MỤC LỤC
Trang
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ****************************** 2
PHẦN I . GIỚI THIỆU ĐĂC TRƯNG VĂN HOÁ VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ******************************* 4
I . phong tục tập quán , tin ngưỡng tôn giáo ************** 4
1 . tập quàn cư trú theo làng mạc *********************** 4
2 . Tín ngưỡng , tôn giáo ****************************** 5
3 . phong tục **************************************** 5
II . Nông nghiệp , làng nghề đặc trưng văn hoá vùng
đồng bằng bắc bộ ********************************* 6
1 . sản xuất nông nghiệp và sự ảnh hưởng của nông
nghiệp đến văn hóa ẩm thực vùng đông băng bắc bộ****** 6
2. các làng nghề truyền thống tiêu biểu****************** 7
III . văn hoá tinh thần ******************************** 15
1 . Dân ca và nghệ thuật biểu diễn dân gian ************** 15
2 . Hội làng nét văn hóa đặc trưng của vùng
đồng bằng bắc bộ********************************* 28
PHẦN II . THỰC TRẠNG DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ****************************** 29
PHẦN III . ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG MỘT LÀNG DU LỊCH
VĂN HOÁ ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC
BỘ TẠI BẮC NINH ********************************* 30
TÌM HIỂU DU LỊCH VĂN HOÁ LÀNG QUÊ VÙNG ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ
1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Hội đồng Lữ Hành và Du lịch quốc tế ( world Travel and Tuorism
council - WTTC ) đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế
giới , vượt qua cả ngành sản xuất ô tô , thép , điện tử . Đối với một số quốc
gia , du lịch là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương .
Tại một số quốc gia khác du lịch la ngành kinh tế hàng đầu .Theo tổ chức du
lịch thế giới (WTO)thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn thế giới là 698
triệu lượt người , thu nhập là 467 tỷ USD ; năm 2002 lượng khách là 716,6
triệu lượt người , thu nhập là 474 tỷ USD ; dự tính đến năm 2010 lượng khác
là 1006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD .Có thể nói du lịch là một hiện
tượng kinh tế xã hội phổ biến .
Tại Việt Nam những năm qua sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thanh
tựu quan trọng . Đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế , sự ổn định về chính
trị , văn hoá xã hội có những tiến bộ quan trọng . Đây chính là điều kiện , và
là nền tảng vững chắc cho du lịch Việt Nam phát triển trong tương lai gần
.Đảng và nhà nước đã xác định ' Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và có tính
xã hội hoá cao ; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , giải
trí , nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế , góp phần nâng cao
dân trí , tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước " (trích pháp
lệnh du lịch , 2/1999 ) và "phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn…" (trích văn kiện Đại hội Đảng khoá IX ).
Trong điều kiện hiện nay với sự phát triển vượt bậc về kinh tế và sự bùng
nổ về thông tin liên lạc đã làm cho quá trình toàn cầu hoá diễn ra hết sức
mạnh mẽ . Nhu cầu về nghỉ ngơi , giải trí , giao lưu học hỏi , tìm hiểu về văn
hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng một cách rất nhanh chóng
2
đây là điều kiện rất tốt cho việc phát triển du lịch và du lịch văn hoá là một
bộ phận không thể thiếu Như chúng ta đã biết Việt Nam có một điều kiện tự
nhiên tương đối phù hợp với phát triển du lịch . Nhưng ngay lúc này chúng
ta khó có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và quốc thế về các loại
hình du lịch nghỉ dưỡng , vui chơi , giải trí do các nước đó đã có một quá
trình phát triển lâu dài và có một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật rất phát
triển như Thái Lan , Singapore , Malaixia ... phát triển du lịch văn hoá sẽ
mở ra cho chúng ta một hương đi mới để có thể cạnh tranh với nước ngoài .
Việt Nam có ít những công trình vĩ đại do con người xây dựng lên , nhưng
thay vào đó chúng ta lại có một nền văn hoá lâu đời mà không phải nước nào
cũng có . Trải dài suốt từ bắc xuống nam ở đâu cũng xuất hiện những làng
nghề thủ công nổi tiếng , những đặc sản quê hương của từng vùng và những
hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc . Như là Chèo , Ca trù ,
Quan họ , Cải lương , Tuồng từ lâu đã trở lên nổi tiêng không chỉ ở trong
nước mà còn được rất nhiều bạn bè quốc tế mến mộ . Đặc biẹt là Nhã Nhạc
Cung Đình Huế và không gian văn hoá cồng chiêng tây nguyên đã được tổ
chức UNESSCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới .
Vùng đồng bằng bắc bộ là vùng có nhiều điều kiện để phát triển du lich
văn hoá . Thứ nhất vị trí địa lý gồm các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
saông Thái Bình , tại đây có trung tâm văn hoá chính trị là Hà nội . thứ hai là
vùng đồng bằng bắc bộ có một lịch sử phát triển lâu đời và mang đậm nét
văn hoá Việt . Đặc biệt ở đây có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian từ lâu
đã trở lên nổi tiếng không những ở trong nước mà còn được nhiều bạn bè
quốc tế hết sức mến mộ như : Dân ca Quan họ , Hát Chèo , Múa rối nước ,
Ca trù … đây là điều kiện thuận lợi cho vùng đồng bằng bắc bộ phát triển
loại hình du lịch văn hóa . Chính vì vậy em quyết định chịn đề tài “du lịch
3
văn hóa làng quê vùng đồng bằng bắc bộ ” làm đề án môn học Kinh Tế Du
Lịch của mình .
PHẦN I . GIỚI THIỆU ĐĂC TRƯNG VĂN HOÁ VÙNG ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ
Việt Nam là đất nước có lịch sử lâu đời , văn hoá Việt rất đa dạng và
phông phù theo từng miền vùng khac nhau có sự khác nhau về văn hoá . Mỗi
vùng có những đặc trưng riêng , vùng đồng băng bắc bộ là vùng co truyền
thống văn hoá đăc sắc lâu đời và mang đậm nét của văn hoá Việt . Sau đây
ta điểm qua một số nét đặc trưng của văn hoá vùng đồng bằng bắc bộ .
I . phong tục tập quán , tin ngưỡng tôn giáo
1 . tập quàn cư trú theo làng mạc
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một thuộc vùng văn minh lúa nước
Đông Nam Á . Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu và vùng đồng bằng bắc bộ
cũng mang đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp .
Do cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên làm cho mọi người phải đoàn
kết lại , cùng nhau chia sẻ , cùng giup đỡ nhau chống chọi lại thiên nhiên .
Chính vì vậy tập quán cư trú theo làng mạc được hình thành , đây là nguồn
gốc hình thành lên tính cach của người Việt nói chung và người vùng bắc bộ
nói riêng . Làng ở vùng bắc bộ được hình thành từ nhiều cách tổ chức khác
nhau dựa trên cơ sở quan hệ gia đình , thị tộc , địa bàn cư trú , theo nghề
nghiệp . Chính do đặc điểm hình thành như vậy nên làng vùng bắc bộ có tính
tự trị rất cao . Khi đến một làng vùng bắc bộ điều đầu tiên mà chúng ta
thường bắt gặp đó là những luỹ tre bao quanh làng . Nó thể hiện sự tách bạch
giữa các làng với nhau . Mỗi làng đều có hương ước luật lệ riêng . Dân gian
ta có câu : “ phép vua thua lệ làng ’’ . Nhưng tính tự trị đó lại được xuất phát
từ tính cộng đồng , đặc trưng văn hoá nổi bật của người Việt . Trong một
làng mọi người sống hoà đồng , yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở dân
4
chủ , bình đẳng . Các hoạt động cộng đồng diễn ra thường xuyên đặc biệt hội
làng , đây là nét tiêu biểu của làng quê Việt Nam . Biểu tượng cho tính cộng
đồng là cây đa , bến nước , sân đình . Nhưng trung tâm văn hoá của một làng
quê .
2 . Tín ngưỡng , tôn giáo
Đời sống tín ngưỡng , tôn giáo ccủa vùng đồng băng bắc bộ rất đa dạng
và phong phú . Ngoài những tín ngưỡng truyền thống ra nó còn có sự giao
lưu ảnh hưởng của tìn ngưỡng , tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào như
nho , phật , đạo , kito giáo nhưng gây được sự ảnh hưởng nhiều nhất lên đời
sống văn hoá tinh thầnccủa người dân vùng đồng bằng bắc bộ đó chính là
phật giáo và nho giáo . Trung tâm tín ngưỡng ở mỗi làng đó chính là ngôi
chùa làng . “ Trước thờ phật sau thờ thần ” , Ở chùa không chỉ thờ phật mà
do sự đa dạng của tín ngưỡng người ta còn thờ các vị thần có ảnh hưởng lớn
đến đời sống thường ngày , những người có công lao lớn với làng , với đất
nước.
3 . phong tục
Gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo đó là những phong tục . Đó là những
thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời , được đại đa só mọi người
thừa nhận và làm theo . Vùng đồng bắc bộ có những phong tục hết sức đặc
biệt và đa dạng , đặc biệt là hệ thống những lễ hội và lễ tết .
Do cuộc sống sản xuât nông nghiệp rất vả và có tính thời vụ cao cho nên
vào những lúc nông nhàn người dân tự thưởng cho mình những ngày vui
chơi , vì thế các ngày lễ tết , lễ hội diễn ra tương đối nhiều trong một năm .
Trong một năm có nhiều ngày lễ tết gồm những ngày lễ cúng tổ tiên và
những khoảng trống theo lịch thời vụ như : tết nguyên tiêu (rằm tháng
riêng ) , tết hàn thực ( 3/3 âm lịch ) , tết đoan ngọ ( 5/5 âm lịch ) , tết ông
công , ông táo ( 23 tháng chạp ) ... nhưng quan trọng nhất là tết Nguyên
5
Đán . Nó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của người Việt . Ngày
này có sự sum họp của gia đình , gia tiên , gia thần . Con cháu dù đi làm ăn ở
đâu ngày têt cũng cố gắng về ăn tết cùng gia đình . Hương hồn ông bà tổ tiên
các thế hệ cũng về gặp mặt , các thần chăm lo đến gia đình cũng được chăm
lo cúng bái .
Ngoài lễ tết ra thì một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần là
lễ hội . Vùng đồng bằng bắc bộ là vùng có nhiều ngày hội đặc sắc giầu
truyền thống nhất cả nước . Làng nào mỗi năm cũng tổ chức hội làng trước
tiên là tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình , sau đó là
phần hội hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú . Nhiều lễ hội đã
trở lên nổi trên cả nước như hội Lim ( Bắc Ninh ) , Hội Gióng ( Hà Nội )
Hội chùa Hương ( Hà Tây ) …
II . Nông nghiệp , làng nghề đặc trưng văn hoá vùng đồng bằng bắc
bộ
1 . sản xuất nông nghiệp và sự ảnh hưởng của nông nghiệp đến văn
hóa ẩm thực vùng đông băng bắc bộ
Người xưa có câu : “ con trâu là đầu cơ nghiệp ” điều này cho ta thấy
được nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Việt
nam nói chung và vùng bắc bộ nói riêng . Cũng như các vùng khác nông dân
vùng bắc bộ chủ yếu trồng lúa , nhưng khác với miền nam , sau khi làm đất
thì gieo xạ và trồng mỗi năm ba vụ . Nông dân vùng bắc bộ cấy lúa rất vất
vả trải qua nhiều công đoạn hết sức mệt nhọc . Mỗi năm chỉ trồng từ một
đến hai vụ lua tuỳ . Ngoài trồng lúa ra do có mùa đông lạnh nên còn trồng
thêm hoa mầu vụ đông . Mùa nào thức ấy sản xuất theo mô hình tự cung tự
cấp . Đây là nền kinh tế đặc trưng của vùng làng quê vùng đồng bằng bắc
bộ.
6
Chính vì gốc nông nghiệp nên văn hóa ẩm thực của dân cư đồng bằng
bắc bộ cũng mang đậm nét nông nghiệp , Các món ăn chủ yếu được chế biến
từ thực vật , củ yếu là từ gạo . Từ hạt gạo người nông dân vùng bắc bộ đã
làm gia nhiều món đặc sản rất ngon và được du khách nước ngoài rất ưa
chuộng như là : phở , bún , mì , miến đặc biệt là các loại bánh là bánh phu
thê , bánh cốm ,bánh đa , bánh cuốn …
Ngoài trồng trọt ra thì chăn nuôi cũng là một phần quan trọng của người
nông dân vùng đồng bằng bắc bộ . Được thiên nhiên ưu đãi nông dân vùng
đồng bằng bắc bộ chăn nuôi nhiều loại gia súc , gia cầm và các loại thủy
sane nước ngọt như là : Trâu , Bò , Lợn , Gà , các loại cá nước ngọt …
Những yếu tố của sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa
ẩm thực của vùng đồng bằng bắc bộ . Các món ăn thường là sự kết hợp của
nhiều sản phẩn từ nông nghiệp , các gia vị rất đậm đà tạo hương vị rất đặc
biệt mang hồn đất Việt . Quảng bá văn hóa ẩm thực là một phần quan trọng
trong việc giới thiệu với bạn bè quốc tế về hình ảnh đất nước con người Việt
Nam .
2. các làng nghề truyền thống tiêu biểu
a . làng gốm BÁT TRÀNG (Hà Nội )
Việt Nam là nước có nghề làm gốm từ rất sớm , theo các tư liệu lịch sử
thì gốm đã xuất hiện ở nước ta cách đây khoảng một vạn năm . Trên toàn
quốc có rất nhiều làng sản xuât gốm truyền thống , mỗi làng có kỹ thuật làm
gốm khác nhau tạo ra nhiều dòng sản phẩm gốm hết sức đa dạng và phong
phú . Và nhắc đến gốm Việt thì không thể không nhắc đến Bát Tràng.
Bát Tràng là một xã gồm hai thôn là Bát Tràng và Giang Cao . Hiện nay Bát
Tràng thuộc huyện Gia Lâm , Hà Nội . Nằm trên tả ngạn sông Hồng , cách
trung tâm thủ đô khoảng 13km về phía đông nam . Bát Tràng rất thuận tiên
cho việc thông thương với các vùng miền khác .
7
Bát Tràng có một lịch sử hình thành từ rất lâu đời . Theo các tài liệu lịch
sử còn giữ lại thì Bát tràng đượcc hình thành vào khoảng thế kỷ XIV - XV .
Còn theo tư liệu thu thập được từ Bát Tràng thì làng nghề được hình thành
từ sớm hơn . Nhưng theo tư liệu dân gian thì Bát Tràng được hình thành từ
thời Lý , vào khoảng đầu thế kỷ thứ XII .
Cuối thời Trần ( XIV ) , đầu thời Lê (TK XV) Bát Tràng từ một làng gốm
bình thường trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng ở nước ta . Sản phẩm
gốm của Bát Tràng được triều đình chọn làm đồ cúng phẩm cho nhà Minh
( Trung Quốc) .
Từ TK XV - XVII do việc thông thương với nước ngoài phát triển , gốm
Bát Tràng được buôn bán với số lượng lớn không chỉ ở các nước Đông Nam
Á mà cả thị trường Châu Âu như là : Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha , Pháp , Hà
Lan . Đặc biệt Nhật Bản là nước rất ưa chuộng đồ gốm Bát Tràng . Nhiều
nghệ nhân gốm Nhật Bản đã bắt trước phong cách tạo hinh , nét vẽ phóng
khoáng , mầu men đa dạng , mộc mạc , giản di mà sâu lắng của gốm Bát
Tràng .
Cuối thế kỷ XVII , sang thế kỷ XVIII việc buôn bán gốm ra nước ngoài
có phần bị giảm sút do đồ gốm của Trung Quốc tràn sang các nước Đông
Nam Á . Nhưng gốm Bát Tràng vẫn giữ được sức sống bền bỉ của mình do
thị trường trong nước được mở rộng . TK XVII - XIX tuy xuất khẩu có giảm
sút nhưng Bát Tràng vẫn là một trung tâm gốm lớn ở trong nước .
Sau khi chiến tranh kết thúc Bát Tràng lại bắt tay vào xây dựng lại những
xưởng sản xuất gốm , kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện . Do tình hình kinh tế thay đổi các xí nghiệp gốm lần lượt giải thể , thay
vào đó là sự xuất hiện của các công ty TNHN . Nhưng cũng như biết bao
làng nghề truyền thống của nước ta , trải qua nhiều sự thăng trầm của làng
nghề , đặc biệt là hai cuộc kháng chiến trường kỳ đã làm cho một số kỹ thuật
làm gốm cổ truyền bị mai một . Một số mầu men quy đến nay đã thất
8
truyền . Điều này đòi hỏi các nghệ nhân nơi đây phải có những nghiên cứu ,
tìm tòi nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống mà cha ông ta
để lại .
Điều làm cho gốm Bát Tràng trở lên nổi tiếng và có sức sống bền bỉ
cho đến ngày nay chính là do nghệ thuật làm gốm đặc sắc và có giá trị nghệ
thuật cao của Bất Tràng .
( sản phẩm gốm Bát Tràng )
(Trang trí hoạ tiết một trong những khâu sản xuất gốm quan trọng )
9
( Ngày càng có đông đảo du khách quốc tế đến với Bát Trang )
Nghệ thuật trang trí của gốm Bát Tràng rất độc đáo không mô phỏng lại
gốm sứ Trung Hoa hoặc bất cứ nước nào khác . Đặc biêt người Bát Tràng đã
chế ra các loại men rất được bạn bè quốc tế ưa chuộng như là : men xanh ,
xanh lục , xanh lá ma , nâu , nâu sáng , xanh nước biển . Nhiều nghệ nhân
Nhật Bản đã học cách làm gốm theo phong cách của gốm Bát Tràng .
Vấn đề đặt ra cho nhân dân Bát Tràng là làm thế nào để giữ gìn và phát
huy những gia tri truyền thống của cha ông sao cho xứng đáng với tầm vóc
là một trung tâm gốm sứ của Việt Nam và và vuơn tới tầm thế giới . Và kết
hợp sản xuất với du lịch làng nghề là một giải pháp rát hữu hiệu trong điều
kiện hiện nay .
b . Làng tranh ĐÔNG HỒ ( Bắc Ninh )
Trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng của vùng đồng bằng bắc
bộ nói riêng ,và cả nước nói chung thì không thể không nhắc đến làng tranh
Đông Hồ .Đông Hồ tên một ngôi làng quen thuộc , xinh xắn ,nằm bên bờ
sông Đuống từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam
bằng những bức tranh dân gian đậm đà bản sắc dân tộc .
Ngày xưa ,Làng Mái là tên gọi của làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành _
Bắc Ninh ) bây giờ . Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không
ai biết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết có năm loại tranh là : tranh
10
thờ , tranh lịch sử , tranh chúc tụng , tranh sinh hoạt và chuyện tranh . Từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời kỳ hưng thịnh của làng tranh . Lúc ấy
làng có 17 dòng họ thì cả thảy đều làm tranh . Đến hẹn lại lên cứ vào
khoảng tháng 7 tháng 8 âm lịch hàng năm thì cả làng lại tất bật chuẩn bị cho
mùa tranh tết .Khắp làng rực rỡ sắc giấy điệp , không một mảnh đất trống
nào là không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy , từ sân nhà ,
sân đình , đường làng , triền đê , mái nhà , nóc bếp . Cả làng nhộn nhịp suốt
mấy tháng liền .
Mỗi năm chợ tranh chỉ nhộn nhịp tấp nập nhất vào tháng trạp , họp 5
phiên vào các ngày 6 , 11 , 16 , 21 và 26 . Bà con , du khách đổ về mua tranh
tấp nập . Hàng nghìn , hàng triệu bức tranh được mang ra bày bán cho lái
buôn , cho khách mua lẻ , mọi người mua tranh về treo ngày tết cầu mong
vinh hoa phú quý về cho nhà mình .Sau phiên chợ cuối ( 26/12 âm lịch) nhà
nào còn tranh đều xếp lại cất đi chờ mùa tranh năm sau lại đem ra bán . Đến
chợ tranh không chỉ có khách buôn tranh và mua tranh mà còn rất nhiều du
khách do yêu thích nghệ thuật tranh dân gian đến để được thăm thú làng
tranh và đi chảy hội xuân . Đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của làng tranh .
Trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ đầy ác liệt làng
tranh cũng phải hứng chịu cảnh bom dơi đạn lạc . Nhiều bản in đã bị thất lạc.
Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập cả nước bắt tay vào xây dựng lại đất
nước theo con đường XHCN . Nhiều nhà bắt đầu sản xuất tranh , nhưng sau
thời gian đổi mơi toàn diện về kinh tế và do thị hiếu thưởng thức nghệ thuật
thay đổi tranh Đông Hồ không còn được ưa chuông như xưa nữa . Nhiều gia
đình đã thôi không sản xuất tranh nưa . Kể từ đó lang tranh ngày bị mai một
dần , nhiều hộ đã chuyển sang lam nghề hàng mã . Nghề tranh tồn tại yếu
ớt , chỉ còn lại một số gia đình còn bám trụ lại với nghề . Đến nay bằng lòng
yêu nghề , ý thức giữ gìn các giá trị truyền thống cha ông đã để lại một số
11
nghệ nhân làng tranh đã không ngừng tìm tòi , nghiên cứu phục hưng lại
làng nghề . Có nghệ nhân vẫn còn giữ được bản in đã được truyền đến đời
thứ tám . Với sự giữ gìn và có nhiều sáng tạo mới tranh dân gian Đông Hồ
đã và đang chiếm được sựquan tâm và yêu mến của đông đảo bạn bè , du
khách trong và ngoài nước .
Khác với các dòng tranh khác . Bằng cảm hứng của mình kết hợp với
cây bút vẽ người hoạ sỹ sẽ tạo lên những bức tranh theo ý mình . Tranh
Đông Hồ dùng ván để in , thoạt nghe thì có người đã nghĩ rằng tranh đông
hồ sẽ cứng nhắc và rất sơ sài . Nhưng bằng kỹ thuật điêu khắc tinh sảo , với
lòng yêu nghề , các nghệ nhân làng tranh đã tạo lên những bản khắc man
tính thẩm mỹ cao và mang đậm chất văn hoá Việt .
Sau khi in thành tranh , kể cả khi tranh khô ,người xem vẫn cảm nhận
được vẻ tươi tắn của tranh như lúc vẫn còn ướt . . . Do những nguyên liệu
làm tranh thường được lấy từ tự nhiên : Mầu đen được lấy bằng cách đốt lá
tre rồi lấy thàn của nó ,mầu xanh lấy từ vỏ và lá tram , mầu vàng lấy từ hoa
hoè ,mầu đỏ thắm lấy từ thân và lá của cây vang , mầu sơn lấy từ sỏi núi ,
mầu trắng lấy từ điệp …Ngoài ra nghệ thuật khắc tranh cũng hết sức đặc biệt
. Những nghệ sỹ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính bố cục ước lệ trong
cách miêu tả cũng như trong phối mầu . Tất cả đều theo lối vẽ đơn tuyến
bình đồ để thể hiện do đó khi xem tranh người xem cảm nhận được những
nét ngây ngô nhưng rất hài hoà . Khi đã có bản khắc và mầu người thợ còn
phải rất công phu tiến hành các khâu như là : Phết hồ len giấy rồi phơi cho
kho hồ , sau đó tiếp tục phết diệp rồi lại phơi khô . Khi in mầu cũng phải rất
cẩn thận in từng mầu một , nếu bức tranh có 5 mầu thì phải lần lượt in và
phơi 5 lần . Cứ như thế dưới ánh sáng mặt trời từng hình ảnh , đường nét
cảnh sắc thiên nhiên , cảnh sinh hoạt đời thường của nhân dân được miêu tả
một cách sinh động trên giấy điệp .
12
Hứng Dừa Đánh Ghen
Thi sĩ Hoàng Cầm đã từng viết :
" Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Mầu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp "
Ngoài nghệ thuật làm tranh đặc sắc ra , điều mà làm cho tranh Đông Hồ trở
lên gần gũi với bao thế hệ người Việt và bạn bè quốc tế chính là nội dung
của những bức tranh . Tranh Đông Hồ phản ánh đậm nét đời sống mộc mạc ,
dản dị , gần gũi gắn liền với đời sống văn hoá tinh thần người Việt như là : "
Hứng Dừa , Đánh Ghen , Gà Trống , Lợn Độc … Qua bức tranh người xem
còn có thể biết về nghệ thuật sử dụng mầu sắc của truyền thống trong đời
sống văn hoá của cha ông ta . Theo nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế giải thích
về việc dùng các mầu sắc cho hài hoà , phù hợp với những đề tài khác nhau :
Mầu đỏ trong bức Đánh Ghen để lột tả cái nóng giận , bực giọng cuẩ không
khí lúc đó ,mầu vàng dùng cho việc mô tả cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân
trong bức tranh ngày tết ,nền mầu hồng nhạt cho tranh tả cảnh bình yên làng
quê .Đôi khi các nghệ nhân còn dùng thêm các những chỉ dẫn hoặc các tứ
thơ tình tứ , lãng mạng để trang trí các bức tranh thêm phần sinh động và ý
nghĩa như bức Hứng Dừa là :
"Trong như ngọc trắng như ngà
Đây chèo đấy hái cho vừa lòng nhau "
13