Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ứng dụng Topsolid thiết kế và gia công đĩa thép ly hợp, chương 9 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.54 KB, 5 trang )

Chương 9: Vận hành máy Haas
2.3.1 Nhận xét chung
Trong máy “NC” (numerically controlled), dao được kiểm soát
bởi hệ thống encoder mà cho phép nó hoạt động được với sự giám
sát tối thiểu và với nhiều tính năng lặp lại. CNC (computerized
numerical control) là cùng ki
ểu với hệ thống điều khiển, với mở
rộng là máy công cụ được theo dõi bằng máy tính.
Giống như các nguyên lý đã sử dụng trong điều khiển máy
thông thường, được sử dụng trong chương tr
ình cho một máy NC
hoặc CNC. Sự khác nhau chủ yếu đó là sự thay thế các thao tác
bằng tay bởi xác định một bộ phận trượt đến một điểm nào đó,
khoảng cách được ghi lại trong bộ nhớ của bộ phận điều khiển
máy. Sự điều khiển sau đó sẽ làm chuyển động máy đến xác định
trước đó có mỗi lần chương tr
ình được chạy.
Sự điều khiển của trung tâm máy kiểu đứng hệ VF yêu cầu mà
m
ột chương trình bộ phận được thiết kế, viết và nhập vào bộ nhớ
của bộ điều khiển máy. Hầu hết phương pháp thông thường để viết
các chương tr
ình thành phần là độc lập, đó là có thể viết và ghi
chương trình trong một máy tính khác sau đó chuyển chương trình
thành ph
ần vào máy CNC qua một giao diện RS-232. Trung tâm
gia công kiểu đứng hệ VF của Haas có một giao diện mà nó tương
thích với hầu hết các máy tính và máy CNC hiện nay.
Sự hợp lệ để điều khiển và lập trình một máy điều khiên CNC,
hi
ểu một cách cơ bản các bộ phận của máy và kiến thức làm việc


về toán học là cần thiết. Cũng rất quan trọng để trở nên quen với
bảng điều khiển và thứ tự các phím, sự bật tắt, hiển thị… đó là sự
thiết yếu trong điều khiển máy.
2.3.2 Hệ tọa độ
Biểu đồ thứ nhất đề cập đến dãy số. Dãy số này có một điểm
xem xét nó được gọi l
à số không tuyệt đối (ABSOLUTE ZERO)
và có th
ể được đặt tại một điểm nào đó dọc theo đường này.
Dãy s
ố cũng được đánh số tăng dần về bên cạnh số không, phía
phải số không là tăng theo chiều dương và phía trái là tăng theo
chiều âm.
Chúng ta sử dụng giá trị dương và âm theo các giá trị tăng biểu
thị mối quan hệ của nó với số không trên trục.
Số không có thể được đặt ở một điểm nào đó dọc theo trục và ở
vị trí đó, bên cạnh của số không có các số âm và phía khác là các
s
ố dương.
Nên nhớ rằng khi chúng ta đang vận hành máy cần quan tâm tới
vị trí của các trục. Mặc dù bàn máy là bộ phận dịch chuyển chúng
ta vẫn phải chú ý đến tọa độ của chúng ta dựa vào chuyển động
của trục chính.
2.3.3 Điểm không của máy
Nguyên tắc cơ bản có thể được nhận thấy khi đọc cuốn tài liệu
tham khảo về sự quay lại của tất cả các trục máy. Khi một sự quay
lại của giá trị không (ZERO RET) được hoạt động tại thời điểm
máy khởi động, tất cả 3 trục được đưa đến khoảng cách dương vô
cùng cho đến khi bộ ngắt giới hạn được đạt đến. Khi điều kiện n
ày

được thỏa mãn, cách duy nhất để chuyển bất kỳ trong 3 trục là
trong kho
ảng cách âm. Điều này là bởi vì một giá trị không mới
được đặt lại cho một trong 3 trục l
à tự động khi máy được đưa về
đích. Nó được đặt ở lề của mỗi dịch chuyển của trục.
Khi kinh nghiệm nhiều hơn trong lập trình trên công cụ và các
k
ỹ thuật cài đặt, mỗi lập trình viên và người cài đặt phát triển theo
kiểu riêng của họ.
2.3.4 Vị trí tuyệt đối và vị trí tương đối
Đến giai đoạn này, chúng ta đã đề cập đến một hệ thống về việc
xác định vị trí công cụ mà nó được biết như việc lập tr
ình tuyệt
đối. Trong lập tr
ình tuyệt đối, tất cả các điểm tọa độ được cho với
sự quan tâm đến mối quan hệ của nó với gốc, một điểm không cố
định được xem như điểm không th
ành phần. Đây là kiểu thông
dụng nhất của vị trí.
Một kiểu khác của sự định vị được coi là vị trí tương đối. Vị trí
tương đối liên quan của chính nó với khoảng cách và chiều. Một
tọa độ mới được đưa vào trong phạm vi của mối quan hên của
chính nó với vị trí trước đó mà không phải với điểm không cố định
hoặc gốc. Nói cách khác, sau một khối lượng thông tin đã được
thực hiện theo chương trình, vị trí mà công cụ hiện đang ở đó là
m
ột điểm không mới cho chuyển động tiếp theo được thực hiện.
Một ví dụ của việc sử dụng hệ tương đối được cho ở dưới. Lưu
ý rằng để dịch chuyển từ X 4.25 đến X 2.025 trên thước tỷ lệ, một

chuyển động tương đối của X -2.225 đã được thực hiện cho dù
chuy
ển vẫn đặt công cụ trên cạnh dương của thước. Bởi vậy sự di
chuyển được xác định từ điểm cuối, không cần quan tâm đến vị trí
của điểm không. Các dấu “+” và “– “ được sử dụng trong các mối
quan hệ về chiều, không quan tâm đến vị trí của điểm không.
Khi vị trí là tuyệt đối, chúng ta đã được liên hệ với khoảng cách
và chiều từ điểm tham khảo không cố định và khi vị trí là tương
đối chúng ta đ
ã liên hệ với khoảng cách và chiều từ vị trí cuối.

×