Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Giáo trình cây hoa - Chương 4 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.05 KB, 14 trang )

Phần II
CHUYÊN KHOA
Chương IV
KỸ THUẬT TRỒNG HOA HỒNG

Hoa hồng là một trong những loài hoa được ưa chuộng nhất trên thế giới. Hoa hồng
to, màu sắc đẹp mắt, hương thơm dịu dàng và được xem là "Hoàng hậu của các loài
hoa". Nó tiêu biểu cho hoà bình, tuổi trẻ, là hoa của tình yêu, tình hữu nghị, niềm vui và
sự tốt lành.
Các nước sản xuất hoa hồng chính là Hà Lan, Mỹ, Côlômbia, Nhật, Israen, trong đó
Hà Lan là nước trồ
ng và xuất khẩu hoa hồng lớn nhất thế giới. Mỹ là nước trồng hoa
hồng nhiều nhưng nhập khẩu cũng nhiều. Năm 1996 Mỹ sản xuất 3,5 tỷ cành và nhập
khẩu 8,3 tỷ bông. Trung Quốc bắt đầu sản xuất hoa hồng từ những năm 50 của thế kỷ
20. Hiện nay Quảng Đông là tỉnh trồng nhiều hoa hồng nhất, hàng năm sản xuất 2 tỷ
96
triệu bông, sau đó là các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Hồ Bắc trong đó hoa có chất lượng
cao nhất là hoa hồng trồng ở Vân Nam. Đây cũng là vùng thích hợp với hoa hồng vì
vùng này có vĩ độ thấp, độ cao lớn, bốn mùa mát mê, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm
nhỏ, ánh sáng đầy đủ rất phù hợp với yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây hoa hồng.
Cây hoa hồng là loại hoa được trồng phổ biế
n nhất ở nước ta hiện nay và đang có xu
thế phát triển mạnh, là một trong những loại cây đem lại hiệu quả kinh tế khá cao trong
nghề sản xuất hoa. Hoa hồng giờ đây không chỉ phục vụ cho tiêu dùng nội địa mà còn
xuất khẩu sang Trung quốc. Hoa hồng Việt Nam là tuy số lượng cành nhiều nhưng chất
lượng chưa đảm bảo, tỷ lệ cành đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (cành dài > 70 cm, đường kính
cành > 0,6 cm) còn ở mức thấp. Nguyên nhân cơ bản là kỹ thuật trồng hoa hồng của
chúng ta hiện nay còn dựa vào kinh nghiệm và theo tập quán canh tác cũ, chưa được áp
dụng và tiếp thu các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào trong sản xuất dãn đến năng suất
và chất lượng chưa cao. Đồng thời các giống mới đưa vào sản xuất chưa nhiều nên chất
lượng hoa chưa đạt yêu cầu thương phẩm cao. Hiện nay có m


ột số vùng trồng nhiều
hồng: Mê Linh (Vĩnh Phúc), Đà lạt (Lâm Đồng), Sa Pa (Lào Cai)
4.1. CÁC GIỐNG HỒNG PHỔ BIẾN TRONG SẢN XUẤT
Trên thế giới hiện nay có tới trên 20.000 giống hồng, giá trị thương phẩm của các
giống hoa hồng chủ yếu là ở màu sắc hoa. Màu sắc hoa không những quyết định đến
hiệu quả kinh tế mà còn liên quan đến quá trình sản xuất. Hiện nay ở nước ta có một số
gióng tr
ồng phổ biến trong sản xuất sau:
Giống đỏ nhung:
Đây là giống có nguồn gốc nhập nội từ Pháp năm 1991, là giống có khả năng thích
nghi với điều kiện khí hậu miền Bắc nước ta và được trồng rộng rãi với khoảng 80%
diện tích các vùng trồng hồng trong nước. Tuỳ theo hình thức nhân giống, khả năng
chăm sóc mà cây có thể mà cây có thể cao từ 1-1,1 m, đường kính thân cây to, mức độ
phân cành theo hướng ngang, bộ tán tương đối rộng và dày. Thân thẳng màu xanh, mỗi
đốt có khoả
ng 2- 3 gai lớn, hơi cong và còn nhiều gai nhỏ phân bố xung quanh thân và
tập chung nhiều ở cuống hoa. Lá dạng thuôn tròn màu xanh đậm, răng cưa thưa và
nông. Hoa có màu đỏ nhung, dạng hoa kép xếp nhiều vòng, đường kính hoa từ 6,5- 7,5
cm. Chiều dài cành mang hoa từ 25- 27 cm. Hoa ít, thường ra từng bông, ít khi thấy ra
chùm. Hiện nay, giống hồng này đang chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giá bán cao nhất,
là giống chủ lực của người trồng hoa.
Giống hồng đỏ Ý
Có nguồn gốc l
ừ Italia, nhập nội vào Việt Nam năm 1994, thích hợp với các vùng
khí hậu lạnh Sapa, Đà Lạt. Hoa to, màu đỏ tươi, được nhiều người ưa thích. Giống này
trồng ở các vùng có khí hậu nóng thường sinh trưởng yếu, cây nhiều sâu bệnh.
Giống phấn hồng
Có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nhập về Việt Nam năm 1998. Cây cao từ 1,2-
1,4 m, đường kính thân cây bé, khả năng phân cành kém theo hướng ngọn và rất ít cành
tăm. Các cành thường phát tri

ển mạnh về chiều cao và đều cho hoa, cây có bộ tán hẹp
và thưa, thân tròn nhẵn màu xanh nhạt, đất dài rất ít gai, mỗi đất mang 1-2 gai, có khi
không có gai. Lá thuôn dài màu xanh đậm, răng cưa thưa và nông. Hoa có màu hồng
phấn, đường kính hoa từ 6-7 cm. Hoa kép, số cánh ít, chiều dài cành mang hoa từ 28-
30 cm.
Giống trắng sứ
Có nguồn gốc từ Mỹ và có khả năng thích nghi rộng nên có thể trồng ở nhiều vùng
khí hậu khác nhau. Cây cao khoảng 55-56 cm, khả năng phân cành rất mạnh và theo
hướng ngang, có nhi
ều cành tăm, thường những cành này không mang hoa, ngắn nhỏ có
nhiều gai nhọn làm cho cây có bộ tán rộng và dày. Những cành mang hoa có rất nhiều
gai. Lá thuôn dài màu vàng, răng cưa thưa và nông. Hoa màu trắng vàng nhạt, đường
kính hoa từ 6-6,5 cm; hoa kép, nhiều cánh xếp sít nhau chiều dài cành mang hoa từ 21 -
23 cm.
Giống cá vàng
Cây cao từ 55- 56 cm, đường kính cây bé, khả năng phát triển mạnh. Cây có bộ tán
rộng và dày, mỗi đất có 2-3 gai lớn, đầu gai có màu nâu nhạt, tập chung ở một phía của
mỗi đất, ngoài ra còn có rất nhiều gai nh
ỏ tập trung ở cuống hoa. Lá thuôn tròn màu
xanh, răng cưa thưa và nông, ở phần đỉnh lá, răng cưa dày và sâu hơn. Hoa có màu vàng
hồng, đường kính hoa từ 6- 6,5 cm; hoa kép, nhiều cánh xếp sít. Chiều dài cành mang
hoa từ 21- 23 cm.
Giống hồng quế
Cây cao to, hoa có màu hồng, đường kính hoa từ 4- 4,5 cm. Hoa nhiều nhưng số
cánh trên hoa ít, chóng tàn. Thân thẳng màu xanh đậm. Mỗi đốt mang từ 1- 3 gai. Lá
thuôn dài, răng cưa sâu.
Giống trắng xanh
Thân thấp, có màu xanh, mỗi đốt mang 2- 4 gai lớn hơi cong tập trung ở một phía
của mỗi đốt. Lá dạng thuôn dài, răng cưa sâu và dày hơn ở phận đỉnh lá. Hoa có màu
trắng nhạt, đường kính hoa 6- 6,5 cm. Hoa kép dày, cánh nhiều, xếp sít.

Giống hồng vàng
Thân thẳ
ng có màu xanh nhạt, mỗi đốt mang 2- 4 gai lớn cong. Lá dài, răng cưa
nông. Cuống lá, gân lá, mép lá có màu hơn tím. Cành nhánh phát sinh nhiều nụ có khi
vươn dài, hoa có màu vàng nhạt, đường kính hoa 5,5- 6 cm, số cánh có rất nhiễu xếp sít
chặt nhau.
Gần đây một số vùng trồng hoa ngoại thành Hà Nội như Tây Tựu, Quảng An, Nhật
Tân đã nhập nội và trồng thử nhiều giống hồng từ các nước, nhìn chung các giống
hồng châu Âu cây cao, hoa to, cành lá xum xuê và có nhiều màu sắc (trắng, đỏ, vàng,
hồng…). Nh
ưng các giống này sau một vài vụ thấy có hiện tượng bị thoái hoá nhanh,
cành nhỏ, hoa bé và dễ bị sâu bệnh. Các giống từ châu Á tỏ ra thích nghi với điều kiện
khí hậu Việt Nam hơn. Các giống có cây to, hoa đẹp, lâu tàn chủ yếu là các giống có
hoa màu đỏ và hồng.
4.2. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT HỌC
- Rễ: hồng thuộc loại rễ chùm, chiều ngang tương đối rộng, khi bộ rễ lớn phát sinh
nhiều rễ ph
ụ.
- Thân hồng thuộc loại nhóm cây thân gỗ, cây bụi thấp có nhiều cành và gai cong.
- Lá: lá hoa hồng là lá kép lông chim, mọc cách, ở cuống lá có lá kèm nhẵn, mỗi lá
kép có 3-5 hay 7-9 lá chét, xung quanh lá chét có nhiều răng cưa nhỏ. Tuỳ giống mà lá
có màu sắc xanh đậm hay xanh nhạt, răng cưa nông hay sâu, hay có hình dạng lá khác.
- Hoa: có nhiều màu sắc và kích thước khác nhau. Cụm hoa chủ yếu có 1 hoa hoặc
tập hợp hoa trên cuống dài, cứng, có gai. Hoa hồng thuộc loại hoa lưỡng tính, nhị đực
và nhị cái trên cùng 1 hoa, các nhị đực dính vào nhau bao xung quanh vòi nhụ
y. Khi
phấn chín rơi trên đầu nhụy nên có thể tự thụ phấn, đài hoa có màu xanh.
- Quả: quả hình trái xoan có các cánh đài còn lại.
- Hạt: hạt hồng nhỏ có lông, khả năng nảy mầm của hạt rất kém do có lớp vỏ dày
4.3. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH

4.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong những nhân tố quan trọng với hoa hồng, cây hoa hồng ưa khí
hậu ôn hoà. Nhiệt độ thích hợp cho hồng sinh trưởng và phát triển tốt là từ 18-25
0
C.
Nhiệt độ trên 35
0
C Và dưới 18
0
C đều ảnh hưởng tới cây. Nhiệt độ bao gồm các yếu
tố: nhiệt độ ngày, đêm; chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và nhiệt độ đất. Nhiệt độ ảnh
hưởng đến quang hợp, hô háp, sự tạo thành Prôtêin, axit amin và cuối cùng là ảnh
hưởng tới hiệu quả sản xuất.
Nhiệt độ ngày: nhiệt độ tối thích tuỳ theo giống, nói chung từ 23 - 25
0
C, cũng có
một số giống nhiệt độ tối thích là 21 - 23
0
C. Nhiệt độ cao quá ảnh hưởng đến sự kéo dài
của cành, khi nhiệt độ trung bình ngày vượt quá 24
0
C. Cành thường ngắn hơn 35 cm.
Nhiệt độ ngày cũng ảnh hưởng tới sản lượng. Nhiệt độ từ 26 - 27
0
C sản lượng cao hơn
ở 29 - 32
0
C là 49%, hoa thương phẩm cao hơn 20,8%.
Nhiệt độ đêm: nhiệt độ đêm quan trọng hơn nhiệt độ ngày. Các giống Sonia,
Samansa Vance khi nhiệt độ đêm cao, hoa nhiều, số ngày đến kỳ ra hoa giảm, độ dài

cành ít chịu ảnh hưởng. Nhưng các giống Chuli, Malina khi nhiệt độ đêm cao thời gian
phát dục rút ngắn, độ dài cành giảm, số lượng cành hoa ít. Đa số các giống thích hợp
với nhiệt độ đêm là 16
0
C, vì nhiệt độ này có ảnh hưởng tốt đến số lượng và chất lượng
hoa. Thấp hơn nhiệt độ tối thích cây sinh trưởng chậm, sản lượng thấp nhưng chất
lượng hoa cao, cao hơn nhiệt độ tối thích thú sinh trưởng nhanh, sản lượng cao nhưng
chất lượng hoa kém. Chính vì vậy ở các cùng núi cao: Sapa, Tam Đảo, Đà Lạt… có
nhiệt độ ban đêm thấp 16- 18
0
C nên hoa rất đẹp và có giá trị.
Nhiệt độ đất làm tăng nhiệt độ đất thì sức sống của rễ cao, tăng năng suất và chất
lượng hoa. Nhiệt độ đất trên 21
0
C thì dù nhiệt độ không khí chỉ 5 - 8
0
C vẫn có hoa chất
lượng cao.
Chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm: ngày trời quang nhiệt độ ban ngày cao hơn ban
đêm 5 - 8
0
C có lợi cho sự tạo thành và sự dự trữ dinh dưỡng. Khi nhiệt độ tới 30
0
C thì
quang hợp ngừng. Những ngày nhiều mây ánh sáng yếu, nhiệt độ thấp, quang hợp giảm
nhưng hô hấp thì thực hiện cả ngày và đêm và khi nhiệt độ tăng hô hấp cũng tăng vì vậy
trồng hoa Hồng phải chú ý đến điều tiết nhiệt độ nếu không chất lượng hoa sẽ giảm.
Tangeras (1979) nghiên cứu cho kết quả: nhiệt độ ban ngày thấp, ban đêm cao sẽ
khống chế đượ
c độ dài cành đó là điều rất bất lợi cho hoa Hồng, vì độ dài cành là một

trong những tiêu chuẩn quan trọng đến chất lượng hoa. Vì vậy phải có sự chênh lệch
nhất định ngoài ra độ dài của chu kỳ ánh sáng ảnh hưởng đến hiệu quả hiệu ứng của sự
chênh lệch nhiệt độ ngày đêm (DIF).
Headrik và Scharpy (1987) phát hiện thấy khi nhiệt độ ngày thấp hơn đêm sẽ làm
cho cành hồng ngắ
n lại. Mortensen và Moe (1991) cũng chứng minh được điều này
đồng thời còn cho biết nhiệt độ ngày cao hơn đêm sẽ rút ngắn được thời gian phát dục
của hoa 2 ngày nhưng không làm cho cành dài ra. Khi tăng nhiệt độ có thể làm tăng sự
sinh trưởng và sản lượng. Moe (1988) dùng giống Red garanette làm thí nghiệm khi
nhiệt độ tăng từ 12 - 18
0
C thì tốc độ sinh trưởng và số ngày ra hoa tăng lên 50% , sản
lượng tăng so với ban đầu 2,5 - 3 lần.
4.3.2. Độ ẩm
Cây hồng yêu cầu độ ẩm đất 60-70 %, độ ẩm không khí 80- 85% do hồng có tán
rộng, bộ lá nhiều nên diện tích phát tán hơi nước của cây rất lớn.
Sự điều tiết độ ẩm phụ thuộc vào thời tiết và thời gian chiếu sáng, kết quả thí
nghiệm cho biết khống chế độ ẩm trong nhà kính không ảnh hưởng gì tới sản lượng về
mùa Đông nhưng mua Hè thì t
ăng được sản lượng. Sự khác biệt này do ảnh hưởng đến
môi trường sống của cây. Khi thiếu nước sự thoát hơi nước phụ thuộc vào độ ẩm không
khí và diện tích lá. Nước không trực tiếp tham gia vào phản ứng sinh hoá mà chỉ là 1
điều kiện của phản ứng quang hợp, tác dụng tới sự cân bằng năng lượng trong cây. Nếu
khống chế độ ẩm thích hợp thì độ dài cành tăng thêm trung bình là 8,2%.
4.3.3. Ánh sáng
Hồng là cây ưa sáng, ánh sáng đầy đủ giúp cây sinh trưởng tốt. Nếu thiếu ánh sáng
cây sẽ bị tiêu hao chất dự trữ trong cây. Khi cây còn nhỏ yêu cầu độ về cường độ ánh
sáng thấp hơn, khi cây lớn yêu cầu ánh sáng càng nhiều hơn.
Ánh sáng là nhân tố quan trọng nhất đối với sự sinh trưởng và ra hoa của hoa hồng.
Ánh sáng chẳng những có tác động trực tiếp với cây mà còn làm thay đổi một loạt các

nhân tố ngoại cảnh khác như
làm tăng nhiệt độ, tăng sự tiêu hao nước. Do thời tiết thay
đổi hoặc do sự che bớt ánh sáng dãn đến giảm cường độ và thời gian chiếu sáng đều
làm giảm lượng chất khô tích luỹ và khả năng sinh trưởng. Sự phân hoá hoa, sự phát
dục của hoa, thời gian giãn cách giữa 2 lần cắt hoa, độ lớn của cành hoa, trọng lượng và
chiều dài cành, diện tích lá, màu sắc của cành hoa đều chịu ảnh hưởng của ánh sáng.
C
ường độ chiếu sáng ảnh hưởng tới rất rõ đến sản lượng hoa hồng. Có rất nhiều tài
liệu nói tới sự phát dục hoa với cường độ chiếu sáng. Che bớt ánh sáng sẽ làm tăng sự
bại dục của mầm hoa. Trước khi hoa phát dục (sau khi ngắt bỏ đỉnh sinh trưởng từ 10 -
20 ngày), sự phát dục của hoa có tương quan rất chặt đến cường độ chiếu sáng, nhưng
cũng có khi liên quan tớ
i thời gian chiếu sáng. Trong nhà kính ở các vị trí khác nhau,
các hướng khác nhau, số lượng hoa cũng khác nhau, phần giáp rãnh và đường đi lượng
hoa nhiều hơn ở giữa, hướng phía Nam nhiều hơn hướng phía Bắc. Các tài liệu nghiên
cứu cho thấy ở Bắc bán cầu trong cùng một nhà kính số lượng hoa sẽ giảm dần theo
trình tự sau Nam > Đông > Tây > Bắc > ở giữa.
Ngoài ra cường độ chiếu sáng còn ảnh hưởng tới sự phát sinh cành. Những hàng cây
càng gần h
ướng Nam so với hàng gần hướng Bắc, số cành càng nhiều hơn. Dùng cách
che ánh sáng ở phần phát sinh cành hoàn toàn có thể ức chế sự ra cành, dùng cách chiếu
sáng bổ sung sẽ làm tăng số lượng cành.
Chu kỳ chiếu sáng không ảnh hưởng đến sự phân hoá hoa, nhưng thời gian chiếu
sáng dài sẽ kích thích sự sinh trưởng và ra hoa, giảm bớt cành mù và hoa dị hình, rút
ngắn thời gian trong một chu kỳ ra hoa. Chu kỳ chiếu sáng và độ dài bước sóng ánh
sáng có quan hệ tới sự phát dục của hoa và vị trí của mầm hoa ở 21
0
C dùng đèn huỳnh
quang chiếu sáng mỗi ngày 8h thì tất cả mầm trên cành ngắn đều phát dục thành mầm
hoa, trên cành dài cũng ngẫu nhiên có mầm hoa; ở 15

0
C bất kể cành ngắn hay cành dài
đều phát dục thành mầm hoa dưới ánh sáng trắng, sự phát dục của mầm hoa có thể thực
hiện trong bất cứ nhiệt độ nào.
Cường độ quang hợp có quan hệ rất chặt chẽ với ánh sáng, 90% chất khô trong cây
là do quang hợp. Quang hợp chịu ảnh hưởng của giống, trạng thái nước, cường độ ánh
sáng, nhiệt độ, nồng độ CO
2
. Tất cả các giống hoa hồng đều có yêu cầu lượng bức xạ là
1000 Mmol m
-2
S
-1
PAR. Ở nhiệt độ 22
0
C và điều kiện kéo dài bức xạ, mức quang hợp
thuần của hoa Hồng khi nồng độ CO
2
là 800 mg/g.
JIAO (1990) nghiên cứu với hoa Hồng cho thấy mức CO
2
trao đổi (NCER) (Net
CO
2
exchange rate) có phản ứng khác nhau với nhiệt độ. Các giống Red Rosemini
orage Suubdase và lady Sunblase là các giống mẫn cảm với nhiệt độ trong quang hợp
thuần. Trong điều kiện bão hoà PAR và nồng độ CO
2
nhiệt độ thích hợp là 15 - 20
0

C,
khi nhiệt độ cao hơn 25
0
C thì quang hợp giảm nhanh. Các giống mẫn cảm với nhiệt độ
thì khi nhiệt độ tăng cao quang hợp thuần giảm, chủ yếu do cường độ hô hấp tăng.
Theo JIAO (1988), trong điều kiện ánh sáng mạnh mùa Hè hoa hồng có phản ứng
khá mạnh khi bức xạ ánh sáng bão hoà hiệu suất quang hợp thuần cao. Nhưng vào mùa
đông khi cường độ ánh sáng yếu 50-100 Mmol m
-2
S
-l
PAR, hiệu suất quang hợp thuần
tương đối thấp. Đó là do kết cấu của bộ máy quang hợp giúp cho nó có tính thích ứng
mạnh với ánh sáng.
4.3.4. Dinh dưỡng
4.3.4.1. Đạm
Đạm là nguyên tố quan trọng nhất của cây, nó là thành phần của axít amin, protein,
axitnuclêic, men, chất kích thích sinh trưởng, vitamin (chiếm khoảng 1-2% trọng lượng
chất khô). Cây có thể hút đạm dưới các dạng NO
3
-
, NO
2
-
, NH
4
+
, NH
3
-

… chủ yếu là NO
3
-
, đạm nitrat có thể tan hết trong dung dịch đất, đạm amon phần lớn bị keo đất hấp thụ,
đạm có thể di động tự do trong cây, thiếu đạm cây có biểu hiện lá già trước. Đạm ảnh
hưởng lớn nhất tới sản lượng và chất lượng hoa hồng, thiếu đạm cây sinh trưởng chậm,
phân cành yếu, cành, lá nhỏ, diệp lục tố ít, lá biến vàng, lá già và dễ bị rụng, rễ nhỏ dài
và ít, cây thấp khả
năng quang hợp giảm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thiếu đạm trong 9 ngày quang hợp thuần giảm 25%.
Quá nhiều đạm cây mọc vống, ra hoa chậm, lá to và mỏng, cây yếu, tính chống chịu
kém, dễ nhiễm bệnh, bón đạm nhiều hay ít tuỳ giống. Nói chung mỗi 100g đất khô từ
15 - 25mg, cây mới trồng thì bón ít.
Các dạng đạm thường dùng:
+ Nitrat amon: hiệu quả rất tốt, hàm lượng N nhiều có cả NO
3
-
và NH
4
+
, pH và EC
biến đổi ít, nhưng sử dụng không an toàn vì dễ nổ;
+ Sulphat muốn: hiệu quả thấp, có gốc SO
4
2-
tồn dư trong đất làm cho đất chua, EC
tăng.
+ Urê: hiệu quả tốt nhất, trong đất urê biến đổi dần thành NO
3
-

(sự phân giải có liên
quan đến nhiệt độ). Nhiệt độ thấp dễ hại cây, nhiệt độ cao phân giải nhanh, ít ảnh hưởng
đến trị số pH và EC trong đất.
4.3.4.2. Lân
Lân thường chiếm từ 1- 1,4% trọng lượng chất khô của cây. Cây hút lân dưới dạng
H
2
PO
4
-
và HPO
4
2-
, lân có thể di chuyển trong cây, chủ yếu tập trung ở phần non. Khi
thiếu lân thì phần già biểu hiện trước. Thiếu lân dân tới lích luỹ đạm dạng Nitrat gây trở
ngại cho việc tổng hợp prôtêin. Cành, lá, rễ sinh trưởng chậm, cây thấp bé, lá có màu
tím hoặc tím đỏ ảnh hưởng đến tổng hợp Hydratcarbon, hoa nở khó. Nhiều lân quá ức
chế sinh trưởng dân tới thừa sắt. Lân cũng ảnh hưởng lớn đến phẩm chất cây, hoa h
ồng
cần lượng lân thích hợp là trong lòng đất khô có từ 20 - 50 mg P
2
O
5
. Nhiều lân quá ảnh
hưởng tới sinh trưởng, dẫn đến thiếu màu xanh, lá biến vàng có thể là ảnh hưởng tới sự
hút sát. Nên tránh bón trên 100 mg P
2
O
5
cho 100 g chất khô.

Hiệu quả của lân liên quan chặt với đất, super lân và lân nung chảy hiệu quả không
khác biệt. Đối với đất pha cát hấp phụ kém, bón super lân hiệu quả cao hơn. Đất hấp
phụ mạnh dùng lân nung chảy hiệu quả tốt hơn. Thường dùng bón cho hoa hồng là
NH
4
H
2
PO
4
và (NH
2
)
2
HPO
4
, khi bón qua lá thường dừng lân dạng KH
2
PO
4
.
4.3.4.3. Kali
Kali là nguyên tố cây hoa hồng hút nhiều nhất, gấp 1,8 lần đạm, nhưng kali là
nguyên tố có thể sử dụng lại khi ít ảnh hưởng tới sinh dục phát triển của cây so với đạm
và lân.Tuy nhiên thiếu kali sinh hưởng kém, nếu thiếu quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới việc
hút canxi và magiê từ đó ảnh hưởng đến độ cứng của thân cành và chất lượng hoa. Hoa
hồng yêu cầu lượng kali trao đổi trong đất như
sau 100 g đất cần khoảng 20 - 30 mg.
Bón nitrat kali hoặc sulphát kali đều tốt, không nên dùng Chlorua kali.
Ngoài ra cây hồng còn cần một lượng phân vi lượng cho cây sinh trưởng phát triển
tốt Ca, Mg, Fe, Zn, Mg

4.4. KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG HOA HỒNG
4.4.1. Giâm cành
Thời vụ tốt nhất là vụ Xuân (tháng 2 - tháng 4) và vụ Thu (tháng 8- tháng 10), cây
giống nhanh ra rễ và tỷ lệ sống cao.
Giá thể giăm: 2/3 thú hun + 1/3 đất đồ hoặc cát vàng được khử trùng trước khi giâm
bằng Viben C nồng độ 10%.
- Cành giâm: cành bánh tẻ, tốt nhất là cành mang hoa đang ở giai đoạn sử dụng.
+ Cành giâm dài 8- 10 chỉ có 1 đến 3 một, cắt vát 300 vết cắt ngọt không dập nát.
- Sử lý cành giâm bàng IAA hoặc NAA nồng độ 2000 - 2500 ppm nhúng 3- 5 giây
cắm vào giá thể. Cắm đứng cành sâu 1,0 - 1,5 chỉ khoảng cách cành giăm 4-5 cm.
- Độ ẩm không khí trong 3 ngày đầu đạt mức 100% sau đó giảm độ ẩm xuống chỉ
còn 80- 90%. Sau giâm 25 -35 ngày khi cây giâm có rễ đều xung quanh, chiều dài rễ đạt
3-4 cm có thể đ
em trồng.
4.4.2. Chiết cành
Có thể làm quanh năm nhưng nhanh ra rễ nhất là vụ Xuân, kỹ thuật giâm cành
tương tự như chiết các loại cành cây thân gỗ khác. Cần chú ý một số vấn đề sau:
- Chọn cành chiết: cành bánh tẻ, khoẻ mạnh, khoanh vỏ rộng 2- 3 cm, cạo sạch lớp
tượng tầng, để khô nhựa 2- 3 ngày rồi bó bầu.
- Hỗn hợp bầu: rễ bèo được rửa sạch, hoặc mùn rác, rơm, rạ
trộn với đất bùn đã
được phơi khô đập nhỏ, trộn nước hoặc nước thuốc chất kích thích ra rễ vào hỗn hợp
bầu cho đủ ẩm 85-90%, bọc vào chỗ bóc vỏ. Dùng nhân bao kỹ xung quanh, buộc dây
thật chặt 2 đầu để không cho nước thấm vào hoặc bay hơi ra. Sau 3-6 tuần khi bầu chiết
có nhiều rễ nhánh có thể cắt đem giâm vào vườn ươm, cũng có thể đem cành chiết trồng
tr
ực tiếp ra đất nhưng phải che nắng, đủ ẩm, cắt tỉa bớt lá, đọt non để giảm bớt thoát hơi
nước, cành chiết chóng hồi phục.
4.4.3. Ghép
Là phương pháp phổ biến trong sản xuất với gốc ghép là cây tầm xuân, cây hồng

dại. Những gốc ghép này rất khoẻ sau 3 tháng khi thân có đường kính 0,5-0,8cm thì có
thể ghép được.
- Thời vụ ghép: có thể ghép quanh năm
- Cách tiến hành: có thể ghép mắt, ghép cành như các loại cây trồ
ng khác Sau 10- 15
ngày mắt ghép tiền ta có thể mở ngon để mầm ghép mọc lên.
4.5 KỸ THUẬT TRỐNG VÀ CHĂM SÓC
4.5.1. Thời vụ trồng
Hồng là cây lưu niên nghĩa là nó có thể sống từ năm này đến năm khác trên cùng
một chỗ. Nếu trồng nhiều trên quy mô lớn thường trồng vào tháng 2-3 hoặc vào mùa
Thu tháng 10 hàng năm vì thời tiết lúc này thuận lợi cho sinh trưởng phát triển của cây.
Nếu trồng ít thì mùa nào cũng có thể trồng đượ
c, mùa Hè chỉ cần che bớt nắng đến khi
cây hồng sống mạnh, mùa Đông cần tránh hoặc che gió mùa Đông bắc và nhiệt độ
xuống thấp.
4.5.2. Làm đất
Đất thích hợp là đất thịt hoặc là đất thịt pha cát.
Chọn đất cao không bị ngập úng, bằng phẳng tơi xốp thông thoáng có độ pH 5,6-6,5
đất có thời gian nắng khoảng 8 giờ/ngày.
Đất làm kỹ lên luống cao, đất làm sâu 30 em luống rộng 1,2 m bón lót phân chuồng,
NPK và tro, trấu trước 7- 10 ngày.
4.5.3. Bón phân
Hồng là loại cây phàm ăn và có khả năng ra hoa quanh năm nên việc bón phân lót
trước khi trồng là rất quan trọng, cần phải thường xuyên bón thúc sau mỗ
i đợt thu hoạch
hoa
- Lượng phân lót cho 1 ha: 30 tấn phân chuồng + 300 kg đạm + 400 kg lân+ 400kg
vôi bột + 300 kg Kali.
- Bón phân định kỳ mỗi tháng 1 lần: ngâm khô dầu, phân bắc, đậu tương pha loãng
với nước để tưới cho hồng. Xới xáo đất quanh gốc hồng, cách gốc khoảng 10- 20 cm,

cho phân vào và lấp đất lại.
4.5.4. Kỹ thuật trồng
- Mật độ khoảng cách đối với giống hồng sinh trưởng, phát triển mạnh (Hồ
ng
nhung, hồng phấn) trồng với khoảng cách 40 cm x 50 cm mật độ 50.000 cây/ ha. Đối
với giống phát triển yếu hơn như Trắng sứ, Cá vàng có thể trồng khoảng cách 35 cm x
40 cm mật độ là 70.000 cây/ha.
- Trồng vào lúc chiều mát, hướng mắt ghép về phía mặt trời để cây khoẻ. Đặt cho
bầu cây hồng ngập đất, không trồng quá sâu cây chậm phát triển. Phải tưới thật ẩm để
đất chặt gốc. Khi mới trồ
ng nên che đậy để chống nắng, nóng hoặc hanh khô, cắt tỉa tán
lá để tránh thoát hơi nước.
4.5.5. Chăm sóc
+ Chọn cây giống có cành mập, lá xum xuê đối với cây chiết. Nếu là cây ghép thì
gốc ghép to, cành ghép mập lá xanh tết, cao khoảng 25- 30 cm.
- Tưới nước
+ Ngày tưới 1 - 2 lần vào lúc sáng sớm hay chiều mát
+ Hoa hồng cần rất nhiều nước nên trước khi cắt hoa cũng nên tưới nhiều. Sau khi
bón phân cũng phải tưới nước vì nếu để khô cây có th
ể bị ngộ độc phân bón và lụi dần.
Tuy nhiên nếu nước bộ ứ đọng ngập gốc, rễ hồng sẽ không hút được dinh dưỡng, tích tụ
nhiều chất khí độc như CH
4
, CO
2
làm thối rễ.
- Tỉa cành, tỉa nụ:
+ Thường xuyên cắt tỉa nhánh khô, những cành ốm yếu không còn lá, lá vàng úa,
sâu bệnh để cây thông thoáng quang hợp dễ dàng. Hồng sinh trưởng phát triển mạnh,
sau cắt tỉa 15 ngày đã bắt đầu ra nhánh khác.

+ Cần tỉa bớt hoa thứ cấp để hoa chính thật to. Mỗi nhánh hồng cho cần để 1 hoa to
là đủ vì cây hồng có 6 - 7 nhánh sẽ cho 6 - 7 hoa đẹp. Sau mỗi năm nên đốn phớt và vài
ba năm lại đốn đau 1 lần (cắt sát gốc để chồi mọc lên).
4.5.6. Biện pháp kỹ thuật tăng năng suất, chất lượng hoa bằng các chất kích thích
sinh trưởng.
- Dùng các loại phân bón lá phun cho cây, cần thiết nhất là giai đoạn trướ
c khi cây
ra hoa. Phân bón lá và kích phát tố hoa trái GA
3
làm cho cây có bộ lá xanh đẹp, cánh
dài hoa ra sớm hơn, to hơn và lâu tàn hơn. Khi có hiện tượng phân hoá mầm hoa phun
5g kích phát tố hoa trái + 50 g phân bón lá pha trong 10 lít nước sạch. Cắt hoa đợt 1
được 2- 3 ngày phun liếp 5 - 10 g GA
3
+ 50g phân bón lá trong bình 10 lit (nhằm tăng
chiều dài cành hoa). Định kỳ 7 - 10 ngày lại phun 1 lần để hoa, lá, cành phát triển cân
đối.
Điều khiển hoa nở vào dịp tết: cuối tháng 11 âm lịch, cắt cành bấm ngọn bỏ đi 4- 6
mắt từ ngọn xuống. Cắt càng gần ngọn thì hoa nở sớm hơn và ngược lại. Đối với những
giống mọc cành dài mới nở hoa thị cắt cành trước tết khoảng 40- 45 ngày.
4.6. SÂU B
ỆNH HẠI HOA HỒNG
4.6.1. Phòng trừ bệnh
Bệnh gỉ sắt:
Vết bệnh dạng ô nổi, màu vàng da cam hoặc nâu. Gỉ sắt hình thành ở mặt dưới lá.
Mặt trên mô bệnh mất màu xanh bình thường chuyển sang màu vàng nhạt. Bệnh nặng
làm lá khô cháy, dễ rụng, hoa nhỏ ra ít, thường bị thay đồi màu sắc, cây còi cọc.
+ Nguyên nhân gây bệnh do nấm Phragmidium mucronatum gây ra.
+ Phòng trừ: Loại bỏ tàn dư gây bệnh và cỏ dại. Ngoài thuố
c Scrore 250 ND và

Alvil 5 SC có thể dùng thêm Peroxin 0,2 -0,4 %.
Bệnh phấn trắng:
+ Đặc điểm triệu chứng: vết bệnh dạng bột phấn màu trắng xám, hình thái bất định.
Bệnh thường hại trên ngọn non, chồi non, lá non, hình thành ở cả 2 mặt lá. Bệnh nặng
hạn cả thân, cánh, nụ, hoa làm biến dạng lá.Thân khô, nụ ít, hoa không nở thậm chí chết
cây đồng đỏ Pháp, trắng Mỹ, phấn hồng hay bị bệnh này.
+ Nguyên nhân gây bệnh: Do n
ấm Sphaerothecapannosa (Walls) Lev var, Rosae
gây ra.
+ Biện pháp phòng trừ: Loại bỏ tàn dư gây bệnh và cỏ dại. Dùng thuốc Scrore 250
ND với liều lượng 0,2-0,3 lít/ha. Alvil 5 SC liều lượng 1 lít/ha hoặc Bayfidan 250 EC
với nồng độ 4 ml thuốc/bình 8 lít. Lượng phun 30-40 bình/ha.
Bệnh đốm đen:
+ Đặc điểm triệu chứng: Vết bệnh hình tròn hoặc hình bất định ở giữa màu xám
nhạt, xung quanh màu đen. Bệnh thường phá hại trên các lá bánh tẻ, vết bệnh xuất hiện
ở cả 2 mặt lá. Bệnh nặng làm lá vàng, rụng hàng loạt. Đây là một trong những bệnh chủ
yếu hại cây hoa hồng.
+ Nguyên nhân gây bệnh Do nấm Dipbocarpon Rose gây ra.
+ Biện pháp phòng trừ: Vườ
n trồng hồng thông thoáng, đất không bị ngập úng. Tỉa
bỏ những cành lá mang mầm bệnh, làm sạch cỏ và thu dọn các tàn dư gây bệnh. Dùng
một số thuốc đặc hiệu như Score 250 ND, Zineb 80 WP nồng độ 30- 50 g/ 10 lít nước
hoặc Antracol 70 BHN pha 20-30 g thuốc/ bình 8 lit.
4.6.2 Phòng trừ sâu hại hồng
- Sâu xanh (Heli coverpa armigerra Hb)
Sâu phá hại nặng trên lá non, ngọn non, nụ và hoa. Sâu trưởng thành đẻ trứng rải rác
thành từng cụm ở cả 2 mặt lá non, ở nụ hoa, đ
ài hoa và hoa.
+ Biện pháp phòng trừ: Luân canh với cây trồng khác. Ngoài ra có thể dùng các loại
thuốc trừ sâu: pegasus 500SC liều lượng 0,5-1 lít/ha (pha 7- 10 ml/bình 8 lít)

- Rệp: (Aphis gosssypii Glover)
Trên đồng ruộng thường có rệp nhảy và rệp muội. Rệp phá hại trên thân, lá, ngọn
non cây hồng. Đặc biệt rệp sáp hình bầu dục, mình phủ sáp trắng, không thấm nước.
loại rệp này thường sống cộng sinh với kiến. Có thể dùng thuốc Ancol 20 EC phun 1
lít/ha hoặc Karate 2,5 EC nồng độ 5- 10 ml/ bình 8 lít. Supacide 40 ND liều l
ượng 1- 1
5 lít/ha.
- Nhện đỏ (Tetranychus urticae Koch)
Nhện đỏ gây hại nặng trên cây hoa hồng. Nhện thường cư trú ở mặt dưới lá chích
hút dịch bào trong mô lá hồng, tạo thành vết hại có màu sáng, dần dần các vết chích này
liên kết với nhau. Khi bị hại nặng, lá cây hồng có màu nâu vàng rồi khô và rụng. Khi có
thể dùng thuốc Ortus 5 SC hoặc Comite với liều lượng 1 lít/ ha.
4.7 THU HOẠCH, BẢO QUẢN VÀ VẬN CHUYẾN HOA HỒNG
Kỹ thuật thu hái không những
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng hoa đợt
đó, mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến năng suất chất lượng hoa đợt sau. Khi thu hái cần
nắm vững tiêu chuẩn thu hái, xác định thời gian thu hái và lựa chọn vị trí hái.
4.7.1. Tiêu chuẩn thu hoạch
Tiêu chuẩn cắt hoa chủ yếu dựa vào chỉ số hoa nở; thu hái đúng lúc sẽ đảm bảo hoa
tươi lâu và đẹp. Hái sớm cuống hoa còn non hoa dễ b
ị cong queo và hoa không nở
được, hái muộn quá hoa chóng tàn. Tiêu chuẩn thu hái phụ thuộc vào giống và cự ly
vận chuyển. Nói chung hoa đỏ và màu phấn hồng, chỉ số hoa là 2 (đài hoa cúp xuống,
cánh hoa tầng ngoài cùng bắt đầu rời ra, tách ra, lỏng ra). Hoa màu vàng nở nhanh nên
thu hái sớm, chỉ số hoa là 1 thì hái (đài hoa duỗi thẳng ra), giống hoa trắng có thể có thể
hái muộn hơn; giống nở chậm thì hái muộn, giống nở nhanh thì hái sớm. Bán tại chỗ
hoặc vận chuyể
n gần thể hái ở chỉ số 3 (cánh hoa ngoài đã nở). Vận chuyển xa thì hái từ
lúc đang còn là nụ vì khi đó hoa không dễ dập nát, ít nhiễm bệnh, ít bị ảnh hưởng bởi
nhiệt độ cao và dễ bảo quản. Cuối vụ Xuân và vụ Hè có thể thu hái sớm hơn so với đầu

Xuân và mùa Thu.
4.7.2. Thời gian thu hái
Các thí nghiệm chứng minh hái vào 4 giờ 30 phút chiều tuổi thọ của hoa dài hơn
11% so với hái 8 giờ sáng Nguyên nhân do hái vào buổi chiều, qua một ngày quang hợp
thân cây tích luỹ thêm chất dinh dưỡng. Ngoài ra còn phải tính đến nhân lực và vận
chuyển.
4.7.3. Vị trí thu hái
Vị trí cắt hoa ảnh hưởng trực tiếp đến độ dài cành, cuống hoa, tới sự nảy mầm của
mầm dưới vết cắt và số ngày cắt lứ
a sau. Cành chừa lại càng dài, càng nhiều lá thì số
ngày đến cắt lứa sau càng ngắn. Nói chung nên chừa lại 2 chính có 5 lá nhỏ. Sau khi cây
ngủ nghỉ qua Hè, cây chưa hồi lại sức sống, cắt vào tháng chín, tháng 10 có thể chừa lại
3 nhánh lá có 5 lá nhỏ. Tháng 3 tháng 4 cây sung sức, để khống chế chiều cao, có thể
chừa lại ít, hoặc không chừa lại nhánh có 5 lá nhỏ, thậm chí cố thể cắt đến cành ra hoa
chính.
4.7.4. Bảo quản hoa hồng
Từ nơi sản xu
ất đến người tiêu dùng hoa thường trải qua một quá trình vận chuyên,
nhiều khâu trung gian. Hơn nữa hoa lại là phần non, nên nếu không được xử lý, bảo
quản tốt rất dễ hư hỏng.
Sau khi cắt hoa, nếu chỉ đơn giản cắm vào lọ nước, thường chỉ sau 3 - 5 ngày hoa sẽ
héo, nát, rụng, và biến màu.
Hoa bị héo là do không hút đủ nước, hoa từ màu đỏ biến thành màu xanh là do sự
thuỷ phân Protein, tích luỹ axit amin dẫn đến thay đổi độ
pa của cành hoa, làm thay đổi
sắc tố hoa. Hoa biến thành màu nâu là do tích luỹ Phenolphtalein. Hoa bị rủ xuống là do
mất độ áp lực căng của cuống. Các yếu tố ảnh hưởng tới tuổi thọ của hoa là:
- Trạng thái dinh dưỡng sau khi cắt khỏi cây.
- Hoa bị gián đoạn dinh dưỡng
- Sự sống dựa vào chất dinh dưỡng dự trữ của cành lá, hết nguồn này đến nguồn này

thì không tồn tại được.
- Trạ
ng thái nước là yếu tố chính ảnh hưởng đến độ tươi của hoa. Sau khi cắt rời
khỏi cây nguồn tiếp nước không còn, nhưng cành, lá vẫn tiếp tục thoát hơi nước, nếu
cắm hoa vào nước ngay hoa sẽ bị héo rất nhanh. Cắm vào nước rồi hoa chỉ dựa vào mặt
cắt của cành để hút nước nên rất khó khăn.
Yếu tố ảnh hưởng đến sự hút nước của cành là mạch dẫn bị nút lại, do vi khuẩn và
do nguyên nhân sinh lý.
- Nguyên nhân do vi khuẩn: là do bản thân vi sinh vật hoặc hợp chất do chúng tiết ra
nút lại mạch dẫn. Cả hai loại vi khuẩn và nấm đều sinh sản rất nhanh trong môi trường
nước cắm hoa.
- Nguyên nhân sinh lý chủ yếu là do các tế bào bị sát thương tiết ra một số chất như
keo, tamin, các chất phenol bị oxy hoá từ vết c
ắt di chuyển trong mạch, làm tắc mạch
Ngoài ra khi cắt cành không khí lọt vào mạch gỗ, tạo ra những bọt khí cũng cản trở đen
vận chuyển nước trong mạch.
Ngoài các nguyên nhân trên còn một số yếu tố ngoại cảnh cũng ảnh hưởng đến độ
bền của hoa sau thu hoạch:
- Nhiệt độ cao
Tạo ra sự chênh lệch áp suất lớn, làm tăng tốc độ thoát hơi nước, hô hấp t
ăng mạnh,
nếu tiêu hao vật chất nhiều nên hoa chóng tàn.
- Ánh sáng
Ánh sáng kích thích khí không mở to, tăng lượng nước bốc hơi tăng nhiệt độ không
khí và nhiệt độ bề mặt, tăng độ chênh lệch áp suất giữa trong và ngoài lá, tăng bốc hơi
nước.
- Kích thích tố
Một số kích thích tố làm lăng sự lão hoá của cành làm hỏng mạch gỗ.
- Sâu bệnh
Khi bị sâu bệnh gây hại thoát hơi nước tăng mạnh, mô b

ị mất nước đồng thời lại sản
sinh ethylene, làm tăng tốc sự lão hoá.
Kỹ thuật bảo quản hoa hồng như sau:
Cành cắt để bảo quản phải thu hái sớm hơn 1 - 2 ngày. Sau khi thu hái dùng thuốc
xử lý ngay rồi di chuyển vào kho lạnh. Sau khi xử lý thuốc có thể gói vào bao giấy,
hoặc vào túi polietylen kín, có thể giữ được 10 - 14 ngày Sau khi cất giữ, cần cắt lại
cành và xử lý thuốc ít nhất 12 giờ.
Sử d
ụng thuốc
Cành hoa có thể hút chất xử lý qua vết cắt và con đường khác nhằm điều chỉnh quá
trình trao đổi chất, ức chế vi sinh vật sản sinh, tránh được hiện tượng hút ống dẫn, kéo
dài tuổi thọ của hoa. Khi xử lý có thể dùng 5% đường Saccarose và 200 mg/lít muối
sulphat, thêm 50mg/l muối acetat bạc có thể kéo dài tuổi thọ hoa. Dùng 300 mg/lít muối
linonat cũng có thể ức chế vi khuẩn và nấm. (Đặng Văn Đông, 2003)
Kỹ thuật bảo quản lạnh
Trong điều kiện lạnh tăng nồng độ CO
2
giảm nồng độ Oxy, để giảm sự sản sinh ra
C
2
H
2
sẽ kéo dài được tuổi thọ của hoa. Nồng độ Oxy 6%, CO
2
10% - 15% có thể làm
cho hoa nở chậm lại. Nhưng nồng độ oxy không được thấp quá, khi tới 0,25% thì hại
đến túi phấn và vòi nhuỵ. Tốt nhất là nồng độ CO
2
5%, Oxy 5%. Tác hại của CO
2

khi
hàm lượng cao > 15% là cánh hoa bị nâu đi và nụ không thể nở được.
Các giống khác nhau, yêu cầu nồng độ CO
2
khác nhau. Giống Biarcliff và giống
Mrs. F.R Pieson khi nồng độ CO
2
25% thì bị hại, nhưng giống Talisma thể tới 30% mới
bị hại.
Khi nồng độ CO
2
cao (trên 1 5%) sẽ giảm độ pH ở cánh hoa, làm cho màu sắc hoa
thay đổi. Các kết quả nghiên cứu cho biết: oxy thấp, CO
2
cao thì cánh hoa biến thành
màu nâu, cuống hoa bị héo.
Kích thích hoa nở
Có thể kích thích nhân tạo cho hoa nở. Sau khi hái đặt hoa trong môi trường lạnh từ
0 - 1
0
C có chứa 500 mg/lít axit limonic. Sau đó ngâm nụ vào dung dịch kích thích nở ở
nhiệt độ 23 - 25
0
C, độ ẩm 80%, chiếu sáng liên tục với cường độ 3.000 lux. Sau 6 - 7
ngày là hoa có thể nở.
4.7.5. Phân loại, đóng gói
Sau khi thu hái cần phân cấp theo tiêu chuẩn quy định để giảm tổn hại. Tiêu chuẩn
hoa bao gồm độ dài cành, đường kính cành, độ lớn của hoa, lá, độ sạch bệnh.
Tiêu chuẩn chung là màu sắc cánh hoa tươi, không bị dập gẫy, không có sâu bệnh,
lá sạch sẽ, cành cuống mập thẳng, dài như nhau, chỉ số hoa nở đều và mang đặ

c trưng
của giống. Khi vận chuyển thường dùng hộp giấy dài 100cm, rộng 50cm, cao 30,5cm.,
mỗi hộp đựng được 700 cành, dùng màng polyetylen để giữ độ ẩm. Mùa hè, nhiệt độ
cao nên bỏ nước đá vào hộp vần chuyển hoa để làm lạnh. Khi đóng thùng cần tránh để
gai làm xuất vỏ.

×