Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Các ngày lễ kỷ niệm và lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.12 KB, 65 trang )

Các ngày lễ kỷ niệm và lịch sử
6-1-1946 Tổng tuyển cử quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu
cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ
đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của
Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những
đại biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta
Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng
tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước
đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời
sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được tự do thảo
luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Nhưng cuộc bầu cử diễn ra trong một hoàn cảnh chính trị rất phức tạp. ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ, thực dân Pháp đã mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng âm mưu chia cắt lâu
dài đất nước ta, dựng lên chế độ "Nam Kỳ tự trị" với một chính phủ bù nhìn tay sai. ở phía Bắc,
18 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa đồng minh tràn vào tước vũ khí quân Nhật. Chúng kéo theo
bè lũ tay sai Việt Nam quốc dân đảng, Việt Nam cách mệnh đồng minh hội về nước, hòng
chiếm lấy chính quyền. ỷ thế bọn Tưởng, những tên Việt gian hoành hành dữ dội, nói xấu chính
phủ lâm thời, phá hoại tổng tuyển cử và gây ra nhiều vụ cướp của, giết người rất dã man. Mặc
dầu bọn chúng dùng nhiều thủ đoạn bỉ ổi để đe dọa và xuyên tạc, nhân dân các nơi vẫn phân
biệt được trắng đen, bày tỏ niềm tin tưởng vào những đại biểu Việt Minh và những người yêu
nước chân chính. Nhân dân Hà Nội rất phấn khởi khi được tin Hồ Chủ tịch ứng cử ở Thủ đô;
118 vị đại biểu các tầng lớp ở ngoại thành Hoàng Diệu (tức là Hà Nội) đã gửi thư "đề nghị cụ
Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử này và suy tôn cụ là Chủ tịch vĩnh
viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Hồ Chủ tịch đã gửi lời cảm tạ và nói: "Tôi là một
công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên không thể vượt qua thể lệ tổng tuyển cử đã
định". Trong lời phát biểu ngày 5 tháng 1, Người kêu gọi "Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc
dân ta đến con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai
là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân bắt
đầu được hưởng quyền dân chủ của mình".


Từ sáng sớm ngày 6 tháng 1, nhân dân Hà Nội đã nô nức đi bỏ phiếu với nét mặt hân hoan, áo
quần tươi sắc. Hồ Chủ tịch và các vị trong chính phủ cùng đi bỏ phiếu với nhân dân tại các trụ
sở khu phố.
ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, cuộc bầu cử được tiến hành trong khói lửa chiến tranh. Giặc
Pháp cho máy bay oanh tạc, mở những cuộc hành quân càn quét, tung tay sai đi phá hoại bầu
cử. Chỉ tính riêng những người làm công tác vận động, đã có hơn bốn chục cán bộ hy sinh anh
dũng. Lá phiếu trong cuộc bầu cử này được gọi là "lá phiếu máu" vì nó thấm máu của những
chiến sĩ đã quên mình cho nền Độc lập của Tổ quốc, vì sự nghiệp Kháng chiến cứu nước, vì
công cuộc xây dựng chính quyền cách mạng.
Với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ Nhà nước dân chủ cộng hòa,
toàn thể nhân dân từ Nam chí Bắc đã tham gia bỏ phiếu. Hồ Chủ tịch trúng cử với tỷ lệ cao
nhất 98,4% số phiếu bầu.
Trong cuộc mít tinh của 40 ngàn đồng bào thủ đô chào mừng các đại biểu đã trúng cử, Hồ Chủ
tịch tuyên bố: "Trong cuộc tranh thủ hoàn toàn độc lập, chúng tôi thề xin đi trước!".
Ngày 2 tháng 3, Quốc hội họp kỳ thứ nhất. Đây là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, bao gồm 403 đại biểu, trong đó 87 phần trăm là những người xuất thân từ công
nhân, nông dân, viên chức và quân nhân cách mạng. Lần đầu tiên ở nước ta, và ở cả vùng
Đông Nam á, xuất hiện một quốc hội thật sự dân chủ, được bầu theo nguyên tắc phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử thể hiện niềm tin sắt đá
của toàn dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch. Nó biểu dương sức mạnh đại đoàn kết
của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, đập tan bọn phản động, xây dựng chế độ
xã hội mới. Quốc hội đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chủ tịch đứng đầu.
Trong lời bế mạc kỳ họp thứ nhất. Người nói: "Chúng ta cùng hứa với nhau rằng Quốc hội họp
lần này là Quốc hội Kháng chiến và Chính phủ cử ra là Chính phủ Kháng chiến. Tôi mong rằng
Quốc hội họp lần sau sẽ là Quốc hội Thắng lợi và Chính phủ sẽ là Chính phủ Thắng lợi". Người
đại biểu quốc hội mang tấm thẻ số 305 đã xứng đáng với niềm tin của nhân dân, đã hoàn thành
vẻ vang trách nhiệm của người công dân số Một, đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp quang
vinh của cách mạng, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Đúng như lời Hồ Chủ tịch, Quốc hội khóa I đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp kháng
chiến chống thực sân Pháp. Trong thời gian từ 1946 đến 1960 (vì điều kiện chiến tranh không

tổ chức bầu cử theo đúng nhiệm kỳ 4 năm một lần), Quốc hội đã thông qua hiến pháp đầu tiên
của nước ta, đã ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất và phê chuẩn hiệp định Giơ-ne-vơ về
Việt Nam. Quốc hội đã thông qua luật công đoàn, xác định địa vị lãnh đạo của giai cấp công
nhân; ban hành các đạo luật bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, luật hôn nhân và gia
đình. Quốc hội đã ra các nghị quyết cải tạo và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và
cuối năm 1959, thông qua bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Quốc hội khóa II (1960 - 1964) có 453 đại biểu. Vì điều kiện đất nước tạm thời bị chia làm 2
miền, 91 đại biểu miền Nam của khóa I vẫn tiếp tục tham gia khóa II, không phải thông qua bầu
cử. Quốc hội khóa II không ngừng tăng cường và củng cố chuyên chính vô sản, động viên toàn
dân đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Quốc hội khóa II (1964-1971) và khóa IV (1971-1975) đã hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước, đế quốc Mỹ buộc phải ký hiệp định Paris, quân Mỹ buộc phải cút khỏi Việt Nam,
chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược hai miền đất nước ta.
Quốc hội khóa V được bầu ra ngày 6-4-1975. Không đầy một tháng sau, chiến dịch Hồ Chí
Minh đại thắng, cả miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Quốc hội ra sức chuẩn bị cho công
tác thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Một năm sau, tháng 4-1976, nhân dân cả nước đã
sôi nổi đi bầu một Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Trong ngày hội lịch sử của
non sông, ý chí của toàn dân tộc thể hiện trên những lá phiếu thiêng liêng; 98,77% số cử tri đi
bầu đã chọn lựa 492 đại biểu ưu tú của toàn dân. Ngày 24 tháng 6 năm 1976, Quốc hội chung
cả nước đã khai mạc kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội.
Trên suốt chặng đường 30 năm đấu tranh anh dũng của toàn dân tộc, Quốc hội đã hoàn thành
sứ mệnh thiêng liêng là người đại biểu đáng tin cậy của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao
nhất của đất nước, là nơi tập trung trí tuệ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao
động. Quốc hội đã thể hiện tinh thần đại đoàn kết, ý chí thống nhất đất nước và lòng quyết tâm
xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu rực rỡ, những trang sử vẻ
vang của Quốc hội nước ta gắn liền với từng bước đi của dân tộc được bắt đầu từ ngày 6
tháng 1 năm 1946, ngày tổng tuyển cử đầu tiên của nhân dân Việt Nam.
27-1-1973 Ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ

ở Việt Nam
Báo nhân dân số ra ngày chủ nhật 28-1-1973 đã in trên trang nhất những dòng chữ to, nét
đậm, in hai màu đỏ và đen nổi bật:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi vĩ đại.
Hiệp định Pa-ri đã được ký chính thức.
Từ 7 giờ sáng nay, chiến tranh chấm dứt ở cả hai miền nước ta.
Thế là "Chính nghĩa đã thắng phi nghĩa! ý chí bất khuất đã thắng bạo tàn! Việc đạt một Hiệp
định như vậy là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam" - như tuyên bố của Cố vấn đặc
biệt Lê Đức Thọ tại cuộc họp báo lớn vào chiều ngày 24-1-1973 ở thủ đô Pa-ri.
Trong những ngày tháng Giêng năm bảy mươi ba đó, tất cả các báo chí, các đài phát thanh và
vô tuyến truyền hình ở Pa-ri cũng như ở trên thế giới đều liên tiếp đưa tin về Hội nghị Pa-ri và
bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trung tâm các hội nghị quốc
tế ở đại lộ Clê-be đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận toàn thế giới.
Những ngày lịch sử nối tiếp nhau dồn dập.
Ngày 22-1-1973, các chuyên viên của Việt Nam và Hoa Kỳ so lại lần cuối củng các văn kiện đã
thỏa thuận xong giữa hai bên.
Ngày 23-1-1973, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Paris) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam đã được ký tắt giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kít-xinh-giơ.
Ngày 27-1-1973, đúng 11 giờ (giờ Paris) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam đã được ký chính thức giữa các bộ trưởng ngoại giao của các bên.
Cùng ngày, bốn Nghị định thư của Hiệp định cũng đã được ký kết.
Như thế là sau 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, cuộc
đấu tranh của nhân dân ta trân bàn thương lượng đã giành được thắng lợi. Tập văn bản Hiệp
định và Nghị định thư bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đã được thỏa thuận xong. Buổi lễ ký kết
đã diễn ra trong khung cảnh tranh nghiêm tại phòng họp lớn của trung tâm các hội nghị quốc tế
Clê-be. ở bên ngoài, dọc đại lộ Clê-be, hàng ngàn đại biểu Việt kiều và nhân dân Pháp đã nồng
nhiệt vỗ tay, vẫy cờ đỏ sao vàng và cờ xanh đỏ có sao vàng ở giữa, hô khẩu hiệu chào mừng
các đại biểu Việt Nam chiến thắng.
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa ký còn chưa ráo mực, đế quốc Mỹ đã
nhảy vào, nhanh chóng hất cẳng thực dân Pháp và âm mưu biến miền Nam nước ta thành

thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ đó, nhân dân ta đã phải đương đầu chống
lại tên đế quốc đầu sỏ, giàu mạnh nhất trong phe đế quốc chủ nghĩa, đã lần lượt đánh bại mọi
chiến lược chiến tranh cực kỳ tàn bạo và xảo quyệt của kẻ thù - chiến lược thống trị miền Nam
bằng những thủ đoạn điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chiến lược chiến tranh "đặc
biệt" chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến lược chiến tranh "Việt Nam hóa".
Năm 1968, sau những thất bại nặng nề của chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá
hoại ở miền Bắc, ngày 31-3-1968, tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã phải tuyên bố ném bom hạn chế
từ vĩ tuyến 20 trở vào; ngày 1-11, Mỹ phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Vì vậy, từ ngày 13-5-1968 ta đồng ý ngồi nói chuyện với Mỹ ở Pa-ri. Sau đó, khi Mỹ đã
phải chấp nhận đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng (từ 6-1969 là Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), hội nghị bốn bên đã được bắt đầu tư ngày 18-1-1969.
Những cuộc thương lượng đã kéo dài với cuộc đấu tranh hết sức gay go phức tạp, do phía Mỹ
luôn luôn theo đuổi chính sách "đàm phán trên thế mạnh", đòi ta phải chấp nhận những điều
kiện do Mỹ đặt ra. Năm 1969, sau khi lên cầm quyền, Ních-xơn đã thi hành chiến lược chiến
tranh "Việt Nam hóa", mở rộng và đẩy mạnh cuộc chiến tranh lên tới mức ác liệt nhất, hòng cứu
vãn tình thế nguy ngập của Mỹ và tay sai. Nhưng Mỹ vẫn thất bại và bọn tay sai ngày càng suy
sụp nghiêm trọng.
Tháng 10-1972, Mỹ đã phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam, do ta chủ động đưa ra. Ngày 22-10-1972, văn bản Hiệp định đã được
hoàn thành giữa ta và Mỹ. Nhưng, ngày ngày hôm sau, Mỹ lại tráo trở, lật lọng. Đầu tháng 12-
1972, Mỹ lại ngang ngược đòi sửa đổi nhiều điểm quan trọng trong nội dung Hiệp định, đồng
thời tính toán bước leo thang mới, hòng gây áp lực đối với ta trên bàn thương lượng.
Cuối tháng 12-1972, Ních-xơn tàn bạo và tráo trở đã huy động một lực lượng lớn không quân
chiến lược và chiến thuật mở cuộc tập kích đánh phá có tính chất hủy diệt dã man thủ đô Hà
Nội, thành phố cảng Hải Phòng và nhiều địa phương khác trên miền Bắc. Trong mười hai ngày
đêm đọ sức quyết liệt của trận "Điện Biên Phủ trên không" ấy, quân và dân ta đã bắn rơi 81
máy bay, trong đó có 34 chiếc B.52 và 5 chiếc F.111 - những con chủ bài cuối cùng của Mỹ.
Trước những thất bại hết sức nặng nề trong cuộc tập kích chiến lược ấy, bị lên án và cô lập
hơn bao giờ hết về chính trị trên thế giới và ngay cả trong nước Mỹ, tập đoàn Ních-xơn đã phải
từ bỏ thái độ "thương lượng trên thế mạnh", cuối cùng phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam vào

ngày 27-1-1973.
Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và
can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các
nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn
cứ quân sự.
Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt
Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng
tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.
Không bao lâu sau Hội nghị Pari, từ ngày 27-2 đến 2-3-1973, cũng tại trung tâm các hội nghị
quốc tế đại lộ Clê-be đã tiến hành Hội nghị quốc tế về Việt Nam. Với sự tham gia của các vị bộ
trưởng ngoại giao thay mặt 12 chính phủ (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hungari, Pháp, Hoa Kỳ, Anh ) và với sự có mặt của
ông Tổng thư ký Liên hợp quốc, Hội nghị đã chính thức ký "Định ước của Hội nghị quốc tế về
Việt Nam". Bản Định ước trịnh trọng ghi nhận, tuyên bố tán thành và ủng hộ Hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký ngày 27-1-1973 và bốn Nghị định thư kèm
theo, khẳng định rằng hiệp định và các Nghị định thư phải được tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh: công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Hiệp định Paris được ký ngày 27-1-1973 là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng
sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, nhất là sau hơn 18 năm kiên trì chiến đấu
chống Mỹ, cứu nước, vượt qua muôn vàn hy sinh gian khổ và ghi lại những trang rực rỡ nhất
trong lịch sử dân tộc.
Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần "không có gì quí hơn độc lập tự do" của sức mạnh đoàn kết
dân tộc trong cả nước, từ Bắc chí Nam. Là thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa Mác - Lê-ninbách
chiến bách thắng, của đường lối chính trị, quân sự và ngoại giao đứng đắn, sáng tạo của Đảng
ta.
Đó cũng là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ba nước Đông Dương - những người bạn chiến đấu
cùng chiến hào chống kẻ thù chung.

Đó cũng là thắng lợi có ý nghĩa thời đại của phong trào cách mạng thế giới, của các lực lượng
xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, của nhân dân yêu chuộng tự do, công
lý trên toàn thế giới.
Với việc ký kết Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phải chấp nhận những thất bại
hết sức nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân
kiểu mới đối với miền Nam nước ta. Ngay từ khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Mỹ - ngụy đã
liên tiếp vi phạm, phá hoại trắng trợn các điều khoản chủ yếu của bản Hiệp định. Chúng đã tiếp
tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên qui mô lớn bằng các kế hoạch cực kỳ tàn
bạo. Đế quốc Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự cho ngụy quyền tay sai, vẫn duy trì bộ máy
chỉ huy chiến tranh với hàng vạn cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự. Chúng ôm ấp
hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể ung dung xây dựng và củng cố chế độ
thực dân kiểu mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta.
Rõ ràng nhân dân ta không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của chúng. Để bảo vệ và thi hành Hiệp định Paris, quân và dân ta đã
trừng trị đích đáng mọi hành động phá hoại đầy tội ác của chúng, không những ở các nơi
chúng lấn chiếm mà còn ở tất cả các căn cứ xuất phát của chúng.
Thắng lợi vĩ đại, trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất vào mùa Xuân
năm 1975 của quân dân ta đã đập tan mọi hành động phá hoại của Mỹ - ngụy, lật đổ toàn bộ
chế độ kìm kẹp thực dân kiểu mới của chúng, và đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc
vẻ vang cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc.
3-2-1930 Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Pháp lại đẩy mạnh khai thác thuộc địa Đông
Dương. Xã hội Việt Nam tiếp tục phân hóa sâu sắc. Giai cấp nông dân bị phá sản khốc liệt. Giai
cấp tư sản dân tộc sinh sau đẻ muộn, bộc lộ sự non yếu về mọi mặt. Một bộ phận giai cấp tiểu
tư sản toan phất ngọn cờ tư tưởng tư sản để tập hợp quần chúng xung quanh Việt Nam Quốc
dân Đảng (thành lập tháng 12-1927). Nhưng vì bất lực cho nên sau cuộc bạo động non ở Yên
Bái (đầu năm 1930) tổ chức đó tan rã, và ngọn cờ phản đế, phản phong, ngọn cờ giải phóng
dân tộc chuyển hẳn về tay gai cấp vô sản.
Yêu cầu khách quan lúc này là giai cấp công nhân phải được tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê-nin để
trở thành giai cấp "Tự giác" vươn lên đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt

Nam.
Đó cũng là lúc đồng chí Nguyễn ái Quốc, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và cách mạng Việt
Nam tìm gặp chân lý của thời đại mới.
Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Mặc dù bị đế quốc bưng bít, xuyên tạc,
nhưng "nhân dân Việt Nam cũng thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm, có một dân tộc đã
đánh đuổi được bọn bóc lột và hiện đang quản lý lấy đất nước mình mà không cần tới bọn chủ
và bọn toàn quyền (lời Hồ Chủ tịch).
"Cho một bát vàng không bằng chỉ đàng làm ăn". Cách mạng Tháng Mười Nga đã giúp đồng
chí Nguyễn ái Quốc vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các
nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời. Sau này, phát biểu về cảm xúc của mình khi
đọc "luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, của Lê-nin, Người viết: "Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta". (Hồ Chí Minh - vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội). Tháng 12-
1920, tại Đại hội Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và
đồng thời là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sớm nhận thấy vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã đem hết
tinh thần và nghị lực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, chuẩn bị về chính trị và tư tưởng cho sự
ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam. Hàng loạt bài viết của Người đăng trên các báo và
tạp chí Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ
thực dân Pháp, trong suốt thời gian từ 1921-1926 đã chọc thủng tấm lưới thép của thực dân
Pháp, được chuyển về Việt Nam, lôi cuốn đặc biệt những người cách mạng trẻ tuổi đầy nhiệt
huyết ở nước ta đang khao khát con đường mới.
Tháng 12-1924, sau khi dự đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản, với bí danh là Lý Thụy,
Người về Quảng Châu, điểm nóng của cách mạng Trung Quốc, và làm việc dưới danh nghĩa
của phái bộ Bô-rô-đin, cố vấn Liên - Xô bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Chính ở đây, ngày 19-6-1924, liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã ném bom khách sạn Victory ở Sa-diện
nhằm giết tên toàn quyền Méc-lanh trên đường công cán đang dự tiệc. Việc không thành,
nhưng tấm gương của người anh hùng trên sông Châu như "chim én" báo hiệu mùa xuân".
Tháng 6-1925, trên cơ sở tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu và Tâm Tâm Xã, đồng chí

Nguyễn ái Quốc thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, trong đó hạt
nhân là Cộng sản Đoàn (lúc đầu có 7 người, cuối 1926 đã có 24 người, tiêu biểu như Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong ) Nhiều lớp huấn luyện chính trị được mở tại Quảng Châu
để đào tạo cán bộ tung về nước hoạt động. Tuần báo Thanh niên từ tháng 6-1926 và đặc việt
cuốn Đường cách mạng (xuất bản năm 1927) đã đề cập đến những vấn đề chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam được bí mật đưa về nước góp phần tích cực vào việc truyền bá
tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở trong nước.
Từ sau cuộc bãi công Ba Son (8-1925), phong trào công nhân đã vượt qua giai đoạn tự phát,
bước vào giai đoạn tự giác.
Đặc biệt từ mùa xuân 1928, thực hiện chủ trương vô sản hóa, các hội viên của Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội đã vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để tuyên truyền và tổ chức
công nhân. Địch phải thú nhận: năm 1929 có tới 43 cuộc bãi công lớn. Phong trào công nhân
trên thực tế đã trở thành lực lượng chính trị nòng cốt cho phong trào giải phóng dân tộc.
Trong khi đó, phong trào yêu nước và dân chủ của tiểu tư sản sau thời kỳ phát triển bồng bột
(như đòi tha cụ Phan Bội Châu tháng 12-1925, đám tang cụ Phan Chu Trinh tháng 3-1926)
đã dần dần thể hiện sự bất lực của tư tưởng tư sản và tiểu tư sản.
Phong trào Quốc gia cải lương, tiêu biểu là đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan
Long cũng đã từng bước đi vào con đường phản bội dân tộc, làm tay sai cho đế quốc.
Tình hình đó đòi hỏi cấp bách sự lãnh đạo của một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong nội bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, từ đầu 1929 đã diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa quan điểm vô sản và quan điểm tiểu tư sản xung quanh vấn đề thành lập
Đảng cộng sản ở Việt Nam. Tư tưởng vô sản đã chiến thắng.
Tháng 3-1929, tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) Chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời gồm 8
đồng chí: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu
Đầu tháng 6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) 20 đại biểu cộng sản Bắc Kỳ quyết
định lập Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Mấy tháng sau, An nam Cộng sản Đảng ra đời tại Nam Kỳ (10-1929). Dưới ảnh hưởng của
những sự kiện ấy, một tổ chức yêu nước, tiến bộ, thành lập ở Trung Kỳ giữa năm 1925, lấy tên
là Tân Việt cách mạng Đảng, sau lại đổi tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1-1930).
Như thế là đầu năm 1930 ở nước ta có 3 tổ chức đều tự nhận là cộng sản và đều tìm cách

tranh thủ sự thừa nhận của Quốc tế Cộng sản. Trong khi tuyên truyền vận động quần chúng,
ba tổ chức không khỏi công kích, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng.
Ngày 27-10-1929, Ban chấp hành Quốc tế cộng sản chỉ thị: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp
bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có
tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có tính quần chúng ở Đông
Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương".
Ngày 3-2-1930 (mùng 5 tết Canh Ngọ) công nhân Phú Riềng chiếm đồn điền trong một ngày -
Ngày Tự Do đầu tiên! Cũng ngày đấy, đồng chí Nguyễn ái Quốc với bí danh là Vương, thay mặt
Quốc tế cộng sản chủ trì hội nghị thống nhất Đảng tại một ngôi nhà nhỏ xóm lao động thuộc
Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) gồm đồng chí Vương (Bác Hồ), đại biểu Đông
Dương Cộng Sản Đảng (Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu), đại biểu An Nam Cộng Sản
Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu). Tân Việt mới chuyển thành cộng sản không kịp cử
đại diện.
Thế là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hôm ấy, chính cương và sách lược vắn tắt do đồng chí
Nguyễn ái Quốc thảo cùng với Điều lệ đảng được thông qua. Hội nghị còn cử Ban trung ương
lâm thời đại diện cho 211 đảng viên của toàn Đảng.
Đảng ta ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của dân tộc vào cuối những năm 20 của thế kỷ này.
Đảng ta ra đời là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam
Đảng ta ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho thời kỳ vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy
vọt vĩ đại nhất trong lịch sử tiến hòa của dân tộc Việt Nam.
Tháng 10-1930, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất, cùng với việc thông qua
bản Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng khởi thảo,
Đảng ta mang tên mới là Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngay lúc đó, Đảng ta đã lãnh đạo cao trào 30-31 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Tháng 3-1935, sau cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp, tại Ma Cao (tô giới Bồ Đào Nha
trên đất Trung Quốc) Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã họp để chuẩn bị cho một cao trào mới.
Tháng 8-1945 chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành
công, mở ra kỷ nguyên độc lập tự don ở nước ta. Đó là kết quả vĩ đại của cả quá trình 15 năm
đấu tranh kể từ khi Đảng ta ra đời (1930-1945).

Tiếp đó, Đảng ta lại lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 - 1954). Đảng ta ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tháng 2-
1951, tại khu rừng thuộc xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ hai của Đảng đã họp, nhằm đưa công cuộc Kháng chiến - Kiến quốc đến
thắng lợi. Ngày 3-3-1951, Đảng ta ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng lao Động Việt
Nam, tổng số đảng viên đã lên đến 76 vạn đồng chí.
Giai đoạn 1954-1975 Đảng ta tiếp tục lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu đầy gian
khổ nhưng vô cùng oanh liệt chống Mỹ, cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
đồng thời giương cao hai ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Qua cuộc đấu tranh vĩ
đại ấy, lực lượng của Đảng lớn mạnh hơn bao giờ hết, vượt qua mọi thử thách hy sinh, thực sự
là lực lượng tiên phong của cách mạng.
Tháng 9-1960, tại thủ đô Hà Nội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba, đại hội xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà đã khai mạc trọng thể. Đại hội đã nhất trí thông
qua đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại thành công, tháng 12-1976, trong không
khí phấn khởi của đất nước vừa thống nhất, Đại hội Đảng lần thứ IV đã họp, nhằm vạch ra con
đường đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với đội ngũ trùng điệp 1 triệu 50 vạn đảng viên,
Đảng ta trở lại với cái tên buổi đầu của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong quanh
vinh của giai cấp và dân tộc, chuẩn bị đưa Tổ quốc ta đi tới những thắng lợi huy hoàng hơn
nữa.
4-2-1977 Ngày thống nhất các tổ chức mặt trận thành mặt trận tổ quốc Việt
Nam.
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công".
Đó là lời căn dặn thiêng liêng của Bác Hồ đối với nhân dân ta, là truyền thống vô cùng quý báu
của dân tộc ta.
Trải qua quá trình cách mạng lâu dài, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết
trong các Mặt trận thống nhất với những cương lĩnh trính trị, hình thái tổ chức và tên gọi khác
nhau phù hợp với các thời kỳ lịch sử, đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này

đến thắng lợi khác và ngày càng thắng lợi rõ hơn.
Đó là Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương (Hội Phản đế Đồng Minh), Mặt trận dân chủ Đông
Dương, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng
Minh (Việt Minh) trong thời kỳ 1930-1945 đã đưa tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
vĩ đại và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đó là Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam trong thời kỳ 1946 - 1954 đã làm nên
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến
thắng lợi vẻ vang.
Đó là mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên
minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam trong thời kỳ 1955-1975 đã đi tới
thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đánh thắng hoàn toàn
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng nước ta đã
chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa. Nhân dân cả nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của
chủ nghĩa xã hội.
Những nhiệm vụ chính trị to lớn và nặng nề đó đòi hỏi Mặt trận thống nhất của dân tộc phải có
bước phát triển mới, không ngừng được củng cố và mở rộng, thật sự trở thành Mặt trận của
những người yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.
Trong niềm vui đại thắng của đất nước, ngày 31-1-1977 Đại hội đại biểu Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Việt Nam đã được triệu tập tại TP Hồ Chí Minh. Gần 500 đại biểu thay mặt cho Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên Minh các lực
lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, thay mặt cho các chính đảng, các đoàn thể,
quân đội, nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ trí thức, các nhà công thương đã
tham dự Đại hội. Đó là hình ảnh tiêu biểu rực rỡ của khối đại đoàn kết toàn dân.
Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng đã đọc lời khai mạc Đại
hội.
Trong ngày làm việc đầu tiên, Đại hội đã được nghe đồng chí Lê Duẩn, Tổng bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát biểu ý kiến.

Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị, Chương trình chính trị và Dự thảo Điều lệ của Ban trù bị đại
hội.
Các đại biểu của các chính đảng, các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn
giáo, các nhân sĩ đã phát biểu ý kiến, khẳng định ý chí đoàn kết sắt đá, quyết tâm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong phiên họp bế mạc, chiều ngày 4-2-1977, Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng:
Nghị quyết của Đại hội về tên gọi, về Chương trình chính trị và Điều lệ của Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Việt Nam.
Nghị quyết của Đại hội đã hoàn toàn nhất trí việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền nam Việt Nam và Liên minh Các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt
Nam thống nhất lại thành Mặt trận dân tộc duy nhất, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm
đoàn kết tất cả các chính đảng, các đoàn thể cách mạng, các giai cấp tiến bộ, các dân tộc, các
tôn giáo, các nhân sĩ ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài củng nhau phấn đấu xây dựng Tổ
quốc Việt Nam Hòa bình, Độc lập, Thống nhất và Xã hội Chủ nghĩa.
Đại hội đã thông qua Chương trình chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 8 điểm quan
trọng.
1 - Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
2 - Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
3 - Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
4 - Chăm sóc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
5 - Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
6 - Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền và tôn trọng tự do tín ngưỡng.
7 - Tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.
8 - Đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã thông qua Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựa trên các nguyên tắc: bảo đảm
đoàn kết rộng rãi tất cả các lực lượng yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và dựa trên cơ sở liên minh công nông; tăng cường thống
nhất hành động trong Mặt trận, phát huy vai trò tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đã cử ra ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 191 vị tiêu biểu cho khối

đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đã nhất trí cử Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch danh dự của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đoàn chủ tịch của
ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 54 vị, do đồng chí Hoàng Quốc Việt làm
chủ tịch.
Đại hội đã ra lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ở nước ngoài. Lời kêu gọi
có đoạn viết: "Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả
nước, đã đoàn kết hãy đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa, nêu cao ý thức tự lực tự cường, khí phách anh hùng và tinh thần cách mạng
tiến công, ra sức thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chương trình Chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!"
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất đã kết thúc tốt đẹp và thành công rực rỡ.
"Mặt trận Tổ quốc ngày nay là sự tập hợp rộng lớn của nhân dân nước Việt Nam độc lập, thống
nhất đã làm chủ hoàn toàn đất nước của mình đã bước vào một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên xã
hội chủ nghĩa và là một bảo đảm thắng lợi của cuộc cách mạng mới".
Trước đây với sức mạnh đại đoàn kết vĩ đại nhân dân ta đã chiến thắng hai tên đế quốc xâm
lược là Pháp và Mỹ. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đoàn kết toàn dân để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội - sự
nghiệp của đông đảo quần chúng lao động.
8-3-1911 Ngày quốc tế phụ nữ
Hội nghị quốc tế phụ nữ xã hội chủ nghĩa năm 1910, họp tại Cô-pen-ha-gen, thủ đô nước Đan
Mạch, đã thông qua một quyết nghị quan trọng: Ngày 8 tháng 3 hàng năm được chọn làm ngày
Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ thế giới. Đề nghị của ba nhà hoạt động
xuất sắc là Rô-la Lúc-xăm-bua (Ba Lan), Cla-ra Xét-ki-kin (Đức) và Cơ-rúp-xkai-a (Nga) được
100 đại biểu phụ nữ của 17 nước nhất trí tán thành.
Lịch sử ngày 8-3 bắt nguồn từ thành phố Si-ca-gô, một trung tâm công nghiệp của Mỹ, nơi đã
từng xuất phát cuộc đấu tranh ngày Một tháng Năm năm 1886.
Cũng như ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa khác, lao động phụ nữ và trẻ em ở Mỹ bị coi rẻ, đồng
lương thấp kém, điều kiện ăn ở thiếu thốn. Công nhân đã bị bóc lột nặng nề thì ngường công
nhân phụ nữ lại càng vất vả, cùng cực. Ngày 8-3-1899, nữ công nhân ngành dệt và ngành may
ở Si-ca-gô đã tiến hành bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặt dầu bị bọn cầm quyền

khủng bố dữ dội, chị em công nhân Si-ca-gô được công nhân toàn quốc ủng hộ vẫn không chịu
lùi bước. Họ buộc chủ phải chấp nhận yêu sách của họ nhằm cải thiện điều kiện lao động và
sinh hoạt.
Thắng lợi bước đầu đã khích lệ phong trào đấu tranh của nữ công nhân ở Mỹ và ở nhiều nước
trên thế giới. Năm 1909 nhân dân Mỹ đã tổ chức "Ngày phụ nữ" bằng những cuộc mít tinh, biểu
tình đòi quyền lợi cho phụ nữ. Riêng ở thành phố New York, cuộc họp của hơn 3000 phụ nữ đã
quyết nghị phản đối chính phủ Mỹ không công nhận quyền bầu cử của họ.
Nghị quyết năm 1910 của Hội nghị quốc tế phụ nữ xã hội chủ nghĩa đã nêu cao khẩu hiệu ngày
làm việc 8 giờ, công việc ngang nhau thì tiền lương ngang nhau so với nam giới, bảo vệ bà mẹ
và trẻ em, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Năm sau, đúng vào ngày 8 tháng 3, nữ công
nhân cùng với phụ nữ các ngành, các giới nhiều nước đã đứng lên tranh đấu. Nhiều cuộc mít
tinh, biểu tình, bãi công nổ ra ở các nước châu Âu như Pháp, Anh, áo, ý, Đức, Đan Mạch
Trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đông đảo phụ nữ các nước lên tiếng
phản đối bọn đế quốc, đòi ngăn chặn cuộc chém giết tàn bạo chỉ đem lại lợi nhuận cho bọn tư
sản.
Nước Nga xô- viết, quê hương của Cách mạng tháng Mười, Tổ quốc của Lê-ninvĩ đại, là nơi
đầu tiên thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Hiến pháp nhà nước xô- viết ghi nhận các quyền
chính trị, quyền lao động và học hành, quyền tự do bình đẳng của phụ nữ. Trong xã hội đó,
người phụ nữ Xô viết cũng mang hết khả năng của mình để phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Lực lượng phụ nữ thế giới đã từng đấu tranh sôi nổi chống chủ nghĩa phát xít và đòi ngăn ngừa
nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ lần thứ hai. Để bảo vệ đất nước thân yêu, phụ nữ nhiều
nước đấu tranh đòi hòa bình, công lý và bình đẳng. Nhiều chị em đã hiên ngang ngã xuống
trước mũi súng bọn phát xít để bảo vệ nền độc lập Tổ quốc và gìn giữ tương lai tươi đẹp của
con em.
Cuối năm 1945, hội nghị quốc tế phụ nữ đã quyết định thành lập "Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế
giới". Đó là một tổ chức rộng rãi bao gồm phụ nữ các ngành nghề, không phân biệt chủng tộc,
dân tộc, tôn giáo, chính kiến, đấu tranh bảo vệ các quyền bình đẳng, chống áp bức bóc lột. Liên
đoàn đã đưa ra các yêu sách đòi trả lương ngang nhau đối với những công việc như nhau, đòi
ban hành các chính sách bảo hiểm cho lao động phụ nữ, đòi đề ra những biện pháp thiết thực

bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Năm 1953, Đại hội quốc tế phụ nữ đã thông qua bản "Tuyên ngôn về quyền phụ nữ", nêu lên
các yêu sách cơ bản và đồng thời là cương lĩnh đấu tranh của chị em thế giới. Số thành viên
tham gia vào Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới ngày càng đông đảo. Đặc biệt là phụ nữ các
nước mới giành được độc lập châu á, châu Phi và Mỹ la tinh đã đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong phong trào. Năm 1975 được coi là "Năm phụ nữ" nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh
của phụ nữ thế giới.
Từ năm 1948, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn
phụ nữ dân chủ thế giới Phụ nữ Việt Nam đóng góp tích cực vào phong trào phụ nữ thế giới
bằng cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc, phụ nữ Việt
Nam được chị em phụ nữ thế giới tin yêu và mến phục. Tấm gương chiến đấu dũng cảm của
nhiều chị em đã trở thành nguồn cổ vũ mãnh liệt đối với phụ nữ nhiều nước trong cuộc đấu
tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam hoạt động không
mệt mỏi cho sự đoàn kết chặt chẽ giữa các lực lượng phụ nữ thế giới, cho sự hiểu biết lẫn
nhau và cùng nhau đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, Liên đoàn
phụ nữ dân chủ thế giới đã tỏ thái độ đồng tình và ủng hộ thiết thực phong trào phụ nữ nước ta.
Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước vừa qua, chúng ta nhận được sự viện trợ nhiệt tình
về tinh thần và vật chất của Liên đoàn và của nhiều tổ chức phụ nữ trên thế giới.
ý nghĩa ngày 8 tháng 3 ngày càng khắc sâu vào ý thức của các tầng lớp nhân dân lao động.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ngày 8 tháng 3 được coi như ngày hội biểu dương lực lượng
của chị em chúng ta trong sản xuất và công tác, ngày động viên toàn thể chị em đem hết sức
lực đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nước, ngày đoàn kết phụ nữ thế giới trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ.
11-3-1945 Khởi nghĩa Ba Tơ
Ba Tơ là một châu miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nay là tỉnh Nghĩa Bình). Tại đây, thực dân
Pháp xây dựng một đồn sơn phòng do một tên sĩ quan Pháp chỉ huy và một "căng" giam tù
chính trị. Các đồng chí bị an trí ở "căng" này đã thành lập một chi bộ Đảng.
Quảng Ngãi lúc đó là tỉnh có phong trào cách mạng cao nhất ở Trung Bộ. Trước cuộc đảo
chính Nhật - Pháp (9-3-1945), cơ sở quần chúng đã chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa.
Trưa ngày 10 tháng 3 năm 1945, Ba Tơ nhận được tin Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp. Ngay

tối hôm đó, chi bộ quyết định lãnh đạo khởi nghĩa. Hội nghị cử ra một ủy ban khởi nghĩa, định
chương trình và kế hoạch hành động.
Chiều 11 tháng 3, hai cuộc mít tinh lớn do ta tổ chức tại sân vận động Ba Tơ rồi biến thành
cuộc biểu tình tuần hành thị uy kéo đến đồn Ba Tơ. Bọn chỉ huy Pháp và một số tên bỏ đồn
chạy trốn, chỉ còn lại tên cai đồn và đám lính tập. Sau khi quân khởi nghĩa bao vây, lính địch
đầu hàng, ta thu 17 súng, 15 thùng đạn và nhiều quân trang, quân dụng.
Ngày 12 tháng 3, Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tổ chức một cuộc mít tinh, thành lập chính quyền
cách mạng của nhân dân.
Ngày 14 tháng 3, đội du kích Ba Tơ chính thức được thành lập gồm 28 chiến sĩ với 24 khẩu
súng. Đây là đội võ trang thoát ly đầu tiên do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo ở Trung Trung Bộ.
Tháng 4 năm 1945, đội du lích hoạt động ở một vùng đồng bào Thượng trên dãy Trường Sơn
hiểm trở. Quân Nhật tìm cách truy lùng hòng tiêu diệt đội du kích đang còn trong thời kỳ trứng
nước.
Đội đã phải chịu đựng muôn vàn khó khăn gian khổ. Từ cán bộ đến chiến sĩ, ai nấy đều giữ
trọn lời thề trong ngày thành lập quyết "hy sinh vì Tổ quốc". Trong hoàn cảnh gay go thiếu thốn,
đội du kích Ba Tơ đoàn kết keo sơn, gắn bó quân dân. Nằm trong cái nôi vững chắc của đồng
bào Thượng, đội du kích mới lọt lòng đã bảo toàn được lực lượng trước thế lực hung hãn của
kẻ thù.
Đầu tháng 5 năm 1945, Tỉnh ủy Quảng Ngãi cử đồng chí Nguyễn Chánh làm chính trị viên cùng
với các đồng chí Phạm Kiệt và Nguyễn Đôn - những người trực tiếp lãnh đạo Ba Tơ khởi nghĩa
- chỉ huy đội du kích. Chi bộ Đảng cũng được thành lập, do đồng chí Nguyễn Chánh làm bí thư.
Lúc này phong trào toàn tỉnh đã lên cao, tổ chức cứu quốc của toàn tỉnh đã có tới 11 vạn
người, số tự vệ tới 2000 người, Tỉnh ủy quyết định đưa đội du kích về châu hoạt động làm nòng
cốt cho việc xây dựng 2 chiến khu ở trong châu: Chiến khu Bắc ở vùng Vĩnh Tuy (Sơn Tịnh) và
Chiến khu Nam ở vùng Núi Lớn (Mộ Đức).
Về Trung châu, các chiến sĩ du kích Ba Tơ tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng, huấn
luyện cho các chiến sĩ tự vệ cứu quốc, du kích địa phương.
Đội du kích Ba Tơ trở thành trung tâm của cao trào chống Nhật cứu nước ở miền Trung Trung
bộ và là hạt nhân của các lực lượng vũ trang liên khu V sau này.
Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ là một dẫn chứng hùng hồn của tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo

của tổ chức cơ sở Đảng và tinh thần cách mạng triệt để của nhân dân ta, đã đi vào lịch sử đấu
tranh anh dũng của dân tộc ta.
19.3.1950 Ngày toàn quốc chống Mỹ
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia ngày
càng giành được những thắng lợi to lớn về mọi mặt. Bọn thực dân Pháp ngày càng thua thiệt
nặng nề và đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.
Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ đã công khai và ráo riết tiến hành can thiệp vào Đông Dương.
Âm mưu của đế quốc quốc Mỹ là gạt dần thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương, và biến khu vực
này thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ 1950, bọn Mỹ đủ loại: tướng tá,
gián điệp, nghị sỹ, nhà kinh doanh và cả cố đạo, lũ lượt kéo vào Việt Nam. Chúng ngày càng
gánh chịu phần chủ yếu về chiến phí của cuộc chiến tranh.
Tháng 3, Gríp-phin cầm đầu phái đoàn viện trợ của Mỹ tới Đông Dương để nghiên cứu tình
hình kinh tế và viện trợ cho Đông Dương.
Nghiêm trọng hơn, ngày 16 tháng 3 năm 1950, lần đầu tiên Mỹ cho hai tàu chiến Xtích-Ken và
An-đớc-xơn cặp bến Sài Gòn. Đồng thời, chúng lại đưa hàng không mẫu hạm Bốc-xơ chở
hằng trăm máy bay chiến đấu kéo vào vùng biển Đà Nẵng. Đây là một hành động can thiệp và
đe dọa trắng trợn. Bọn chúng dự định tổ chức một cuộc thao diễn quân sự lớn để diễu võ
giương oai, phô trương thanh thế, uy hiếp tinh thần nhân dân ta, đồng thời nâng đỡ tiếp sức
cho thực dân Pháp và đẩy mạnh những hoạt động can thiệp của chúng.
Các tầng lớp nhân dân ta theo dõi chặt chẽ, hết sức căm phẫn những hành động can thiệp đầy
tội ác của Mỹ, quyết trả lời chúng một cách đích đáng nhất, mạnh mẽ nhất.
Ngay sau khi Gríp-phin chân ước chân ráo tới Sài Gòn, lựu đạn đã nổ quanh khách sạn Công-
ti-năng-tan, nơi ở của hắn. Đồng thời, hàng chục trái đạn súng cối của các lực lượng vũ trang
nhân dân ta tới tấp nã vào hai tàu chiến Mỹ đang đậu trên sông Thủ Thiêm, buộc chúng phải
thay đổi chỗ đậu nhiều lần.
Để phối hợp với những hoạt động của các lực lượng vũ trang, Thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn
quyết định tổ chức một cuộc đấu tranh của nhân dân toàn thành phố chống bọn can thiệp Mỹ,
vào sáng chủ nhật 19-3-1950. Đó là cuộc biểu dương to lớn ý chí độc lập bất khuất và sức
mạnh đoàn kết của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ can thiệp, đồng thời kết hợp đòi các quyền
tự do dân chủ, dân sinh: chống khủng bố, tự do ngôn luận, chống thất nghiệp, cải thiện đời

sống.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, nhân dân các giới khắp nơi trong nội ngoại thành sôi nổi
hưởng ứng và ráo riết chuẩn bị bằng cờ, khẩu hiệu, truyền đơn và bố trí đội ngũ. Đêm 18.3,
bọn cảnh sát đánh hơi biết tin nhưng chúng đã bất lực không sao ngăn chặn nổi làn sóng đấu
tranh của quần chúng nhân dân.
Ngày 19.3.1950
Từ 3 giờ sáng, những đoàn người rầm rập từ mọi nơi-Chợ Lớn, Bàn Cờ, Bà Chiểu, rồi Cầu
Ông Lãnh, Cột Cờ Thủ ngữ đều đổ về địa điểm tập trung: Sân trường Tôn Thọ Tường (ở ngã
tư các đường Ga-li-ê-ni và Kít-sơ-nè-nay là ngã tư đường Trần Hưng Đạo và Nguyễn Thái
Học).
Đến 6 giờ 30 phút, hơn một vạn người với rừng cờ và biểu ngữ đã về tựu chung quanh địa
điểm mít tinh. Bọn Pháp và bù nhìn vội vã huy động quân lính và cả môtô, ôtô, xe tăng đến bao
vây. Chúng ra lệnh giải tán và đe dọa khủng bố. Nhưng quần chúng không hề nao núng.
8 giờ sáng-đúng giờ quy định-cuộc mít tinh bắt đầu. Số người lúc này đã lên tới 15 vạn, bao
gồm đông đủ các tầng lớp nhân dân: công nhân, dân nghèo, học sinh, sinh viên, trí thức và cả
các thương gia. Một số viên chức cũng tham gia. Quần chúng đã nhiệt liệt hoan nghênh luật sư
Nguyễn Hữu Thọ tới tham dự cuộc mít tinh. Chính luật sư là người đã bác bỏ yêu cầu của Mai
Hữu Xuân, "Giám đốc cảnh sát Nam phần" vào tối ngày 18, đòi đình chỉ cuộc biểu tình đấu
tranh. Sân trường Tôn Thọ Tường vang động những tiếng hô khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc Mỹ
can thiệp!" Đả đảo viện trợ Mỹ!". "Đế quốc Mỹ cút đi", "ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh".
Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng. Xiết chặt đội ngũ của mình,
dòng người như thác đổ từ địa điểm mít tinh tràn ra các đại lộ chính của thành phố: đường Ga-
li-ê-ni, Chợ Bến Thành, đại lộ Bô-na (nay là đường Lê Lợi), đại lộ Sác-ne (nay là đường
Nguyễn Huệ) Trên đường tuần hành, số người mỗi lúc càng thêm đông: người đi đường
nhập vào, người trong nhà ùa theo, thậm chí một số binh lính địch cũng bỏ lon, cởi áo gia nhập.
Chẳng bao lâu, đoàn biểu tình đã lên tới 30 vạn, rồi 50 vạn người. Nhiều nhà trong thành phố
cũng tự động treo cờ hưởng ứng cuộc đấu tranh.
Tại ngã tư đường Mác-ma-hông Bô-na (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Lê Lợi), một toán
lính thủy Mỹ đã hoảng sợ bỏ chạy trước khí thế mãnh liệt của đoàn biểu tình.
Tình hình ngày càng căng thẳng. Lính Pháp và bọn cảnh binh tay sai nổ súng bắn vào quần

chúng. Nhiều người bị chết, bị thương và hàng chục người bị bắt. Nấp sau "Những chiến lũy"
được dựng lên nhanh chóng bằng các xe ôtô buýt, xe vận tải, ghế đá công viên, bàn ghế tiệm
ăn và cả củi của chuyến xe lửa vừa chạy tới bị chặn lại, quần chúng chống trả kịch liệt bằng
gạch, đá, củi.v.v
Quần chúng vẫn tiến tới như triều dâng thác đổ! Cờ Mỹ, cờ Pháp, cờ ba que của tay sai và ảnh
tên bù nhìn Bảo Đại ở nhiều nơi bị giật xuống, xé nát và quăng vào lửa. Xe của lính Pháp bị
quật đổ sang bên đường. Một lá cờ đỏ sao vàng lớn được giương cao, bay phất phới trên nóc
nhà thị chính. Tại đây, tên thiếu tá Pháp Pe-ri-ơ láo xược giật cờ đỏ sao vàng trong tay quần
chúng ném xuống đất đã bị đánh chết ngay tại chỗ. Chiếc xe "giép" của hắn cũng bị đốt cháy
ngay.
Cuộc biểu tình khổng lồ của 50 vạn nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn đã kéo dài từ 8 giờ sáng đến 3
giờ chiều.
Đoàn biểu tình kéo xuống tận bến tàu, nơi hai chiếc tàu chiến Mỹ đang thả neo. Bọn Mỹ hoảng
sợ, chạy hết lên tàu. Cờ Mỹ trên tàu vội vàng hạ xuống. Và ngay đêm hôm đó, hai chiếc Xtích-
ken và An-đớc-xơn vội vã, không kèn không trống chuồn khỏi Sài Gòn.
Cuộc biểu tình khổng lồ ngày 19.3.1950 của nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn chống bọn can thiệp
Mỹ đã có tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước. Các tờ báo lớn tại Pháp như: "Nhân Đạo",
"Chiến đấu" đều đưa tin và vạch rõ sự thất bại, bất lực của bọn thực dân Pháp và bù nhìn tay
sai. Từ Việt Bắc, báo "Sự Thật" số ra ngày 1-4-1950, đã đăng bài xã luận với nhan đề "Tinh
thần yêu nước của đồng bào Sài Gòn muôn năm" nhằm biểu dương kịp thời tinh thần đấu tranh
bất khuất của nhân dân Thành đồng Tổ quốc.
Cuộc biểu tình ngày 19.3.1950 đã đi vào lịch sử dân tộc- "Ngày toàn quốc chống Mỹ", biểu hiện
ý chí kiên cường và sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong cuộc chạm trán quyết liệt đầu tiên
với đế quốc Mỹ. Cuộc biểu tình ngày 19.3.1950 đã biểu hiện sự sáng suốt của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngay từ đầu đã nhìn thấy rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc và
của loài người, kiên quyết đấu tranh chống lại chúng. Từ đó và kéo dài trong suốt một phần tư
thế kỷ, sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua những chặng đường cực kỳ
gian khổ nhưng hết sức vẻ vang, đã ghi lại những chiến công hiển hách nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc.
Và nhân dân ta đã toàn thắng!

Đế quốc Mỹ can thiệp và xâm lược đã hoàn toàn thất bại!
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ trước đây, hằng năm đến ngày 19.3, nhiều Tổ chức quốc
tế và nhân dân nhiều nước đã phát động những "Tuần quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt
Nam", ủng hộ nhân dân ta, chống đế quốc Mỹ xâm lược.
19 tháng 3 đã trở thành một biểu tượng chống Mỹ và thắng Mỹ của nhân dân Việt Nam anh
hùng!
19 tháng 5 cũng đã trở thành một biểu tượng của tình đoàn kết quốc tế của nhân dân thế giới
và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh đế quốc Mỹ- kẻ thù số I của loài người tiến bộ!.


26-3-1931 Thành lập đoàn thanh niên cộng sản đông dương nay là đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh
Đảng ta trong quá trình thành lập đã rất chú ý đến vai trò thanh niên. Đó cũng là điều Hồ Chủ
tịch hết sức quan tâm.
Ngay khi cho xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, trong phần phụ lục nhan đề
Gửi thanh niên Việt Nam Hồ Chủ tịch đã kêu gọi tha thiết: "Đông Dương đáng thương hại,
Người sẽ nguy mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh".
Tháng 12-1924, Hồ Chủ tịch về Quảng Châu khi những điều kiện cho việc thành lập một tổ
chức cánh mạng đã chín mùi. Tháng 6-1925, một năm sau tiếng bom của liệt sĩ Phạm Hồng
Thái, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng minh Hội được thành lập. Ngay lúc ấy, Người đã
thành lập nhóm Thanh niên cộng sản đoàn làm nòng cốt cho Việt Nam Thanh niên đồng chí
Hội, lúc đầu chỉ có 9 người, cuối 1926 đã lên đến 26 người, trong đó có các đồng chí như: Hồ
Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, công tác thanh niên trong nước xuất hiện ở nhà máy xi
măng và trường trung học Bon - Nan (nay là trường Ngô Quyền) ở Hải Phòng. Chi bộ Thanh
niên Cộng sản nhà máy xi măng có 10 đoàn viên, ra báo bí mật lấy tên là Tia Lửa.
Trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, tổ chức Thanh niên Cộng sản phát triển mạnh, tuy vậy vẫn
sinh hoạt chung với chi bộ Đảng, chưa có tổ chức độc lập và thống nhất.
Nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 họp vào cuối tháng 3-1931 ở Sài Gòn đã
nhấn mạnh: " tổ chức ra Thanh niên cộng sản đoàn là nhiệm vụ để thâu phục một bộ phận

quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải quyết". Do đó Đảng
chủ trương thống nhất các tổ chức thanh niên thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương,
nhằm thu hút thanh niên phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Ngày 20 tháng 4 năm 1931, từ nước ngoài, đồng chí Nguyễn ái Quốc gửi thư cho Trung ương
Đảng đã nhắc nhở việc thống nhất nhanh chóng các tổ chức thanh niên.
Cuối tháng 4-1931, từ nước ngoài, ở Trung Kỳ Xứ ủy Đoàn được thành lập trên cơ sở các
Đoàn Uỷ ban Cán Sự Đoàn các cấp. Riêng Nghệ An và Hà Tĩnh, đã hình thành các Tỉnh ủy
Đoàn và Huyện ủy đoàn khá hoàn chỉnh. Lúc này Đoàn đã có khoảng 2000 đoàn viên
Sau đó, trong phiên họp lần thứ 10 (9-1960) và thứ II (I-1961), của Ban chấp hành Trung ương
Đoàn, qua nghiên cứu thực tế lịch sử trong thời kỳ thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông
Dương đã thấy rõ tác dụng to lớn của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết
Trung ương Đoàn lần thứ hai đã quyết định chọn ngày 26 tháng 3 - ngày mở đầu hội nghị - làm
ngày kỷ niệm sinh nhật Đoàn. Quyết định này được đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba (3-1961)
thông qua.
Từ năm 1931 đến năm 1935 Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương tiếp tục phát triển ở Cao
Bằng, Lạng Sơn, Nam Bộ. Tháng 3-1935 tại Đại hội Đảng lần thứ ở Ma Cao (Trung Quốc),
Chương trình hành động của Đoàn công bố từ 1933 được công nhận chính thức và Đại hội
cũng đề xuất việc triệu tập Đại hội Đoàn toàn quốc. Nhưng do tình hình thay đổi, đại hội đã
không họp được.
Tháng 5-1936 khi Đảng ta ra công khai và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương thì cùng
năm đó, Đoàn thanh niên dân chủ cũng được thành lập trên cơ sở Đoàn thanh niên cộng sản
Đông Dương. Ngày 5-5-1938, đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn thanh niên dân chủ đã họp
ở Hà Nội và bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đoàn.
Tháng 9-1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp tại Sài
Gòn (II-1939) dưới sự điều khiển của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí thư Đảng, đã chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung mũi nhọn đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc, lập Mặt
trận phản đế Đông Dương. Từ đầu 1940, đảng đã thành lập Đoàn thanh niên phản đế. Đoàn
thanh niên phản đế đã tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (II-1940).
Hội Nghị trung ương lần thứ 8 (5-1941) do đồng chí Nguyễn ái Quốc triệu tập tại lán Khuổi Nậm
(Cao Bằng) đã thành lập Mặt trện Việt - Minh và các đoàn thể cứu quốc. Ngày 20-4-1941, Đoàn

thanh niên cứu quốc Việt Nam thành lập. Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng 8, Đoàn
thanh niên cứu quốc Việt Nam là lực lượng chiến đấu xung kích.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) biết bao đoàn viên thanh niên cứu quốc đã
hy sinh anh dũng như: Võ Thị Sáu, Cù Chính Lan, Trần Văn Ơn
Sau khi hòa bình lập lại, trong phiên họp vào tháng 9-1955, Bộ chính trị trung ương Đảng đã
chủ trương đổi tên Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam thành Đoàn thanh niên lao động Việt
Nam. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 2 của Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam (II-1956), Đoàn
đã chính thức mang tên Đoàn thanh niên lao động Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam là lực lượng đầu
tàu xung kích xây dựng chủ nghĩa xã hội với khẩu hiệu "Sống chiến đấu theo gương những
người cộng sản" và "Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch năm năm". Đại hội Đảng lần
thứ 3 (9-1960) đã xác nhận "thanh niên là lớp người xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản nước ta".
Đầu tháng 9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, người Bác kính yêu của thế hệ trẻ Việt Nam qua đời. Ban chấp hành trung ương Đảng
họp phiên bất thường và quyết định: Đoàn thanh niên lao động Việt Nam, Đội thiếu niên tiền
phong, Đội nhi đồng Tháng Tám được mang tên Bác.
Từ đây Đoàn mang tên Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh, một vinh dự và trách nhiệm
lớn của Đoàn và thế hệ trẻ nước ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thế hệ trẻ Việt Nam ở cả 2 miền Nam Bắc đã
dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đã viết lên những trang sử sáng ngời
chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Sau chiến thắng đầu xuân 1975, Mỹ cút, ngụy nhào, Tổ quốc thống nhất, non sông về một mối.
Tháng 6-1976, tại TP Hồ Chí Minh. Ban chấp hành trung ương Đoàn họp phiên thứ 22, thống
nhất tổ chức đoàn cả nước với tên Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh.
Giữa tháng 12 năm 1976, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4 họp định ra đường lối chung và
đường lối kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, thông qua kế hoạch 5 năm, sửa đổi
điều lệ Đảng và bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới. Đảng ta đổi tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Và Đoàn cũng được đổi tên thành Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương trước kia và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

ngày nay đã xứng đáng là đội hậu bị, là cánh tay của Đảng. Hơn 45 năm qua, biết bao thế hệ
thanh niên Việt Nam đã nối tay nhau xiết chặt hàng ngũ xung quanh Đoàn, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đã xây dựng nên truyền thống vẻ vang của Đoàn: Tuyệt đối trung thành với Đảng,
hết lòng phục vụ nhân dân, dũng cảm chiến đấu, lao động và học tập để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam. Trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập Đoàn lần thứ 25 (26-3-1966) Bác Hồ
đã nói:
"Là người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có 8 cháu, ngày nay trông thấy
có hàng triệu đoàn viên thanh niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng, phát triển mơn mởn như hoa
mùa xuân.
Với một thế hệ thanh niên hăng hái kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp
bảo vệ Miền Bắc, giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Vì vậy Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng
vững chắc và vẻ vang".
Thanh niên Việt Nam sớm được Bác Hồ kính yêu gắn bó với chủ nghĩa Cộng sản, ngay khi
Người gắn bó cách mạng Việt Nam với phong trào Cộng sản quốc tế. "Thanh niên nắm vai trò
là người châm ngòi lửa đầu tiên cho phong trào cách mạng nước ta" (Lê Duẩn).
Đoàn đã đổi tên nhiều lần, gắn chặt với lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng ta. Trong mỗi
thời kỳ, Đoàn có tên khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ mỗi giai đoạn, nhưng tựu chung vẫn
là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng, là tổ chức của những người Cộng sản trẻ tuổi, là
trường học cộng sản của thanh niên Việt Nam.



22-4-1870 Ngày sinh của V.I.Lê-nin
Via-đi-mia I-lích Lê-nin sinh ngày 24-4-1870 tại thành phố Xim-biếc (ngày nay là U-li-a-nốp-
xcơ), Lê-nin sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức Nga tiến bộ. Cha của Lê-nin - ông I-lia
Ni-cô-lai ê-vích là một nhà hoạt động giáo dục tận tụy với nghề nghiệp, gần gũi với nhân dân
lao động. Anh cả của Lê-nin - A-lếch-xan U-li-a-nốp - tham gia hoạt động cách mạng ngay khi
còn là sinh viên và đã bị kết án xử tử vì mưu sát vua Nga. Hoàn cảnh và sự giáo dục của gia
đình đã có ảnh hưởng to lớn trong việc hình thành nên những tính cách và phẩm chất tốt đẹp

của cậu bé Vô-lô-đi-a.
Khi còn nhỏ, Lê-nin học tập rất xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp trường trung học cổ điển ở Xim-
biếc, năm 1887 Lê-nin vào học khoa luật ở trường đại học Ca-dan. Ngay từ bấy giờ, Lê-nin đã
quyết tâm hiến thân cho cuộc đấu tranh cách mạng, cố gắng nắm vững các môn khoa học xã
hội. "Bây giờ là lúc phải học khoa luật và khoa kinh tế chính trị". Sau đó không bao lâu do tham
gia phong trào đấu tranh, tháng chạp năm 1887, Lê-nin bị bắt và đày về làng Cô-cư-sơ-ki-nô,
cách Ca-dan 40 dặm Nga.
Năm ấy, Lê-nin vừa đúng 17 tuổi.
Gần một năm sau, mùa thu năm 1888, Lê-nin mới được phép trở lại Ca-dan, nhưng không
được tiếp tục theo học ở trường đại học. Lê-nin tham gia nhóm Mác-xít và bắt đầu nghiên cứu
tác phẩm "Tư bản" của Các Mác.
Đầu tháng 5 năm 1889, Lê-nin đến Xa-ma-ra.
Năm 1891, Lê-nin tốt nghiệp khoa luật trường đại học Pê-téc-bua. Lê-nin đã tự học trong một
năm rưỡi chương trình bốn năm, là người duy nhất đạt điểm cao trong toàn bộ kỳ thi và được
cấp bằng tốt nghiệp hạng nhất.
Tại Xa-ma-ra, năm 1892, Lê-nin đã thành lập nhóm Mác-xít đầu tiên, nghiên cứu các tác phẩm
của Mác-Ăng-ghen, nghiên cứu nền kinh tế nước Nga và tiến hành đấu tranh triệt để chống hệ
tư tưởng của phái dân túy. Tháng 8 năm 1893, Lê-nin rời Xa-ma-ra đến Pê-téc-bua - trung tâm
chính trị của nước Nga và của phong trào công nhân Nga.
Tại Pê-téc-bua, Lê-nin đã tìm hiểu sâu sắc đời sống khổ cực của những người thợ, hoạt động
và tuyên truyền chủ nghĩa Mác đối với họ. Không bao lâu, Lê-nin đã nhanh chóng được thừa
nhận là một người lãnh đạo có uy tín trong các nhóm Mác-xít ở Pê-téc-bua, có học vấn uyên
bác và tinh thông chủ nghĩa Mác.
Lê-nin bắt tay vào việc thành lập đảng Mác-xít của giai cấp vô sản Nga.
Mùa thu năm 1895, dưới sự lãnh đạo của Lê-nin, tất cả nhóm Mác-xít ở Pê-téc-bua đã thống
nhất lại thành tổ chức chính trị duy nhất - "Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân".
Đó là một sự kiện lịch sử trong phong trào xã hội dân chủ Nga. Liên minh là tổ chức Mác-xít
đầu tiên ở Nga đã kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và là tổ chức
tiền thân của chính đảng vô sản Nga.
Tháng chạp năm 1895, Liên minh bị khủng bố. Lê-nin và nhiều bạn chiến đấu bị bắt. Mười bốn

tháng sau, tháng 2 năm 1897, Lê-nin bị kết án và đày đi miền Đông Xi-bia tại làng Su-sen-xcôi
thuộc Mu-nu-xin-xky, tỉnh Ê-ni-xây-xcai-a, cách đường xe lửa hơn 600 dặm. Lê-nin đã sống ở
đó cho đến hết tháng giêng năm 1900.
Tại cái làng nhỏ bé trong rừng thẳm Xi-bia này, Lê-nin vẫn theo dõi sát sao phong trào công
nhân Nga cũng như Tây Âu và đã viết hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn "Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản ở Nga" nó đã kết thúc việc đánh bại chủ nghĩa dân túy về mặt tư trưởng.
Năm 1900, ra khỏi nhà tù, Lê-nin lại tiếp tục hoạt động nhằm xây dựng một đảng Mác-xít thống
nhất ở Nga. Đó chính là tư tưởng trung tâm trong các tác phẩm cũng như trong các hoạt động
tổ chức thực tiễn của Người.
Lúc này, Lê-nin thấy trước hết cần thiết phải có một tờ báo chính trị có tính chất toàn Nga với
"Hoạt động đúng đắn và gắn liền với tất cả các nhóm địa phương". Một tờ báo như thế rõ ràng
không thể xuất bản ở nước Nga chuyên chế và đầy khủng bố. Vì vậy, tháng 7 năm 1900, Lê-nin
quyết định ra nước ngoài. Đó là cộc sống tha hương lần thứ nhất của Lê-nin và kéo dài hơn 5
năm.
Lê-nin đã sống ở Thụy Sĩ, Tiệp Khắc, Đức, Anh, Pháp và cùng với nhóm "Giải phóng lao
động" ra tờ báo "Tia lửa" "Từ tia lửa sẽ bùng lên ngọn lửa". Trong bài xã luận của số báo đầu
tiên, Lê-nin đã nêu bật nhiệm vụ cơ bản lúc này là phải thành lập một đảng Mác-xít vững mạnh,
có tổ chức, gắn chặt với phong trào công nhân. Không có một đảng như thế, giai cấp công
nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp mình và
toàn thể quần chúng lao động. Năm 1992, Lê-nin viết tác phẩm "Làm gì?". Tác phẩm đã vạch
trần những khuynh hướng và tác hại của chủ nghĩa cơ hội đối với phong trào công nhân quốc
tế, chỉ ra "phái kinh tế" ở Nga thực chất cũng chỉ là chủ nghĩa cơ hội của Béc-xtanh ở Tây Âu,
nó chủ trương hạn chế giai cấp công nhân chỉ đấu tranh kinh tế, không đấu tranh chính trị, chỉ
nhằm cải thiện điều kiện lao động trong khuôn khổ xã hội tư bản. Đồng thời, Lê-nin đã vạch kế
hoạch xây dựng đãng về mặt tổ chức, đặt cơ sở cho học thuyết về một đảng vô sản kiểu mới
của giai cấp công nhân.
Với phái "Tia lửa" do Lê-nin lãnh đạo là hạt nhân chuẩn bị, tại đại hội lần thứ hai của Đảng công
nhân xã hội dân chủ Nga (tháng 7-1903), những tư tưởng của Lê-nin về một đảng vô sản kiểu
mới đã đánh bại hoàn toàn phái kinh tế. Đại hội đã thảo luận và thông qua những văn kiện cực
kỳ quan trọng: cương lĩnh của đảng với nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh cho chuyên chính vô

sản; điều lệ của đảng dựa trên những nguyên tắc tổ chức của một đảng mác-xít kiểu mới theo
tư tưởng của Lê-nin. Nhưng cũng tại đại hội đã xuất hiện một trào lưu cơ hội chủ nghĩa mới tức
là bọn Men-sê-vích đối lập hoàn toàn với Lê-nin và những người Bôn-sê-vích.
Như thế, đại hội lần thứ hai của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga đã đánh dấu một bước
ngoặt trong phong trào công nhân quốc tế. Đại hội đã thành lập một đảng Mác-xít chiến đấu,
cách mạng của giai cấp công nhân Nga, về nguyên tắc khác hẳn các đảng cải lương của Quốc
tế thứ hai.
Năm 1904, Lê-ninviết cuốn "một bước tiến, hai bước lùi". Tác phẩm tiếp tục cuộc đấu tranh triệt
đểng chủ nghĩa cơ hội Men-sê-vích ở Nga và bè lũ của chúng ở Tây Âu, phát triển một cách
toàn diện những nguyên tắc của một đảng mácxít kiểu mới.
Năm 1904, cuộc chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ. Chế độ Nga hoàng đã bộc lộ tất cả thối nát
suy yếu và mâu thuẫn khủng hoảng của nó. Lê-nin đã dự đoán một cuộc cách mạng đang đến
gần và tích cực chuẩn bị cho đảng. Tại đại hội lần thứ ba của Đảng công nhân xã hội, dân chủ
Nga tháng 4 năm 1905, Lê-nin đã trình bày cương lĩnh chiến lược và sách lược của đảng trong
cuộc cách mạng dân chủ tư sản trước mắt: Giai cấp vô sản Nga phải liên minh với toàn thể
nông dân, trung lập giai cấp tư sản, đưa cách mạng dân chủ tư sản đến thắng lợi hoàn toàn và
do đó sẽ mở đường cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Tháng 7 năm 1905,
Lê-nin viết tác phẩm nổi tiếng "Hai sách lược của đãng xã hội dân chủ trong cách mạng dân
chủ" nhằm giải thích những nghị quyết của đại hội, bảo vệ đường lối chiến lược và sách lược
của những người của bọn Men-sê-vích. Xuất phát từ luận điểm nổi tiếng của Mác về cách
mạng không ngừng, Lê-nin đã nâu ra lý luận về cách mạng tư sản dân chủ chuyển biến thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Đó là công lao vĩ đại của tác
phẩm. Cuốn sách được phổ biến nhanh chóng, đã im lại hai lần ở Nga ngay trong năm 1905.
Năm 1909, Lê-nin viết cuốn "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán". Lê-nin đã
phê phán triệt để, toàn diện những mưu mô xảo quyệt mới của triết học duy tâm tư sản và phát
triển một cách thiên tài những vấn đề cơ bản của triết học mác-xít. Tác phẩm đã đánh dấu một
giai đoạn mới, giai đoạn Lê-nin, trong triết học Mác-xít.
Năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Chiến tranh là một sự thử thách và
kiểm nghiệm nghiêm khắc đối với các trào lưu trong phong trào công nhân quốc tế. Bọn cầm
đầu các đảng xã hội của Quốc tế thứ hai đã công khai phản bội lợi ích của giai cấp công nhân,

cam tâm ủng hộ cuộc chiến tranh tế quốc chủ nghĩa với khẩu hiệu lừa bịp "bảo vệ Tổ quốc".
Lúc bấy giờ chỉ có đảng Bôn-sê-vích do Lê-nin đứng đầu là chính đảng duy nhất giương cao
ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa đc và chiến tranh đế quốc
chủ nghĩa. Lê-nin đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng "biến chiến tranh đế quốc chủ nghĩa thành nội
chiến cách mạng". Chỉ có đảng Bôn-sê-vích Nga là thực hiện trung thành đường lối duy nhất
đúng đó của Lê-nin mà thôi.
Trong thời kỳ chiến tranh, Lê-nin đã tiến hành một khối lượng cộng tác lý luận rất to lớn, nhằm
giải đáp những yêu cầu bức thiết và nóng hổi của thời đại và cách mạng, khi chủ nghĩa tư bản
vừa kết thúc sự chuyển sang giai đoạn đế quốc độc quyền của nó. Tác phẩm "Chủ nghĩa đế
quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" của Lê-nin là sự tiếp tục một cách thiên tài bộ
"Tư sản" của Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Từ sự nghiên cứu hết sức sâu sắc và toàn
diện về chủ nghĩa đế quốc, Lê-nin đã rút ra những kết luận cực kỳ quan trọng về sự phát triển
không đều là một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản và cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể
thắng lợi trong một nước. Những luận điểm đó đã nâng cao tính chủ động và tích cực cách
mạng của giai cấp công nhân quốc tế và đặt cách mạng vô sản thành nhiệm vụ trực tiếp trong
chương trình nghị sự của giai cấp công nhân các nước.
Được vũ trang bằng lý luận cách mạng của Lênin, đảng Bôn-sê-vích và giai cấp công nhân Nga
đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng 2, lật đổ chế độ Nga hoàng.
Nhưng cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo trực tiếp của lãnh tụ để tiến lên giành thắng lợi triệt để.
Ngày 3-4-1917, Lê-nin về nước. Ngày hôm sau, tại hội nghị những người Bôn-sê-vích ở Pê-trô-
grát, Lê-nin đã trình bày bản báo cáo về kế hoạch đấu tranh để chuyển từ cuộc cách mạng dân
chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu nổi tiếng "Chính quyền về tay các
Xô viết". Đó là bản "Luận cương tháng Tư" thiên tài của Lê-nin.
Sau những sự kiện tháng 7, Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản ra lệnh bắt Lê-nin, công
khai khủng bố phong trào cách mạng. Cách mạng bước vào giai đoạn mới. Theo quyết định
của Trung ương đảng Bôn-sê-vích, Lê-nin tạm thời lẩn tránh. Từ lều cỏ bên hồ Ra-dơ-líp, Lê-
nin tiếp tục lãnh đạo mọi công tác của đảng. Thông qua Xvéc-lốp và Xta-lin, Lê-nin chỉ đạo đại
hội lần thứ sáu với sự thay đổi khẩu hiệu chính trị của đảng - khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền. Chính trong thời kỳ sôi động và gian khổ này, Lê-nin đã viết tác phẩm nổi tiếng "Nhà
nước và cách mạng" và nhiều cuốn khác nữa, nhằm chuẩn bị cho đảng và giai cấp công nhân

nắm chính quyền. Lê-nin đã phát triển học thuyết Mác-xít về nhà nước, vạch ra những nguyên
lý về chính trị và những biện pháp thực tiễn đầu tiên của nhà nước vô sản đồng thời phê phán
gay gắt những quan điểm phản động về nhà nước của Cau-xky và đồng bọn. Lê-nin khẳng
định: "Chỉ những người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến thừa nhận chuyên
chính vô sản thì mới là những người Mác-xít".
Trước sự chuyển biến khẩn trương của tình hình, tháng 10 năm 1917 Lê-nin từ Phần Lan trở
về Pê-trô-grát. Tại cuộc hội nghị ngày 10-10-1917, theo đề nghị của Lê-nin, Ban Chấp hành
Trung ương đảng đã thông qua bản nghị quyết lịch sử về tiến hành khởi nghĩa vũ trang và kêu
gọi toàn đảng và toàn thể công nhân, binh lính sẵn sàn hành động.
Ngày 25-10-1917 (tức là ngày 7 tháng 11 dương lịch) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê-nin từ
điện Xmôn-nưi, cuộc khởi nghĩa của giai cấp vô sản đã thắng lợi ở Pê-trô-grát.
Và như thế, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thành công. Một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội - đã mở ra trong lịch sử loài người.
Một ngày sau, vào tối ngày 26-10-1917, trong phiên họp cuối cùng của Đại hội Xô Viết toàn
Nga lần thứ hai, Đại hội đã thông qua hai bản dự thảo Sắc lệnh về hòa bình và Sắc lệnh về
ruộng đất do Lê-nin trình bày. Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên của chính quyền công
nông. Đại hội đã bầu Hội đồng ủy viên nhân dân tức Chính phủ công nông do Lê-nin làm chủ
tịch.
Lê-nin và đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Xôviết vượt qua muôn
vàn khó khăn cực kỳ nặng nề để củng cố và bảo vệ chính quyền Xôviết, đánh bại cuộc nội
chiến của bọn phản động trong nước và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc bên
ngoài, tiến hành thắng lợi công cuộc khôi phục và phát triển nền kinh tế mới.
Từ nhiều năm trước đây, Lê-nin đã hoạt động không mỏi mệt nhằm tập hợp những người theo
chủ nghĩa quốc tế trong các đảng xã hội dân chủ thành một phái tả trong Quốc tế 2 chống lại
bọn cơ hội chủ nghĩa và tiến tới thành lập một Quốc tế mới thật sự cách mạng của phong trào
công nhân quốc tế. Sau cách mạng tháng 10 với sự ra đời của Nhà nước Xô Viết và trong cao
trào cách mạng của giai cấp công nhân châu Âu, tháng 3 năm 1919 các đảng cộng sản thế giới
đã tiến hành đại hội thành lập Quốc tế cộng sản - tức Quốc tế thứ ba. Với những hoạt động
thực tiễn và những tác phẩm lý luận xuất sắc của mình, Lê-nin đã có công lao to lớn trong việc
thành lập Quốc tế cộng sản và xác định đường lối đấu tranh đúng đắn cho phong trào cộng sản

và công nhân quốc tế, đấu tranh triệt để chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương và chủ
nghĩa cơ hội tả khuynh tồn tại trong một số đảng cộng sản các nước.
Cũng đã từ lâu, Lê-nin hết sức quan tâm tới cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc. Với khẩu hiệu nổi tiếng "Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!" và luận
điểm thiên tài: các dân tộc chậm tiến có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước phương Đông
đã bước sang một giai đoạn mới. Họ đã tìm thấy con đường giải phóng thật sự cho dân tộc
mình. Lê-nin đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng, triển vọng và ý nghĩa ngày nay càng to lớn
của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng trên toàn thế giới.
Lê-nin đã vạch ra cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Trong nhiều tác phẩm và
nhất là những bài viết cuối đời của mình, Lê-nin khẳng định khả năng xây dựng thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và đã đề ra những nhiệm vụ và kế hoạch cụ thể của công cuộc xây
dựng đó: Là tiến hành công nghiệp hóa đất nước, tập thể hóa nền nông nghiệp và tiến hành
đồng thời cách mạng văn hóa và tư tưởng.
Đi theo con đường của Lê-nin vạch ra, nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Bôn-sê-vích đã vững bước tiến lên, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cực
kỳ khó khăn gian khổ, trong vòng vây thù địch của chủ nghĩa tư bản thế giới.
Những năm tháng hoạt động đấu tranh trong những điều kiện hết sức gian khổ và căng thẳng
cùng với hậu quả của vết thương do kẻ thù gây ra, sức khỏe của Lê-nin đã giảm sút rất nhiều.
Từ mùa thu năm 1922, Lê-nin bị ốm nặng. Trên giường bệnh, Lê-nin vẫn làm việc và đã đọc
cho ghi lại những bài báo cuối cùng. Đó là những di chúc chính trị của Người đối với toàn đảng
Bôn-sê-vích và nhân dân Xô viết, đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
"Sau Mác, lịch sử phong trào giải phóng vĩ đại của giai cấp vô sản chưa bao giờ có được một
nhân vật vĩ đại như người lãnh tụ, người thầy, người bạn của chúng ta. Tất cả những gì thực
sự vĩ đại và anh hùng ở trong giai cấp vô sản để thể hiện trong Lê-nin một cách tuyệt vời và
tên người đã trở thành tượng trưng cho một thế giới mới, từ Tây sang Đông, từ Nam chí Bắc "
Đó là những lời trong bản kêu gọi đặc biệt đề ngày 22-1-1924 của Trung ương Đảng Bôn-sê-
vích "Gửi Đảng và toàn thể nhân dân lao động" trước tổn thất hết sự nặng nề của đất nước Xô
viết - Lê-nin vĩ đại từ trần.
Lê-nin mất đi, nhưng sự nghiệp vĩ đại của Người đời đời sống mãi trong giai cấp công nhân và

nhân dân lao động toàn thế giới. Công lao vĩ đại của Lê-nin là ở chỗ Người đã phát triển chủ
nghĩa Mác trong những điều kiện của thời đại lịch sử diễn ra từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX,
khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ
nghĩa Mác trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc và của các cuộc cách mạng vô sản, của thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Công lao vĩ đại của Lê-nin là ở chỗ lần đầu tiên Người đã biến những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác thành hiện thực cách mạng rực rỡ với thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng Xã hội chủ
nghĩa tháng 10 Nga. Như Xta-lin đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa Lê-nin là lý luận và sách lược về cách
mạng vô sản nói chung, lý luận và sách lược về chuyên chính vô sản nói riêng". Như vậy, với
đỉnh cao của trí tuệ loài người, cùng với học thuyết của Mác - Ăng-ghen, học thuyết của Lê-nin
đã trở thành vũ khí vô địch của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức, trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng nhằm thủ tiêu mọi chế độ áp bức và bóc lột tàn bạo.
25-4-1976 Tổng tuyển cử bầu quốc hội của nước Việt Nam thống nhất
Những ngày tháng tư năm 1976. Cả đất nước ta từ Cao Lạng đến Minh Hải tưng bừng đón
mừng ngày hội lớn của non sông - Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất.
Như vậy là chỉ một năm sau chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, giành lại độc lập cho Tổ quốc, nhân dân ta đã ghi thêm một thắng lợi mới trong sự nghiệp
thống nhất đất nước.
Thực hiện những quyết định quan trọng của Hội nghị Trung ương lần thứ 24 là chuẩn bị Tổng
tuyển cử bầu ra Quốc hội chung của cả nước và Quốc hội đó sẽ cử ra Chính phủ trung ương
của nước Việt Nam thống nhất, từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975 tại Tp Hồ Chí Minh, Hội
nghị hiệp thương Chính trị giữa hai đoàn đại biểu miền Bắc và đoàn đại biểu miền Nam đã
được tiến hành để bàn về vấn đề thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Hội nghị nhất trí nhận
định rằng, Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội - và cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu
ra Quốc hội chung của cả nước. Hội nghị quyết định cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tiến hành
vào đầu năm 1976, theo các nguyên tắc dân chủ: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín.
Tháng 1-1967, ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hội đồng cố
vấn Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định: cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành vào

chủ nhật 25.4.1976. Hội đồng bầu cử toàn quốc được thành lập, do đồng chí Trường Chinh làm
Chủ tịch và đồng chí Phạm Hùng làm Phó chủ tịch.
Cả nước hân hoan đón chào những quyết định lịch sử đó.
Từ tháng 2 năm 1976, các báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã liên tiếp đưa tin. Công tác
tuyên truyền, vận động được triển khai rộng rãi. ở khắp nơi trên đất nước ta nhất là ở các tỉnh
phía Nam mới được giải phóng cuộc vận động Tổng tuyển cử đã trở thành một cuộc động viên
chính trị sâu rộng chưa từng có.
Đồng thời, phong trào thi đua lao động sản xuất đã đẩy lên sôi nổi trong các nhà máy, công
trường , đồng ruộng, quân đội, cơ quan nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1976, thiết
thực lập thành tích chào mừng ngày hội lớn của dân tộc.
Tối ngày 22, nhân dân thủ đô tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng cuộc Tổng tuyển cử, hoan
nghênh các vị ra ứng cử đại biểu Quốc hội ở Hà Nội. Chủ tịch Tôn Đức Thắng, các đồng chí
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng đã tới dự và thân mật tiếp xúc với các
đại biểu cử tri của thủ đô.
Sáng sớm ngày 23, hơn một triệu nhân dân TP Hồ Chí Minh đã rầm rộ xuống đường, giương
cao ảnh Hồ Chủ tịch, cờ, khẩu hiệu, diễu qua các đường phố chính biểu dương sức mạnh đoàn
kết, quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất của cả nước.
Báo "Nhân dân" số ra ngày 24-4-1976 đã nhắc lại lời kêu gọi đầy xúc động của Bác Hồ 30 năm
về trước, ngày 5-1-1976, hôm trước cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Khi đó, bác viết: "Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta Ngày mai, tất
cả các bạn cử tri đều phải nhớ đi bầu cử. Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi
của một người dân độc lập, tự do".
Báo Đảng kêu gọi "Ngày mai, tất cả cử tri đi bỏ phiếu". Bởi "Biết bao thế hệ người Việt Nam đã
anh dũng chiến đấu và oanh liệt hy sinh để có ngày tổng tuyển cử hoàn thành thống nhất đất
nước và đưa cả nước ta lên chủ nghĩa xã hội".
Ngày hai mươi lăm tháng tư năm một nghìn chín trăm bảy mươi sáu.
Trong không khí đặc biệt hào hứng và sôi nổi, tràn đầy tin tưởng và tự hào, hơn 23 triệu người
dân Việt Nam với tư thế của người chiến thắng vẻ vang và người làm chủ đất nước đã nô nức
đi làm nghĩa vụ công dân của mình, cử ra những đại biểu xứng đáng nhất vào cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất. Từ sáng sớm, các phòng bỏ phiếu rực rỡ cờ hoa đã tấp nập, đông vui.

Cuộc bầu cử đã tiến hành nhanh, gọn, tốt. Chỉ đến 2 giờ ở các tỉnh phía Bắc và đến 12, 13 giờ
các tỉnh phía Nam về cơ bản việc bỏ phiếu đã làm xong.
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 25-4-1976 đã thành công rực rỡ.
Ngày 7-5-1976, Hội đồng bầu cử toàn quốc đã ra thông cáo về kết quả Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội chung của cả nước.
1 - Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước đã thắng lợi rực rỡ, khẳng định một
cách hùng hồn ý chí của nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
Cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành thật sự dân chủ, đúng luật và pháp lệnh bầu cử. Các
nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp bỏ phiếu kín trong bầu cử đã được nghiêm chỉnh
tôn trọng.
2 - Toàn dân rất phấn khởi, tích cực hưởng ứng và tham gia bầu cử. Việc ghi danh sách cử tri
ở tất cả các địa phương đều làm đúng theo luật đã định. ở miền Nam, việc khôi phục quyền
công dân cho trên 95% số người làm việc cho chế độ cũ đã được học tập cải tạo thể hiện chính
sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta. Các cử tri đi bầu cử đã hoàn toàn tự do trong việc
lựa chọn những đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
3 - Tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao. Trong cả nước, tỷ lệ đó là 98,77%; miền Bắc 99,36%; miền Nam
98,59%; Hà Nội 99,82; TP Hồ Chí Minh 98,14%. ở cả hai miền đều có nhiều huyện, xã và rất
nhiều khu đạt 100% cử tri đi bỏ phiếu.
Kết quả, cả nước đã bầu cử 492 đại biểu ngay ở vòng đầu, không nơi nào phải bầu cử lại hoặc
bầu thêm. Tỷ lệ số phiếu hợp lệ rất cao, đạt tới 99,12%. Trong tổng số 492 đại biểu trúng cử có:
80 đại biểu là công nhân, 100 đại biểu là nông dân, 6 đại biểu là cán bộ chính trị, 98 đại biểu là
tri thức, nhân sĩ dân chủ, 13 đại biểu các tôn giáo. Trong số các đại biểu trúng cử có: 129 đại
biểu nữ, 127 đại biểu thanh niên, 72 đại biểu dân tộc thiểu số, 29 đại biểu là anh hùng lao động
và anh hùng các lực lượng vũ trang.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã được bầu với số phiếu cao nhất.
Ngày 25 tháng 4 năm 1976 sẽ được ghi vào lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó
là ngày hội hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống nhất non sông. Đó là ngày hội biểu dương vĩ
đại lực lượng và ý chí của toàn thể nhân dân ta - thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết phấu đấu dưới ngọn cờ quang vinh, bách

chiến bách thắng của Đảng và Bác Hồ vĩ đại.
30-4-1975 Giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước hoàn toàn thắng lợi
Mùa Xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam ta đã ghi một chiến công vĩ đại nhất, hiển hách nhất
trong lịch sử anh hùng của dân tộc: sau 55 ngày đêm tiến công thần tốc đã quét sạch toàn bộ
chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng miền Nam thân yêu, giành
lại độc lập hoàn toàn cho đất nước.
Tháng Giêng năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Mặc dầu đã bị thất bại nặng nề, đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố theo đuổi âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới lên
toàn bộ miền Nam nước ta. Chúng đã trắng trợn chà đạp hầu hết các điều khoản chủ yếu của
Hiệp định, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên quy môn lớn bằng các kế
hoạch "tràn ngập lãnh thổ" và những cuộc hành quân "bình định" lấn chiếm vùng giải phóng,
chồng chất muôn vàn tội ác đối với đồng bào ta.
Đánh giá đúng âm mưu của kẻ thù, Đảng ta nhận định rằng, bất kể trong tình huống nào, con
đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng phải là con đường bạo lực, kiên quyết
dùng chiến tranh cách mạng đánh bại cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mỹ - ngụy.
Sau hai năm 1973, 1974 và nhất là từ chiến thắng giải phòng toàn tỉnh Phước Long, cục diện
chiến trường miền Nam đã thay đổi một cách căn bản, có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, tháng 10-1974 và đầu năm 1975, đã kịp thời đánh giá đúng lực lượng so
sánh giữa ta và địch, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử và hạ quyết tâm chiến lược giải
phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới
của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mùa Xuân năm 1975.
Ngày 10-3-1975 cuộc Tổng tiến công chiến lược và nổi dậy vĩ đại được mở đầu bằng trận đánh
hết sức táo bạo, bất ngờ của quân ta vào thị xã Buôn Mê Thuột - một vị trí then chốt, hiểm yếu
trong hệ thống phòng ngự của quân địch ở Tây Nguyên. Trận đánh trúng huyệt đó đã làm rung
chuẩn toàn bộ Tây Nguyên và bắt đầu quá trình sụp đổ không thể cứu vãn nổi của ngụy quân
và ngụy quyền Sài Gòn. Sau thất bại nặng nề và choáng váng đó, quân ngụy phải rút khỏi Kon
Tum và Plây Cu ngày 24-3, cả vùng Tây Nguyên rộng lớn đã được hoàn toàn giải phóng.
Một cao trào tiến công và nổi dậy đã dâng lên mạnh mẽ ở các tỉnh ven biển miền Trung Trung
Bộ. Các tỉnh thành được giải phóng với một nhịp độ dồn dập.

Ngày 24-3, tỉnh Quảng Ngãi với thị xã Quảng Ngãi.
Ngày 28-3, tỉnh Quảng Nam với thị xã Tam kỳ.
Ngày 1-4, tỉnh Bình Định với thị xã Quy Nhơn
Cùng ngày, tỉnh Phú Yên với thị xã Tuy Hòa.
Ngày 2-4, tỉnh Lâm Đồng với thị xã Bảo Lộc
Ngày 3-4, tỉnh Khánh Hòa với thành phố Nha Trang.
Ngày 4-4, tỉnh Tuyên Đức với thành phố Đà Lạt.
Trong khi chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc, ngay từ trung tuần tháng 3, chiến dịch tiến
công lớn thứ hai của quân ta vào tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế và căn cứ quân sự
liên hợp Đà Nẵng đã được quyết định. Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng là những khu vực phóng
ngự mạnh nhất của quân ngụy ở quân khu I.
Sau 4 ngày chiến đấu và nổi dậy phối hợp của quần chúng, trưa ngày 26-3-1975 quân ta đã
tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế, giải phóng cố đô huế. Trận thắng vẻ vang này
đã khẳng định quân ta và dân ta không những có khả năng tiêu diệt những tập đoàn phòng ngự
mạnh của địch ở chiến trường rừng núi mà cũng hoàn toàn có khả năng đập tan những tập
đoàn phòng ngự mạnh của địch ở thành phố và đồng bằng ven biển.
Ngày 24-3, thị xã Tam Kỳ được giải phóng. Đà Nẵng trở nên hoàn toàn cô lập.
Sau khi mất Huế, Nguyễn Văn Thiệu hò hét quyết "tử thủ" Đà Nẵng bằng bất cứ giá nào. Đà
Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục không quân hiện đại, mạnh vào bậc nhất ở miền
Nam với 10 vạn tên lính. Tàu chiến Mỹ kéo đến rập rình ven biển Đà Nẵng làm lực lượng "ngăn
đe".
Sáng ngày 28-3, từ nhiều hướng khác nhau quân ta tiến công dồn dập và mạnh mẽ vào Đà
Nẵng. Đông đảo quần chúng và các lực lượng tự vệ, biệt động trong và ngoài thành phố đã nổi
dậy mạnh mẽ và phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Đúng 15 giờ ngày 29-3, từ các hướng
tiến quân các binh đoàn thần tốc của ta đã gặp nhau ở trung tâm Đà Nẵng.
Như vậy, chỉ trong 32 giờ, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ quân sự liên hợp mạnh
vào bậc nhất của địch. Hệ thống phòng ngự chiến lược mới của địch ở miền Trung bị quét
sạch. Quân khu I của ngụy bị xóa sổ. Sau trận đại bại ở Đà Nẵng, quân ngụy lâm vào tình trạng
tuyệt vọng. Mỹ và tay sai hết sức kinh hoàng. Tướng Uây-en, cựu tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam
Việt Nam, được lệnh vội vã sang miền Nam bày mưu, đốc thúc bọn tay sai xây dựng hệ thống

phòng thủ mới từ Phan Rang đến Cần Thơ nhằm bảo vệ cho Sài Gòn - sào huyệt cuối cùng
của chúng.
Phối hợp với các chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẫng, quân và dân ta đã tiến công và nổi
dậy mạnh mẽ, kịp thời chiếm thị xã An Lộc và giải phóng toàn tỉnh Bình Long, mở rộng vùng
giải phóng ở Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long An, Long Khánh, Bình Tuy và nhiều tỉnh ở đồng
bằng sông Cửu Long.
Với những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ to lớn của chiến dịch Tây Ninh và Huế - Đà
Nẵng, cục diện chiến tranh đã có bước phát triển nhảy vọt, thời cơ lớn để tiêu diệt toàn bộ ngụy
quân và ngụy quyền đã tới. Từ giữa hạ tuần tháng 3, trong khi chiến dịch Thừa Thiên - Huế sắp
kết thúc thắng lợi, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch
lịch sử có ý nghĩa quyết định nhằm đập tan toàn bộ lực lượng ngụy quân, ngụy quyền còn lại,
giải phòng hoàn toàn miền Nam. Chiến dịch lịch sử này được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại.
Tháng 4, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng bắt đầu. Ngày 19-4, quân ta đã hoạt động mạnh
trên hướng đông, đánh vào Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Ngày 16-4, quân ta giải phóng
Phan Rang (Ninh Thuận), tiếp đó lần lượt giải phóng tỉnh bình Thuận với thị xã Phan Thiết, tỉnh
Bình Tân với thị xã Hàm Tân. Ngày 21-4, sau những trận chiến đấu ác liệt, quân địch ở Xuân
Lộc buộc phải rút chạy. Cùng ngày, Nguyễn Văn Thiệu, tên tay sai đắc lực của Mỹ, buộc phải
từ chức và chạy trốn ra nước ngoài.
Ngày 26-4, từ 17 giờ quân ta mở cuộc tiến công lớn trên hướng đông và nam Sài Gòn, xiết
chặt vòng vây chung quanh Sài Gòn. Ngày 28-4, không quân ta tiến công sân bay Tân Sơn
Nhất.
Đến 28-4, tất cả các cánh quân lớn của ta đã bao vây chặt Sài Gòn. Giờ tận số của chế độ Mỹ -
ngụy đã điểm! Hoảng loạn, vội vã, hàng vạn nhân viên quân sự, dân sự và bọn tay sai đầu sỏ
tháo chạy khỏi miền Nam. Mỹ đã cố xoay sở cứu vãn tình thế, nhưng chúng đã phải bó tay và
cuối cùng phải bỏ cuộc.
Đúng 0 giờ ngày 29-4-1975, các binh đoàn chủ lực hùng mạnh của ta từ nhiều hướng đồng loạt
tổng công kích vào Sài Gòn - sào huyệt cuối cùng của kẻ thù. Với ưu thế áp đảo, quân ta ào ạt
tiến công, vừa bao vây tiêu diệt địch ở vòng ngoài, vừa thần tốc, táo bạo thọc sâu đánh chiếm
các mục tiêu quan trọng ở bên trong. Lực lượng tại chỗ và quần chúng trong và ngoài thành

phố đã nổi dậy, phối hợp với các binh đoàn chủ lực.
Sáng ngày 30-4, một mũi thọc sâu của quân ta đánh thẳng vào trung tâm thành phố, nhanh
chóng chiếm phủ tổng thống ngụy. Ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn đã phải tuyên bố đầu
hàng không điều kiện. Lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc "dinh Độc Lập" - phủ tổng
thống ngụy. Lúc đó đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 lịch sử.

×