đựoc thể hiện qua hai khâu:
- Khâu huy động vốn: ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy động khai thác
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng để hình thành nên nguồn vốn cho
vay. hoạt động này, được thực hiện dưới các hình thức ngân hàng huy động tiền
gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp, vay mượn qua các hợp đồng hoặc dưới các hình
thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên thị trường…
- Khâu cho vay: trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng sẽ thực
hiện phân phối cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong
nền kinh tế. đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
với mục đích sử dụng vốn tín dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Công cụ lưu thông tín dụng ngân hàng
Công cụ phục vụ chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngân hàng là kỳ phiếu
ngân hàng, các loại chứng chỉ huy động vốn.


- Công cụ lưu thông của tín dụng ngân hàng là kỳ phiếu ngân hàng; là một
loại chứng từ có giá của ngân hàng hay là một giấy nhận nợ của ngân hàng phát
hành cho các pháp nhân và thể nhân, nó được lưu hành không thời hạn trên thị
trường.
- Kỳ phiếu ngân hàng do ngân hàng phát hành dựa trên quan hệ tín dụng
giữa ngân hàng với doanh nghiệp, cư dân và nhà nước. Nó được ra đời trên hai cơ
sở bảo đảm bằng vàng và tín dụng. Kỳ phiếu ngân hàng còn được gọi là giấy bạc
ngân hàng và trở thành tiền tệ.
2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Nhóm: Cẩm Tú trang 3
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
- Về hình thức biểu hiện: hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện
dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về ngành nghề kinh
doanh, để tập trung được vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng
nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới
hình thái tiền tệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
- Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là
chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong
khâu phân phối cho vay.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn
toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá: xuất phát
từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các
nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá, giá trị của món
tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín
dụng phổ biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế, tín dụng ngân
hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải
chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung,

dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ
thuật, mua sắm tài sản cố định…Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một
phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ
trợ và bổ sung cho nhau. hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cho việc
mở rộng tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố hoặc tái chiết
khấu. đồng thời hoạt động của tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn
chế của tín dụng thương mại, mở rộng cung ứng vốn cho các chủ thể kinh tế, tạo
điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển.
3. Vai trò của tín dụng:
Nhóm: Cẩm Tú trang 4
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong nền kinh tế
thị trường tất yếu xảy ra các hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các doanh nghiệp.
Tín dụng đã góp phần điều tiết nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm đáp
ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp. Tín dụng giúp doanh
nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn để nhanh chóng mở rộng đầu tư, sản xuất và
đẩy nhanh tiến trình phát triển của nền kinh tế.
Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và giá cả. Với chức năng tập trung
và tận dụng các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã góp phần làm giảm
khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Lượng tiền dư thừa nếu không được huy
động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh hưởng xấu đến tình hình lưu thông tiền tệ,
dẫn đến mất cân đối trong quan hệ tiền hàng và hệ thống giá cả bị biến động là
điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, tín
dụng được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm
phát.
Thông qua tín dụng nhà nước thực hiện ổn định giá cả, tiền tệ và làm giảm
lạm phát bằng cách ban hành các chính sách tiền tệ như: nâng cao lãi suất tín
dụng, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, ấn định hạng mức cho vay.
Ba là, tín dụng góp phần ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm và ổn

định trật tự xã hội. Nhu cầu về nguốn vốn để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng
của các tầng lớp dân cư trong xã hội là rất to lớn. Để đáp ứng những nhu cầu đó,
các ngân hàng đã thực hiện các hình thức cấp tín dụng như: Cho vay tiêu dùng,
cho vay bổ sung vốn hoặc góp vốn kinh doanh…góp phần giúp người dân cãi
thiện cuộc sống và yên tâm sản xuất, kinh doanh.
Mặc khác, tín dụng đã giúp cho người dân hình thành ý thức tiêu xài tiết kiệm hơn
và hạn chế việc cho vay nặng lãi ngoài xã hội, nhằm ổn định cuộc sống ổn định
trật tự xã hội.
Khi cuộc sống của người dân ổn định và nâng cao sẽ kích thích tieu dùng,
tiêu thụ hàng hoá kéo theo sự sản xuất hàng hoá cũng phải gia tăng. Để tăng số
lượng sản phẩm, hàng hoá các doanh nghiệp phải thu hút một lượng lớn công nhân
Nhóm: Cẩm Tú trang 5
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
mới có thể đáp ứng được nhu cầu của người dân. Như vậy, tín dụng đã góp phần
tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
Bốn là, tín dụng tạo điều kiện mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại và tăng cường giao lưu quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, phát triển
kinh tế một nước phải gắn liền với thị trường thế giới. Tín dụng ngân hàng tạo
điều kiện kết nối các nền kinh tế với nhau. Tín dụng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá với các nước phát triển nói chung và nước
ta nói riêng.
4. Chức năng của tín dụng ngân hàng:
4.1.Tập trung và phân phối lại vốn, tài sản trên cơ sở có hoàn trả:
Tập trung và phân phối vốn tiền tệ là 2 quá trình thống nhất trong sự vận
hành của hệ thống tín dụng. Tín dụng là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung cầu về
vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua các chức năng này tín dụng thực hiện việc
điều hoà vốn tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu. Việc điều hoà này của tín dụng
hoặc trực tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu tài sản hoặc gián tiếp qua các trung gian
tài chính. Song sự điều hoà mang tính chất tạp thời và thông thường phải trả lợi
tức nhất định theo quy ước giữa bên cho vay và đi vay.

Với chức năng tập trung phân phối lại vốn, tài sản trong xã hội, tín dụng
có tác động mạnh mẽ đên đời sống kinh tế - xã hội xét trên cả mặt tích cực cũng
như mặt tiêu cực. Nếu việc tập trung phân phối lại của cải xã hội qua tín dụng phù
hợp với nhu cầu khách quan của đời sồng kinh tế - xã hội sẽ góp phần thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển, đơi sông dân cư sẽ được cải thiện. Ngược lại, nếu
việc phân phối lại của cải xã hội thông qua tín dụng không phù hợp với nhu cầu
khách quan của đời sống kinh tế - xã hội thì sẽ hoặc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển quá mức, tiêu dùng vượt quá khả năng sản xuất, hoặc là kìm hãm sản xuất
kinh doanh, giam sức mua của dân cư, tạo ra lạm phát hoặc giảm phát. Thực hiện
chức năng này tín dụng còn góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho
xã hội do huy động dược nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho vay để tăng nhịp độ
vòng quay của đồng tiền, phát hành các chứng từ có giá như tín phiếu, kỳ phiếu,
Nhóm: Cẩm Tú trang 6
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
trái phiếu, giảm nhu cầu về tiền mặt trong lưu thông đồng thời giảm những chi phí
trong lưu thông khác như in ấn giấy bạc, chi phi bảo quản vận chuyển tiền…
4.2.Kiểm tra, giám sát bằng tiền đối với các hoạt động kinh tế xã hội
Trong quá trình phân phối lại của cải xã hội, các chủ thể xã hội sẽ thực sự
kiểm tra, giám sát lẫn nhau nhằm trước hết bảo vệ lợi ích của mình. Đồng thời sự
kiểm tra giám sát ấy góp phần tác động đến việc thực hiện các hoạt động kinh tế
xã hội theo đúng lợi ích tòan xã hội.
Trọng tâm của chức năng nay là giám sát việc nhận, sử dụng đối tượng tín
dụng của người đi vay, từ đó mà đảm bảo sự hoàn trả đối tượng tín dụng cách
toàn vẹn, đúng hạn đã cam kết. Muốn vậy, việc giám sát đó phải được tiến hành
trong cả quá trình vay mượn, nghĩa là trước khi người vay nhận tiền vay, trong khi
nhận tiền vay và sau khi nhận tiền vay cho đến khi người vay người vay hoàn tră
xong nợ.
Cần nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự kiểm tra, giám sát bằng
đồng tiền do các trung gian tài chính thực hiện. Với tư cách người đi vay để cho
vay , các trung gian tài chính đó có thể và cần phải giám sát chặt chẽ đối với các

hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và hoạt động tiêu dùng cua
dân cư. Sự giám sát này không chỉ vì lợi ích của bản thân các trung gian tài chính
mà còn vì lợi ích của các doanh nghiệp, của dân cư và của toàn xã hội.
5. Phân lọai tín dụng ngân hàng
5.1.Căn cứ vào yếu tố thời hạn tín dụng:
Tín dụng ngân hàng bao gồm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngằn hạn có thời lượng đến một năm,
thường đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệphoặc phục vụ
nhu cầu tiêu dung bức thiết của nguời dân.
- Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn có thời hạn trên 1 năm đến 5
năm. Loại tín dụng này được sử dụng để bổ sung vốn mua sắm tài sản cố định, cải
tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
Nhóm: Cẩm Tú trang 7
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài
hạn được sử dụng để hỗ trợ vốn xây dụng cơ bản , đầu tư xây dựng các công trình
có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại có thời gian hoàn vón dài.
5.2.Căn cứ vào yếu tố đối tượng thực hiện vốn tín dụng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh
Tín dụng ngân hàng đựơc chia làm hai loại:
- Tín dụng vốn luư động: Tín dụng vốn lưu động thệ hiện dưới hình thức
cho vay dể bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế. Trên thực tế, loại tín
dụng này dựơc thực hiện dưới các hình thức: Cho vay để dự trữ hàng hoá, cho vay
các khoản chi phí phát sinh trong các công đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh,
cho vay để thanh toán các khoản nợ.
- Tín dụng vốn cố định: Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được cấp dể
bổ sung vốn cố định hình thành nên tài sản cố định; cải tiến kỹ thuật; mở rộng sản
xuất; xây dựng các công trình mới. Thời gian tín dụng là trung và dài hạn.
5.3.Căn cứ vào mục đính sử dụng

Tín dụng ngân hàng bao gồm:
- Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá: Loại tín dụng này được
cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hộ trợ vốn dể mở rộng hoạt động sản xuất
và lưu thông hàng hoá:
- Tín dụng tiêu dùng: Đây là loại hình tín dụng đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng của các cá nhân. Mục đích của tín dụng tiêu dùng là hỗ trợ cải thiện đời sống
vật chất, sinh hoạt cho các thành viên trong xã hội, kích thích tiêu dùng, tạo điều
kiện nâng cao năng xuất lao động, đồng thời tín dụng tiêu dùng cũng giúp cho các
doanh nghiệp tăng doanh số tiêu thụ, mở rộng thị trường hướng đến tôi đa hoá lợi
nhuận kinh doanh. Tín dụng tiêu dụng sẽ ngày càng mở rộng và phát triển, cả về
giá trị cũng như hình thức, cùng với tiến trình phát triển của kinh tế thị trường. Ở
những quốc gia có nền kinh tế phát triển, thu nhập người dân rất cao nhưng tín
dụng tiêu dùng phát triển rất mạnh thông qua phương thức cấp tín dung mà hàng
hoá, dịch vụ được cung ứng cho người tiêu dùng cách tốt nhất.
Nhóm: Cẩm Tú trang 8
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, tín dụng tiêu dùng có hai loại:
+ Hình thức cấp tín dụng bằng tiền: chủ yếu do ngân hàng thương mại, các
tổ chức tín dụng thực hiện.
+ Hình thức cấp tín dụng bằng hàng hoá: do các doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất kinh doanh tiếp hàng. Nó được biểu hiện qua quan hệ mua bán trả góp cho
người tiêu dùng.
5.4. Căn cứ vào tính chất đảm bảo tín dụng
Tín dụng ngân hàng chia thành các loại:
- Tín dụng không có đảm bảo trực tiếp: Khoản tín dụng được cấp không có
giá trị vật tư, hàng hoá hoặc tài sản làm đảm bảo trực tiếp mà chỉ dựa trên uy tín,
sự tín nhiệm của cá nhân, tổ chức tín dụng đối với bên nhận tín dụng. Vì vậy loại
hình tín dụng này còn có tên gọi là tín dụng tín chấp.
Mặc dù, không có tài sản hoặc hàng hoá trực tiếp làm đảm bảo, nhưng so
với loại tín dụng có đảm bảo thì tín dụng tín chấp có mức độ rủi ro thấp. Bởi lẽ,

với tín dụng tín chấp khi cấp tín dụng người cho vay đã kiểm soát rất chặt chẽ
năng lực tài chính, hiệu quả của dự án cho vay, khả năng hoàn trả vốn vay đúng
hạn và nhưng rủi ro tiền tàng có thể xảy ra đối vớ bên đi vay. Đố với tín dụng có
đảm bảo trực tiếp, xuất phát từ bản chất của tín dụng là dựa trên niềm tin, cho nên
khi xét duyệt tín dụng do có một số yếu tố chưa đảm bảo an tòan về hạn chế rủi ro,
nên người cho vay yêu cầu người đi vay phải áp dụng số phương thức để đảm bảo
khi cấp tín dụng.
- Tín dụng có đảm bảo trực tiếp: Loại tín dụng này được thực hiện khi
người đi vay có khối lượng hàng hoá, tài sản tương đương được dùng trực tiếp để
dảm bảo cho món vay. Trên thực tế, loại hình tín dụng này được thực hiện dưới
các hình thức như: cho vay thế chấp, cho vay cầm cố hoặc bảo lãnh, hoặc dưới
dạng thuê mua.
Thuê mua còn được gọi là thê tài chính, một phương thức tài trợ vốn trung
và dài hạn cho sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ tín dụng thuê mua được đảm bảo
bằng một quyền sở hữu về tài sản đã tài trợ vốn, đó có thể là động sản hay bất
Nhóm: Cẩm Tú trang 9
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
động sản, qua phương thức tài trợ này đáp ứng được 100% vốn đầu tư tài sản cố
định cho người đi thuê mà không phải vốn tự có tham gia. Như vậy, có thể định
nghĩa tín dụng thuê mua là phương thức cho thuê tài sản chuyên dùng có kèm lời
hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng, cho người thuê theo gia
thoả thuận từ đấu.
Về nguyên tắc, tín dụng thuê mua gồm ban bên liên quan:
+ Người đi thuê là doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh có nhu cầu về tài sản,
họ sẽ lựa chọn tài sản thuê tại người cung cấp.
+ Người cung cấp là doanh nghiệp bán hàng, thoả thuận các điều kiện mua
bán hàng hoá với người đi thuê và kỳ kết hợp đồng mua bán với công ty cho thuê
tài chính.
+ Người cho thuê đây là các công ty cho thuê tài chính, họ cung cấp các
nghiệp vụ tín dụng thuê mua cho các chủ thuể có nhu cầu về vốn trong nền kinh

tế.
Nghiệp vụ tín dụng thuê mua, người đi thuê lựa chọn tài sản phù hợp với
nhu cầu của mình và dề nghị người cho thuê mua tài sản đó. Sau khi mua tài sản
dó, người cho thuê - người sở hữu tài sản thuê - để cho người thuê sử dụng tài sản
theo thời hạn được tính trên cơ sở thời gian hữu dụng của tái sản. Trong suốt thời
gian thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, người đi thuê phải trả tiền thuê cho
người cho thuê theo định kỳ đã thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng thuê mua.
Số tiền thuê mua phải đảm bảo bù đắp dược chi phi khấu hao vốn đầu tư mua tài
sản và các khoản chi phí khác có liên quan. Các khoản chi phí về bảo dưỡng, bảo
hiểm và trách nhiệm khác thường xuyên có liên quan đến tài sản thuê phát sinh
trong thời gian thuê, người đi thuê phải chịu. Chậm nhất khi đến hạn hợp đồng,
người thuê có thể mua tài sản thuê theo giá định trước của hợp đồng ban đâu, hoặc
được quyền thuê tiếp, hoặc trả lại tài sản cho người cho thuê.
Tài sản thuê mua có hai loại: động sản và bất động sản, nên tín dụng thuê
mua cũng được chia làm hai loại là tín dụng thuê mua động sản và tín dụng thuê
mua bất động sản.
Nhóm: Cẩm Tú trang 10
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
+ Tín dụng thuê mua động sản: Tín dụng này liên quan đến hàng hoá , trang
thiết bị không có tính chất nhà cửa, thời hạn thông thường là 3-5 năm, tin dụng
thuê mua động sản thuộc tín dụng trung gian. Với loại này người đi thuê thường sẽ
mua tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê theo mức giá thoả thuận có tính đến số
tiền thuê đã trừ trước đó.
+ Tín dụng thuê mua bất động sản: Tín dụng này có liên quan đến những tư
liệu snr xuất có tính chất như nhà cửa, vật kiến trúc… có giá trị cao và thời gian
lâu dài từ 15-20 năm. Tín dụng thuê mua bất động sản thuộc loại tín dụng dài hạn.
6. Rủi ro tín dụng:
6.1. Khái niệm
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên,
không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không

chắc chắn nào có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được xem là rủi ro.
Có ba loại rủi ro:
- Rủi ro tín dụng là rủi ro mà nguời đi vay không thể (hay không muốn) trả
nợ gây ra những thiệt hại về mặt tài chính cho người cung cấp tín dụng. Loại rủi ro
này thường xảy ra bởi những người đi vay cá nhân, các tổ chức khác.
- Rủi ro về lãi suất là những rủi ro liên quan đến những biến động của lãi
suất trên thị trường. Rủi ro này thường đi kèm với rủi ro thị trường và tác động
quan trọng đến các loại chứng khoán có thu nhập cố định như trái phiếu.
-Rủi ro về tỷ giá là loại rủi ro do biến động tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Tỷ giá tăng hay giảm đều làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
Trong các loại rủi ro trên thì rủi ro tín dụng được xem là quan trọng nhất vì
nó có quan hệ mật thiết và chi phối mạnh mẽ đến các loại rủi ro còn lại. Mặt khác,
trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng hiện nay thì tín dụng được coi là
dịch vụ sinh lời chủ yếu và quan trọng có ảnh hưởng đến quyết định đến hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng.
Nhóm: Cẩm Tú trang 11
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Vậy rủi ro tín dụng là người đi vay sai hẹn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và (hoặc) lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn thanh
toán hoặc không thanh toán
6.2. Phân loại rủi ro:
Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố mang tính chất riêng biệt của mỗi
chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế.
Rủi ro tập trung là khi mức dư nợ cho vay được dồn cho một số khách
hàng, một số ngành kinh tế, một loại cho vay hoặc một khu vực địa lý.
Rủi ro danh mục có ba thành phần.
Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng.
Rủi ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo về mức an toàn của nó.
Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến vịêc quản lý hoạt động cho vay

như: xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho việc thực hiện
cho vay và kiểm soát danh mục cho vay, tái xét và giám sát danh mục cho vay,
bao gồm cả việc xây dựng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản
cho vay có vấn đề.
6.3. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do những nguyên nhân khách quan hay chủ
quan từ cả hai phía khách hàng và ngân hàng.
6.3.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Về mặt chủ quan có thể do trình độ quản lý của khách hàng còn yếu kém
dẫn đến sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ. Cũng có thể do khách hàng thiếu thiện chí trong việc trả nợ trong khi biện
pháp xử lý thu hồi nợ của ngân hàng tỏ ra kém hiệu quả.
Về mặt khách quan có thể do khách hàng gặp phải trong những thay đổi về
môi trường kinh doanh không phù hợp hoặc không thể lường trước được, chẳng
hạn sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu về thị trường, sự thay đổi về môi trường
pháp lý hay chính sách của chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó
Nhóm: Cẩm Tú trang 12
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
khăn tài chính không thể khắc phục được. Từ đó, doanh nghiệp dù có thiện chí
nhưng vẫn không thể trả được nợ.
6.3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Về mặt chủ quan do quá trình phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ
lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết định cho vay. Hoặc cũng có thể quyết định cho
vay đúng đắn do thiếu kiểm tra ,kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện để
ngăn chặn kịp thời.
Tóm lại, dù nguyên nhân từ phía khách hàng hay ngân hàng, nguyên nhân
chủ quan hay khách quan đều dẫn đến hậu quả là khách hàng đều không trả được
nợ.
việc phân tích và phân định rõ ràng nguyên nhân giúp ngân hàng có biện

pháp xử lý hợp tình hợp lý hơn.
6.3.3. Tác động của rủi ro tín dụng:
Đối với thị trường tài chính: khi rủi ro tín dụng xảy ra nghĩa là ngân hàng
không thu được nợ ( bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi) khi đến hạn. Mặc khác, ngân
hàng phải trả lãi cho huy động vốn từ dân cư cộng với các khoản chi phí từ hoạt
động khác làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống và giá trị thị trường của
vốn cũng giảm gây nên sự tổn thất về tài chính. Nếu rủi ro tín dụng cao, ngân hàng
sẽ mất khả năng thanh toán và phải sử dụng nguồn vốn tự có để bù đắp rủi ro đó.
Điều đó sẽ làm cho nguồn vốn của ngân hàng bị thu hẹp và có thể dẫn đến nguy cơ
phá sản.
Đối với nền kinh tế: Hoạt động của ngân hàng gắn với hoạt động của nền
kinh tế. Khi rủi ro tín dụng xãy ra, một số ngân hàng bị phá sản sẽ gây ra tâm lý lo
sợ bị mất tiền gửi nơi khách hàng. Nên vì tâm lý đó khách hàg đến rút tiền hàng
loạt tại các ngân hàng dẫn đến tình trạng mất ổn định trong các hoạt động của nền
kinh tế hậu quả là các hoạt động sản xuất kinh doanh bị kìm hãm và tình trạng nền
kinh tế suy thoái là điều không thể tránh khỏi.
Nhóm: Cẩm Tú trang 13
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Đối với xã hội: khi sản xuất kinh doanh kém phát triển, nền kinh tế bị suy
thoái thì rủi ro tín dụng đã gián tiếp làm tăng tỷ lệ người thất nghiệp, làm đảo lộn
trật tự xã hội.
7. Quy trình tín dụng:
7.1. Vai trò của việc lập quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp
nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho
vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Hầu hết các ngân hàng thương mại đều tự thiết kế cho mình một quy trình
tín dụng cụ thể. Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng có ý
nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt hiệu quả,
quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín

dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có các chức năng sau đây:
Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền
hạn của từng bộ phận trong hoạt động tín dụng.
Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay
vốn về mặt hành chính.
Quy trình tín dụng chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phân liên quan tronh
hoạt động tín dụng.
7.2. Quy trình tín dụng căn bản:
7.2.1. Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng:
Đây là khâu căn bản đầu tiên của quy trình tín dụng, nó được thực hiện
ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Lập hồ
sơ tín dụng là khâu quan trọng vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực
hiện các khâu sau, đặc biệt là khâu phân tích và ra quyết định cho vay.
Tùy theo quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, loại tín dụng yêu cầu và
quy mô tin dụng mà cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn cho khách hàng lập hồ sơ với
những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung, một bộ hồ sơ đề nghị cấp tín
dụng cần thu thập từ khách hàng những thông tin sau:
Nhóm: Cẩm Tú trang 14
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
• Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách hàng.
• Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng.
• Thông tin về bảo đảm tín dụng.
Để thu thập những thông tin căn bản như trên, ngân hàng thường yêu cầu
khách hàng phải lập và nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
• Giấy đề nghi vay vốn.
• Giây tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như giấy
phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
• Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoach trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
• Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
• Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.

• Các giấy tờ liên quan khác nếu cần.
7.2.2. Phân tích tín dụng:
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàn của khách
hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả
gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể
dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó
và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác
phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực của hồ sơ vay
vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái độ trả nợ của khách hàng
làm cơ sở quyết định cho vay.
7.2.3. Quyết định và ký hợp đồng tín dụng:
Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hay từ chối đối với một hồ sơ
vay vốn của khách hàng. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình tín dụng
vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một điều không may là khâu quan trọng này lại
là khâu khó xử lý nhất và thường dễ phạm phải sai lầm nhất. Có hai loại sai lầm cơ
bản thường xảy ra trong khâu này:
Nhóm: Cẩm Tú trang 15
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
• Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt.
• Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt.
Cả hai loại sai lầm này điều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Loại
sai lầm thứ nhất dễ dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc nợ không thể thu hồi, tức
là thiệt hại về tài chính. Loại sai lầm thứ hai dễ dẫn đến thiệt hại về uy tín và mất
cơ hội cho vay.
Nhằm hạn chế sai lầm, trong khâu quyết định tín dụng các ngân hàng
thường chú trọng hai vấn đề: một là thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và
chính xác để làm cơ sở ra quyết định, hai là trao quyền quyết định cho một hội
đồng tín dụng hoặc những người có năng lực phân tích và phán quyết.
7.2.3.1. Cơ sở để ra quyết định tín dụng:

Cơ sở để ra quyết dịnh tín dụng trước hết phải dựa vào thông tin thu thập và
xử lý từ hồ sơ tín dụng, do giai đoạn trước chuyển sang. Kế đến dựa vào những
thông tin khác hoặc thông tin cập nhật hóa có liên quan, thông tin đa dạng từ nhiều
nguồn khác nhau đã được cập nhật hóa, đặc biệt là các thông tin đáng tin cậy từ
các công ty nghiên cứu thị trường có uy tín, chẳng hạn như thông tin cập nhật về
tình hình thị trường, chính sách tín dụng của ngân hàng, các quy định về hoạt động
tín dụng của Ngân hàng nhà nước, nguồn vốn cho vay của ngân hàng, kết quả
thẩm định các hình thức đảm bảo nợ vay.
7.2.3.2. Quyền phán quyết tín dụng:
Tùy theo quy mô vốn vay lớn hay nhỏ quyền phán quyết thường được trao
cho một hội đồng tín dụng hay một cá nhân phụ trách. Hội đồng tín dụng, bao gồm
những người có quyền hạn và trách nhiệm quan trọng trong ngân hàng, thường
phán quyết những hồ sơ vay vốn có quy mô lớn trong khi quyền phán quyết các hồ
sơ vay có quy mô nhỏ thường được trao cho cá nhân phụ trách.
Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả có thể là chấp thuận hoặc từ chối
cho vay, tùy vào kết quả phân tích và thẩm định ở khâu trước. Nếu chấp thuận cho
vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng ký hợp đồng tín dụng và làm tiếp
Nhóm: Cẩm Tú trang 16
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
các bước tiếp theo. Nếu từ chối cho vay, ngân hàng sẽ có văn bản trả lời và giải
thích lý do cho khách hàng được rõ.
7.2.4. Giải ngân:
Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết. Giải
ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong
hợp đồng. tuy là khâu tiếp theo sau của quyết định tín dụng, nhưng giải ngân cũng
là khâu quan trọng vì nó có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời nếu có
sai sót ở các khâu trước. Ngoài ra, cách thức giải ngân còn góp phần kiểm tra và
kiểm soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích cam kết hay không.
Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hóa
hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải

ngân cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi gây khó khăn và phiền hà
cho khách hàng.
7.2.5. Giám sát tín dụng:
Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng nhằm mục tiên đảm bảo cho tiền
vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện
và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ
sau này. Các phương pháp giám sát tín dụng có thể bao gồm:
• Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
• Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ.
• Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định ky.
• Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi
cư ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn.
• Kiểm tra các hình thức đảm bào tiền vay.
• Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng
khác.
• Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác.
7.2.6. Thanh lý hợp đồng tín dụng:
Nhóm: Cẩm Tú trang 17
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Thanh lý hợp đồng tín dụng có thể xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng
hoặc do khoản vay đã đến hạn. Đây là khâu kết thúc của quy trình tín dụng. khâu
này gồm có các việc quan trọng cần xử lý (1) thu nợ cả gốc và lãi, (2) tái xét hợp
đồng tín dụng, (3) thanh lý hợp đồng tín dụng.
7.2.6.1. Thu nợ:
Ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều khoản đã
cam kết trong hợp đồng tín dụng. tùy theo tính chất của khoản vay và tình hình tài
chính của khách hàng, hai bên có thể thỏa thuận và lựa chọn một trong những hình
thức thu nợ sau:
• Thu nợ gốc và lãi một lần khi đáo hạn;
• Thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi định kỳ;

• Thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn.
Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng
có thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có biện
pháp xử lý thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
7.2.6.2. Tái xét hợp đồng tín dụng:
Thực chất là tiến hành phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã
được cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, phát hiện rủi ro để có
hướng xử lý kịp thời.
7.2.6.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng:
Nếu hết thời hạn của hợp đồng tín dụng và khách hàng đã hoàn tất các
nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi thì ngân hàng và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp
đồng tín dụng, giải chấp tài sản nếu có và lưu hồ sơ vay vốn của khách hàng vào
kho lưu trữ. Trong trường hợp hai bên ngân hàng và khách hàng tiến hành thanh lý
hợp đồng theo mặc nhiên. Trong trường hợp ngân hàng giám sát và phát hiện thấy
khách hàng vi phạm những cam kết ghi trong hợp đồng tín dụng nghiêm trọng có
thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này, ngân hàng có thể tiến hành thanh
lý hợp đồng tín dụng bắt buộc.
Sơ đồ cho vay
Nhóm: Cẩm Tú trang 18
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
B.THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nhóm: Cẩm Tú trang 19
Khách hàng:
Cung cấp tài liệu
và thông tin
Thu thập thông
tin qua phỏng
vấn, viếng thăm,
trao đổi
Cập nhật thông

tin thị trường,
chính sách,
khung pháp lý
Nhân viên tín dụng:
- Tiếp xúc, hướng dẫn
- Phóng vấn khách hàng
Lập hồ sơ:
- Giấy đề nghị vay vốn
- Hồ sơ pháp lý
- Phương án, dự án
Hợp đồng tín dụng:
- Đàm phán
- Ký kết HĐ tín dụng
- Ký kết HĐ phụ khác
Tổ chức giám sát:
- Nhân viên kế toán
- Nhân viên tín dụng
- Thanh tra,kiểm soát viên
Kết quả ghi nhận:
Biên bản, báo cáo.
Tờ trình
Giấy tờ về đảm bảo nợ vay
Tổ chức phân tích và
thẩm định:
- Pháp lý
- Bảo đảm nợ vay
Quyết định tín dụng:
- Hội đồng phán quyết
- Cá nhân phán quyết
Giải ngân:

- Chuyển tiền vào tài
khoản khách hàng.
- Trả cho nhà cung cấp.
Chấp thuận
Từ chối
Giấy báo
lýdo
Vi phạm
hợp đồng
Giám sát,
tín dụng
Thu nợ cả gốc và lãi
Đầy đủ và đúng hạn
Thanh lý HĐTD mặc
nhiên
Thanh lý hợp
động tín dụng bắt
buộc
Xử lý:
Tòa án
Cơ quan thẩm
quyền
Không đủ,
không dúng hạn
Không đủ,
không dúng hạn
Biện pháp: cảnh báo, tăng
cường kiểm soát, ngừng giải
ngân, tái xét tín dụng
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu

1.Những ưu thế của tín dụng ngân hàng:
Với những đặc điểm riêng của mình, tín dụng ngân hàng có ưu thế hơn hẳn
các hình thức tín dụng khác trong việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, ổn định tiền tệ, ổn định đời sống
kinh tế xã hội. Ưu điểm thể hịên ở các mặt sau:
- Về phạm vi: Việc cấp tín dụng bằng tiền cho phép tín dụng ngân hàng
vượt ra khỏi phạm vi sản phẩm, hàng hóa của một hoặc một vài ngành nghề
sản xuất kinh doanh nhất định vươn tớ mọi đối tượng thuộc mọi ngành nghề,
mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và tiêu dùng khác nhau trong nền kinh tế. Vì
vậy, tín dụng ngân hàng cho phép thúc đẩy sự phát triển trên diện rộng trong
toàn bộ nền kinh tế.
- Về quy mô: Có thể cung ứng vốn với quy mô lớn hơn rất nhiều so với tín
dụng thương mại. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng đủ để đáp ứng không chỉ cho
nhu cầu duy trì hoạt động của doanh nghiệp.
- Về thời hạn: không bị giới hạn về thời gian, tín dụng ngân hàng cho phép
người đi vay hoạch định và thực hiện các chiến lược tài chính phù hợp với nhu
cầu của doanh nghiệp trong từng giai đọan phát triển nhất định.
2. Thực trạng hoạt động và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với
nền kinh tế- xã hội có những đánh giá cơ bản sau đây:
2.1. Mức cho vay còn thấp so với nhu cầu vốn của các tổ chức, dân cư:
Khi nền kinh tế phát triển và cạnh tranh gây gắt giữa các tổ chức kinh tế và nhu
cầu sống hằng ngày càng cao, đời sống vật chất tinh thần của dân cư ngày càng
phát triển không ngừng đòi hỏi phải có một nguồn tài chính cấp thiết đáp ứng nhu
cầu của họ.
Các doanh nghiệp đa số là doanh nghiệp tư nhân đã có bước phát triển nhưng
qui mô vốn còn quá thấp và chủ yếu dựa vào vốn tự có của chủ doanh nghiệp.
Trong khi đó, nhu cầu về vốn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện đại hóa
công nghệ kinh tế là rất lớn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính.
Nhóm: Cẩm Tú trang 20
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu

Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước Tp.HCM thì tình hình dư nợ cho vay
đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn Tp năm 2001 đạt mức 19.918 tỷ VND chiếm
33,67%, đến năm 2004 tăng lên 64.495 tỷ VND chiếm 47,21% và năm 2005 là
85.154 tỷ VND chiếm tỷ trọng 48,5%; nhưng so với nhu cầu vốn sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn Tp là khoảng 1.100.000 tỷ VND thì quả
chẳng thấm thía gì.
Dù vậy trong các mối quan hệ các tổ chức tài chính và các tổ chức tư nhân,
thường thì các tổ chức tài chính né tránh nhu cầu về vay vốn hoặc đưa ra các điều
kiện khắt khe hơn, các chính sách cứng rắn hơn nhằm từ chối việc tài trợ bởi điều
kiện rủi ro tiềm năng hay quan hệ tín dụng đã hình thành có biểu hiện xấu hoặc
cho vay nhưng hạn chế mức tín dụng. Trong khi đó, đối với các doanh nghiệp mới
thành lập chủ yếu cần một lượng vốn để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị là rất lớn nhất là trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu và qui hoạch thành
khu công nghiệp lại đòi hỏi một lượng vốn trung dài hạn nhất định. Như vậy vai
trò cung ứng vốn cho hoạt động kinh tế tại các tổ chức tín dụng là chưa đảm bảo,
các thành phần cần vốn vẫn đang còn đói vốn trong hoạt động của mình trong khi
các ngân hàng lại thờ ơ đối với nhu cầu vốn của họ.
Còn đối với tầng lớp dân cư, đối tượng của các tổ chức tín dụng rất ít. Người
đáp ứng và tài trợ cho nhu cầu tài chính trang trải nhu cầu đời sống, sinh hoạt tiêu
dùng hay cung ứng nguồn tài chính cấp thiết cho dân cư( đại diện là nông dân) là
các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và ngân hàng chính sách xã hội. Tại đây họ được
vay tín chấp thông qua các hội cụ thể là hội phụ nữ và cựu chiến binh. Thường
thời hạn vay tối đa là một năm và mức nhu cầu vốn rất thấp. Số lượng thành viên
rất nhiều, nhu cầu vốn cũng không được đáp ứng hoặc đáp ứng nhưng rất hạn chế.
2.2. Hình thức cho thuê tài chính có xu hướng mở rộng hơn và phù hợp với sự
phát triển của các doanh nghiệp:
Cho thuê tài chính là một trong những hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp
để mua sắm tài sản cố định, nâng cao năng lực sản xuất, hình thức này đã xuất
hiện từ lâu nhưng chưa được áp dụng phổ biến. Từ khi luật doanh nghiệp ra đời và
Nhóm: Cẩm Tú trang 21

Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
nhất là luật kế toán ra đời hình thức này được sử dụng rộng rãi và có xu hướng
phát triển mạnh.
Do nhu cầu cấp bách về vốn, nn các doanh nghiệp phải g cửa các ngân hàng
thương mại nhưng vì lý do nào đó bị từ chối. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chịu
vay dưới hình thức cho thuê tài chính là chính mặc dù biết lãi suất của hình thức
này cao hơn so với các hình thức vay khác. Tuy nhiên đối với hình thức này lại rất
phù hợp kinh tế của các doanh nghiệp vì thủ tục dễ dàng và không cần tài sản thế
chấp.
Hoạt động này qua các năm càng mở rộng, phù hợp sự hoạt động và phát triển
của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân. Tình hình cho thuê tài chính
của kinh tế tư nhân từ năm 2003 đến năm 2005 về qui mô và tỷ trọng luôn tăng.
Năm 2002 cho thuê tài chính của kinh tế tư nhân là 931 tỷ VND chiếm tỷ trọng
92% trong tổng thuê tài chính thì đến năm 2005 đạt mức là 2.554 tỷ VND chiếm
tỷ trọng 95.1%, sang những tháng đầu năm 2006 hầu như cho thuê tài chính do
kinh tế tư nhân thực hiện, điều này thể hiện sự hồi sinh và sức năng động của kinh
tế tư nhân trong quá trình hoạt động và phát triển.
2.3. Rủi ro tín dụng đang là mối trở ngại lớn đối với kinh tế tư nhân trong các
mối quan hệ với các tổ chức tín dụng:
Nợ quá hạn hay cịn gọi là nợ khó đòi, nợ không thanh toán… nhưng tựu lại là
các khoản tín dụng ngân hàng không được hoàn trả đúng hạn. Nợ quá hạn là vấn
đề tự nhiên, tất yếu, hợp với qui luật phát triển kinh tế, gắn liền với rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Song vấn đề trở nên nghiêm
trọng khi mà mức độ nợ quá hạn vượt quá ngưỡng cửa sự an toàn, vấn đề trở nên
đáng lo ngại của vài năm gần đây là tình hình nợ quá hạn có xu hướng giảm nhưng
lại mang tính phổ biến, hầu hết các ngân hàng thương mại đều có nợ quá hạn và tỷ
trọng nợ quá hạn của kinh tế tư nhân trong tổng nợ quá hạn cảu các ngân hàng
thương mại là rất lớn.
Tính hình nợ quá hạn của ngân hàng thương mại tại TP>HCM năm 2001 là
916 với tỷ lệ3,02% giảm dần tới năm 2004 là 572 tỷ với tỷ lệ 1,33%; trong đó tỷ

Nhóm: Cẩm Tú trang 22
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
trọng nợ quá hạn của kinh tế tư nhân chiếm 53,91% năm 2001 và giảm dần còn
31,58% năm 2004.
Nợ quá hạn xảy ra ở tất cả các ngân hàng và trên mọi thành phần kinh tế, tuy
nhiên tỷ lệ nợ quá hạn đối với từng loại ngân hàng và từng thành phần kinh tế
không giống nhau. Đối với kinh tế tư nhân được tất cả các ngân hàng cho vay,
nhưng nợ quá hạn chủ yếu tập trung vào ngân hàng thương mại nhà nước và ngân
hàng thương mại cổ phần…
3. Nâng cao vai trò tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế cần có các
giải pháp sau:
3.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, tăng cường vai trò của tín dụng
nhằm khuyến khích phát triển các thành phần:
Mọi đối tượng cho vay không được phân biệt hình thức tổ chức để từ đó có
một nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước cần đảm bảo bình đẳng trong
cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thông qua chính sách kinh tế của mình.
Qua hoạt động thực tiễn, các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh đã phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Vì vậy, việc
đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế là rất lớn, là yếu
tố khách quan. Mọi thành phần đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không
được phn biệt đối xử.
Tuy nhiên, bên cạnh việc phân biệt hình thức tổ chức thành phần kinh tế tư
nhân với kinh tế nhà nước…, một trong những khó khăn cản trở lớn nhất đối với
các thành phần kinh tế là thiếu vốn sản xuất kinh doanh trầm trọng. Nhất là trong
nền kinh tế thị trường, giá cả nguyên vật liệu, các chi phí chi tiêu đắt đỏ như hiện
nay thì thật sự là một rào cản thách thức lớn đối với các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp tư nhân. Vốn là yếu tố sống còn của các tổ chức, doanh nghiệp,
trước mắt là vốn trung, dài hạn để đảm bảo đầu tư ban đầu và chuyển dịch cơ sở,
cơ cấu sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cụ thể là doanh nghiệp tư nhân.

Nhóm: Cẩm Tú trang 23
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
Vấn đề khó khăn để đến được nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với các tổ
chức kinh tế là vấn đề làm thế nào để tiếp cận được với các ngân hàng thương mại
trên địa bàn, nguyên nhân chính của khó khăn này là tư duy phân biệt đối xử của
các ngân hàng thương mại. Về mặt nguyên tắc, mức cho vay của các ngân hàng
thương mại phụ thuộc vào mức tổng đầu tư dự án, hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp, nhưng trên thực tế mức cho vay lại phụ thuộc vào giá trị tài sản thế chấp
trong khi giá trị tài sản thế chấp của tư nhân thấp và các khoản vay không đáp ứng
nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghệp. Ngoài ra, còn một số
nguồn vốn ưu đãi khác phần lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp lại càng thêm khóc liệt.
Để cải thiện tình hình trên và góp phần vào việc nâng cao vai trò của tín dụng
ngân hàng đối với các tổ chức kinh tế, xin kiến nghị một số giải pháp như sau:
- Cần xây dựng một chính sách tín dụng bình đẳng, thông thoáng cho mọi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
- Rà soát lại cơ chế cầm cố, thế chấp, thủ tục cấp tín dụng trên cơ sở đó
xây dựng cơ chế hợp lý về cầm cố, thế chấp và thủ tục cấp tín dụng tại các ngân
hàng thương mại, như thủ tục thế chấp tài sản, thủ tục thẩm định dự án vay…để
đảm bảo thời gian không bị chậm trễ làm mất cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư của
các doanh nghiệp…
3.2 Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
trên địa bàn hoạt động:
Vai trò của tín dụng đối với phát triển các tổ chức kinh tế phụ thuộc vào chất
lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, các ngân hàng thương
mại cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của mình trên mọi
phương diện nhất là công tác tín dụng hiện vẫn đang là một trong những hoạt động
chiếm tỷ trọng lớn của các ngân hàng thương mại. Để nâng cao chất lượng hoạt
động của các ngân hàng thương mại, xin đề xuất một số giải pháp:
- Các ngân hàng thương mại cần tìm kiếm các khả năng cho vay an tồn,

thực hiện sự liên kết chặt chẽ giữa ba bên: Nhà cung cấp – doanh nghiệp - Ngân
Nhóm: Cẩm Tú trang 24
Tín dụng ngân hàng GVHD:Nguyễn Từ Nhu
hàng để cùng với doanh nghiệp tìm những dự án có hiệu quả nhằm phòng ngừa và
giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng, xây dựng những qui định cho
vay phù hợp, xác định thời hạn cho vay phải sát với yêu cầu của sản xuất kinh
doanh của từng doanh nghiệp.
- Đa dạng hóa các hình thức cho vay nhằm tăng thêm sự lựa chọn và khả
năng tiếp cận của các doanh nghiệp với tín dụng ngân hàng, trong đó hình thức
cho thuê tài chính là một trong những hình thức đa dạng được các tổ chức kinh tế
sử dụng phổ biến và được xem như là hướng đi thực sự hữu hiệu cho các doanh
nghiệp, nhất là kinh tế tư nhân. Trong điều kiện yếu kém về năng lực tài chính và
công nghệ, bằng dịch vụ thuê tài chính, các doanh nghiệp có cơ hội gia tăng và
nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, không bị đọng vốn vào tài sản cố định
thông qua các nghiệp vụ: bán, tái thuê lại, chuyển nguồn tài sản cố định thành tài
sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án khác có hiệu quả hơn
trong khi vẫn duy trì được hoạt động hiện hành của doanh nghiệp; mặc dù cho
thuê tài chính cũng bị ràng buột bởi những thủ tục nhất định nhưng không bị ràng
buộc bởi việc thế chấp tài sản…
- Để cho thuê tài chính được mở rộng và nâng cao hiêu quả của nó, cần
thực hiện các biện pháp sau:
+ Tăng cường và thiết lập hệ thống cung cấp thông tin nhằm cung cấp đầy đủ
thông tin cho các doanh nghiệp.
+ Cung cấp dịch vụ tư vấn về các điều khoản của hợp đồng thuê tài chính để
các DN lựa chọn nhà cung cấp, công nghệ theo yêu cầu.
+ Đa dạng hóa các hình thức thuê tài chính, đơn giản các thủ tục thuê, sử dụng
và thanh lý hợp đồng.
+ Khơng ngừng nâng cao trình độ quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
ngân hàng, bởi sự yếu kém trong quản lý và nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng dẫn
đến sự lúng túng trong quá trình cung cấp nghiệp vụ tín dụng

Nhóm: Cẩm Tú trang 25

×