TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VỀ BÁC HỒ
1. EM ĐỘI VIÊN MẮT SÁNG
Hơ Nin năm nay lên chín rồi. Ngày em mới lên ba, mắt em đau nặng. Mẹ em đi
hái lá thuốc trong rừng sâu, lấy nước suối trên khe xa, đào rễ cây trong hang núi
đất hết lòng chạy chữa. Nhưng mắt em vẫn không khỏi. Em thành người khuyết
tật.
Cha Hơ Nin là du kích bị Pháp bắt giết trong một trận chống càn, nhà chỉ còn
mẹ và Hơ Nin, nên em phải vất vả. Em làm suốt ngày, ít nói, ít cười. Trong buôn
ai cũng khen em:
- Con bé Hơ Nin chăm làm, hát hay mà mù lòa, tội nghiệp!
Một tối, thiếu nhi trong buôn họp, đang bàn bạc sôi nổi thì em đến. Các bạn
đã giao hẹn với nhau ngày 19-5 vừa qua chưa làm lễ kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ
được. Ngày lễ mừng Bác sẽ làm chung với ngày Thiếu nhi Quốc tế sắp tới. Đến
ngày đó, mỗi đội viên phải có 50 cây chông. Hơ Nin chưa vào Đội. Em ngồi một
góc không ai để ý đến nên phải lên tiếng :
- Tôi có phải vót không các bạn?
- Vót cũng được, không cũng được.
Một bạn khác bảo:
- Thôi mày là con gái, con mắt mày không sáng, tìm cái cây trong rừng không ra,
cầm cán dao không chắc, đừng vậy!
Tan họp về nhà, Hơ Nin nhớ lại: Hôm qua anh bộ đội Ma Trang Lơng đến, nói
chuyện về Bác Hồ. Anh nói nhiều chuyện lắm: Bác Hồ suốt đời chịu khổ để lấy
lại nước cho đồng bào Kinh, đồng bào Thượng, Bác Hồ yêu nhân dân lắm. Bác
Hồ chỉ bảo mọi người cách đánh giặc ngoại xâm. Nhất là chuyện Bác Hồ yêu
thương chăm sóc trẻ em Anh nói tiếp: “Các em cứ ngoan ngoãn, cố gắng giúp
đỡ người lớn. Bao giờ cả nước độc lập, thống nhất, thế nào Bác Hồ cũng vào
chơi chưa biết chừng có em còn được Bác bế vào lòng, có em được vuốt râu,
được nhìn thấy mắt Bác sáng như sao trên trời”. Các bạn vui quá, bàn tán sôi nổi.
Hơ Nin hỏi mẹ:
- Bao giờ làm cái lễ mừng tuổi Bác Hồ và cái lễ của thiếu nhi nhiều nước hở mẹ?
- Du kích bảo còn năm đêm nữa- Mẹ tiếp.
- À Hơ Nin, đêm ấy con có đi
Mẹ định bảo Hơ Nin đi “xem” cho vui, nhưng như một chiếc gai mắt mèo đâm
vào tim bà, bà đau đớn nhìn con. Rồi bà nói lại:
- Con đi cho vui chứ?
- Thôi con ở nhà nằm nghe hát cũng được mẹ ạ!
Thế là suốt cả năm ngày, ngày nào em cũng dậy sớm hơn mọi bận, lấy nước, lấy
củi, cho con gà, con chó ăn no. Chờ mẹ đi rẫy, Hơ Nin lại trốn mọi người men ra
bìa rừng sờ soạng chặt từng cây mò o nhỏ. Chiều đến, mẹ về hỏi:
- Hơ Nin có lấy nhiều nước không?
- Có chớ? Lấy ba bầu lớn bên suối nước trong mẹ ạ.
- Con gái mẹ có cho con heo nái mới đẻ ăn no không?
- No, no lắm!
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
- Tre nứa đâu nhiều vậy?
- Con xin đấy.
Hơ Nin vẫn giấu mẹ. Mấy hôm liền em ngồi một chỗ kín để vót chông, ba
cây, rồi năm cây, rồi bảy cây, rồi mười một cây Rồi nhiều, nhiều lắm
Chiều hôm sau, sau nữa. Đồng bào trong buôn đi rẫy về. Mẹ em cũng về. Bộ
đội du kích kéo đến rất đông. Trong buôn ồn ào xôn xao. Tiếng hát vang lên, dội
vào vách núi đá, trào lên lớp cây rừng, vượt ra ngoài con suối, chảy theo dòng
sông Ba rồi lan đi xa, xa mãi Lửa trong đêm hội bùng sáng to. Già làng khai
mạc ngày mừng Lễ sinh nhật Hồ Chủ tịch và ngày Thiếu nhi Quốc tế. Người ta
thấy có mặt Hơ Nin đêm nay. Em ì ạch mang theo bó chông to. Em đang loay
hoay nhẩm đi tính lại, không biết có đủ năm mươi cây chông không? Em tìm một
anh du kích nộp chông. Em vui mừng nói:
- Phần em mừng Bác Hồ mạnh khỏe sống lâu!
Mẹ thương Hơ Nin quá. Bà ôm chặt con vào trong lòng. Nhiều người chăm chú
nhìn em cảm phục, nhất là các đội viên thiếu niên.
Tin Hơ Nin vót chông đánh giặc không mấy chốc lan đi khắp làng, khắp
huyện và biến thành một cuộc vận động lớn. Từ đó các anh bộ đội kể cho nhau
nghe chuyện em. Nhiều người không nhớ rõ tên. Họ chỉ gọi em là “Em đội viên
mắt sáng - Cháu ngoan Bác Hồ”
2. THÉP BÁC HỒ
Ngày ấy, công trường khu Gang thép được mở mang trên một vùng đồi núi Thái
Nguyên. Những cánh bộ đội chuyển ngành của từng sư đoàn kéo đến đầu quân.
Trong đầu mọi người đều hình dung và mơ tưởng một cách khác, những tưởng
nơi đây chí ít cũng đã thành nhà cửa đàng hoàng, có máy móc, có xe cộ. Ai dè,
một con đường cho ô tô vào cũng chưa có. Đồi núi nhấp nhô, xung quanh bạt
ngàn các thứ cỏ dại. Những nhát cuốc đầu tiên bổ xuống tóe lửa lại bật lên. Mọi
người từ chỗ chưng hửng, đến phát ngán.
Giữa lúc ấy, Bác Hồ về thăm. Bác về bất ngờ. Một ngày tháng sáu năm 1959,
nắng hầm hập như lửa. Anh em đang đào đất, dựng nhà, bận rộn với tre, với nứa
ngoài bến thì bỗng nghe tin Ban chỉ huy công trường triệu về có việc gấp. Tự
nhiên có người reo lên: “Hay là Bác Hồ về thăm?!”. Mọi người chẳng ai bảo ai,
cuốc xẻng trên vai quáng quàng chạy một mạch về phía một bãi rộng, sườn một
quả đồi đang san dở. Một chiếc ô tô đen, bám đầy bụi đường vừa đỗ, anh em đã
ùa tới. Hàng trăm, hàng nghìn người vây đặc kín quanh chiếc xe. Bác Hồ từ cửa
xe hiện ra râu tóc đều bạc phơ, mặt hồng hào. Bác mặc bộ quần áo ta, màu gụ,
chiếc áo hở khuy cổ, để lộ lần áo lót trắng trông vừa khỏe mạnh vừa phóng
khoáng. Anh em công nhân hò reo, hoan hô vui sướng. Người xúm đông, xúm đỏ,
Bác nhích lên một cách khó khăn. Những người được ở gần Bác nhất cố sức lấy
tay cản mọi người đang ùa tới, lấy chỗ cho Bác đi.
Sườn đồi cao, anh em phải kéo, nâng Bác lên. Nắng quá. Có mấy anh chạy đi
ngay kiếm mấy tàu lá cọ còn tươi xòe che nắng cho Bác. Bác giơ tay cho chúng
tôi trật tự rồi bắt đầu nói chuyện:
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
- Công trường của các cô, các chú rất rộng lớn. Sau này sẽ có tới ba vạn người tới
ở. Thế mà bây giờ các cô, các chú mới có mấy nghìn người. Như vậy các cô các
chú có cái vinh dự là người đi trước.
Bác giải thích về “tiền đồ”:
- Xã hội chủ nghĩa là gì ? Là không có người bóc lột người, mọi người đều no ấm.
Đó là tiền đồ của chúng ta, không có tiền đồ, bạc đồ nào khác.
Rồi Bác hỏi:
- Muốn ăn quả thì phải làm gì ?
- Phải trồng cây ạ !
- Khi mới trồng cây thì đã có quả chưa ?
- Chưa ạ !
- Muốn uống nước thì phải làm gì ?
- Phải đào giếng ạ !
- Khi đang đào giếng thì đã có nước chưa ?
- Chưa ạ !
- Đào giếng có khó nhọc không ?
- Có ạ !
- Đào giếng rồi còn phải múc nước lên, đun sôi thì mới có bát nước trong lành mà
uống. Xây dựng xí nghiệp bây giờ cũng thế. Tiền đồ là ở các cô, các chú. Xây
dựng xí nghiệp nhanh thì chóng có tiền đồ. Bác nghe nói có một số cô chú thắc
mắc đó là vì chưa hiểu thôi. Bác tin rồi mọi người sẽ làm rất hăng hái.
Hôm đó, Bác còn dặn rất nhiều điều: Công nhân, cán bộ phải có tinh thần
đoàn kết, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phải tăng gia lấy cái mà ăn, phải
giữ gìn vệ sinh, không được uống nước lã, phải đánh ruồi, mỗi người một cái vỉ
ruồi sau lưng, thấy ruồi là đánh Mỗi điều dặn, Bác đều lấy ví dụ cho dễ hiểu.
Nói về đoàn kết, Bác chỉ vào chiếc xe hơi đang đỗ dưới đường:
- Nếu mười người cùng đẩy xe, cùng dô hò thì xe sẽ chạy bon bon. Còn nếu người
thì đẩy, người thì không, có mấy người lại chỉ vờ đẩy thôi thì không thể đẩy xe
chạy được.
Nói về đánh ruồi, Bác hỏi:
- Đế quốc to hơn hay con ruồi to hơn ?
- Đế quốc to hơn ạ !
Bác ôn tồn:
- Thằng đế quốc to lù lù, có máy bay, đại bác, xe tăng, tầu bò, các cô các chú còn
đánh được nó, lẽ nào các cô, các chú lại chịu thua mấy con ruồi.
Cuối cùng, Bác nói:
- Hôm nay, Bác không đi thăm khắp công trường được. Bác nhờ các cô, các chú ở
đây chuyển lời hỏi thăm của Bác đến các cô các chú vắng mặt.
Tiễn Bác đi rồi mà lòng chúng tôi còn ngẩn ngơ, bàng hoàng như vừa qua một
giấc mơ. Chúng tôi bàn tán, khoe với nhau những gì mình được thấy ở Bác, suy
nghĩ không dứt về những lời Bác dạy. Nhưng trước nhất, chúng tôi thấy có cái vẻ
vang là có đi xây dựng khu gang thép mới được gặp Bác Hô, trong một kỷ niệm
thắm thiết như vậy.
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
3. BỐN CÂU THƠ LỊCH SỬ RA ĐỜI NHƯ THẾ ĐẤY
Sau khi biên giới Việt - Trung được giải phóng, con đường số ba của Bắc Cạn trở
thành mạch máu của cuộc kháng chiến. Các đơn vị thanh niên xung phong của
miền xuôi và địa phương bám chắc trên mặt đường từng khúc. Ban ngày, giặc
Pháp bỏ bom phá cầu đường, ban đêm thanh niên và nhân dân lại ra sửa cho xe
đi.
Đêm ấy, trời tối lắm, đơn vị Liên phân đội thanh niên xung phong Một được
phép nghỉ để chuẩn bị ra mặt đường vào lúc gần sáng. Mọi người sửa soạn đi ngủ.
Dãy lán của các chị thanh nữ thỉnh thoảng còn vọng ra tiếng hát. Mấy dãy nhà của
nam giới cũng đã tắt đèn nhưng vẫn còn tiếng nói thì thầm, chốc chốc lại có tiếng
ai cười giòn giã. Bỗng một đồng chí cán bộ Ban chỉ huy Liên phân đội chạy qua
giữa hai dãy nhà nói to:
- Các cậu ơi, dậy liên hoan đi.
Bao nhiêu tiếng phản đối từ hai dãy nhà đáp lại:
- Ông chỉ huy nhà tôi hôm nay lạ thế ?!
Đồng chí cán bộ vào từng giường nằm của anh em mà nói nhỏ với mọi người:
- Có cán bộ Trung ương đến thăm chúng ta đấy, các đồng chí ra nghe nói chuyện
chung.
Mọi người hớn hở tung chăn, xuống giường. Sẵn củi nứa, mỗi đồng chí mang
theo một bó ra sân đốt làm lửa trại. Cả Liên phân đội vây quanh đống lửa ca hát
vui vẻ.
Bỗng có một tiếng hô lớn: “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Tất cả hô theo và đổ dồn về
phía tiếng hô. Bác Hồ bước tới cùng mấy đồng chí cán bộ. Tất cả reo lên: “Bác
Hồ! Bác Hồ!”. Ai cũng chạy vội đến gần Bác để được đứng cạnh Bác.
Bác niềm nở vẫy tay chào mọi người. Bác bảo mọi người đứng vòng tròn lại. Mọi
con mắt đều đăm đăm nhìn vào Bác. Trông Bác giản dị vô cùng với đôi dép cao
su, bộ quần áo nâu đã bạc. Tất cả lắng nghe, Bác hỏi:
- Các cháu có thích nghe thơ không ?
Cả đoàn người không ai bảo ai đều đồng thanh đáp:
- Thưa Bác, có ạ !
Thế thì các cháu lấy giấy bút ra để Bác đọc cho chép một bài thơ.
Các đơn vị lại tản ra nhanh như kiến vỡ tổ. Chỉ trong chốc lát, mỗi người trở lại
đều có đầy đủ giấy bút trong tay. Lửa sáng thêm, mọi người im phăng phắc. Bác
Hồ cầm một tờ giấy đọc rất chậm và rõ:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí cũng làm nên”.
Có đồng chí chép chưa xong đã thốt lên: “Hay quá ! Hay quá !”.
Bốn câu thơ ấy cho đến nay và mãi mãi sau này trở thành hướng phấn đấu của tất
cả Thanh niên Việt Nam đã ra đời tại một khu rừng Việt Bắc như vậy đó.
4. BÁC HỒ Ở PẮC PÓ
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Đầu năm 1941, Bác Hồ về nước, Người đã chọn Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng)
làm nơi đứng chân xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Vào những năm 1940 - 1941, đời sống người dân Pác Bó vô cùng cực khổ,
lương thực chủ yếu chỉ là ngô. Có những gia đình thiếu đói, vào những ngày giáp
hạt phải vào rừng để đào củ mài kiếm sống qua ngày. Có những gia đình bốn đời
truyền nhau một tấm áo chàm, miếng vá nọ chồng lên miếng vá kia, đến khi nhìn
lại thì không còn nhận ra đâu là miếng vải may từ lúc đầu tiên nữa.
Người về nước trong thời điểm đó và chọn hang Cốc Bó làm nơi trú ẩn. Cuộc
sống của Bác kham khổ đạm bạc cũng chỉ cháo ngô và rau rừng như những đồng
bào quanh vùng. Thấy Bác đã có tuổi, vất vả ngày đêm, lại phải ăn cháo ngô sợ
không đủ sức khoẻ nên các đồng chí đã bàn nhau mua gạo để nấu riêng cho Bác.
Biết vậy Bác đã kiên quyết không đồng ý. Có lần ngô non xay để lâu ngày mới
dùng đến, nấu cháo bị chua, các chú cán bộ đề nghị Bác cho nấu cháo gạo để Bác
dùng, Bác vẫn không nghe. Bác hỏi anh em:
- Có cách nào làm cho bắp non khỏi bị chua không?
Mọi người trả lời:
- Nếu rang lên thì có thể ăn được nhưng không ngon.
- Không ngon cũng được, thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí. Một hạt
bắp lúc này cũng quí.
Đầu tháng 4-1941, Bác và các cộng sự chuyển sang sống ở lán Khuổi Nặm.
Có chú bẫy được một chú gà lôi. Mọi người trầm trồ khen con gà đẹp quá và
muốn giữ lại làm cảnh. Bác bảo:
- Nuôi gà lôi giải trí cũng thích, nhưng hiện nay lương thực rất thiếu thốn,
cơm gạo chúng ta còn chưa đủ ăn thì các chú lấy gì để nuôi gà cảnh ?
Anh em thưa với Bác:
- Chúng cháu sẽ bắt sâu bọ để nuôi gà.
Bác đồng ý, nhưng chỉ được vài ngày sau con gà lôi gầy sút đi. Thấy vậy Bác
hỏi:
- Bây giờ chúng ta giải quyết thế nào đây ?
Biết ý, anh em thưa:
- Vậy xin phép Bác cho chúng cháu thịt gà ạ.
Bác nhất trí. Anh em hớn hở vì nghĩ hôm nay sẽ được cải thiện một bữa ra trò.
Nhưng khi thịt gà, Bác chỉ cho phép lấy bộ lòng để nấu một bữa tươi. Còn tất cả
băm thật nhỏ cho nhiều muối và ớt rang mặn lên để vào ống tre ăn dần trong các
bữa sau. Bác còn dặn, nhớ để phần cho những chú đang đi công tác cơ sở chưa về.
Chỉ một miếng ăn nhỏ lạ miệng, Người cũng không quên anh em vắng nhà.
Năm 1942, Bác sang Trung Quốc để gặp gỡ với chính quyền Trung ương
Tưởng Giới Thạch bàn về mối quan hệ giữa hai nước trong công cuộc chống
Nhật. Không may, đi đến phố Túc Vinh, huyện Đức Bảo, Quảng Tây, Trung
Quốc, Bác đã bị chính quyền địa phương Tưởng Giới Thạch bắt giữ. Chúng giải
Bác đi qua hơn 30 nhà lao của 13 huyện thị Quảng Tây, Trung Quốc. Tháng 10-
1943, Bác được trả lại tự do. Đến tháng 10-1944, Bác quay trở lại Pác Bó. Các
anh cán bộ đưa Bác vào nhà cụ Dương Văn Đình (bố chú Dương Đại Lâm) mọi
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
người mừng rỡ khi thấy Bác trở về. Nhìn thấy Bác gầy yếu, tóc bạc đi mấy phần,
ai cũng xót xa. Cụ Dương Văn Đình đã cho người nhà nấu cháo và bưng đến một
bát cháo trứng gà mời Bác. Bác hỏi:
- Ở đây một ngày ăn mấy bữa hả cụ ?
- Dạ, một ngày ăn ba bữa, bữa sáng thì ăn cháo.
- Thế ai cũng được ăn cháo đánh với trứng à ?
Mọi người phải thú thực vì thấy Bác đi đường mệt nên mới làm mời Bác thôi.
Bác không bằng lòng bảo với mọi người
- Các đồng chí làm cách mạng, tôi cũng làm cách mạng, tại sao tôi lại được
đặc biệt hơn các đồng chí ? Cách mạng gian khổ phải cùng nhau chịu đựng, mọi
người ăn sao tôi ăn vậy.
Nói rồi Bác đứng dậy, bưng bát cháo trứng đến mời bà cụ cố của chú Dương
Đại Lâm. Bác nói: “Đây mới là người cần được bồi dưỡng. Bà cố đã sống gần
trăm tuổi rồi, cực khổ vất vả đã nhiều, cần ăn ngon để sống với con cái đến ngày
nước nhà độc lập, vui hưởng thái bình”.
Nghe Bác nói vậy ai cũng thấy sống mũi cay cay. Thương Bác và càng thêm
cảm phục Bác. Chưa bao giờ Bác đòi hỏi phải có sự ưu tiên cho riêng mình.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào Bác cũng đều nghĩ cho người khác và quan tâm đến
tất cả mọi người xung quanh.
5. CÁCH ĐỌC ĐỘC ĐÁO CỦA BÁC
Những ai từng làm việc, từng phục vụ và giúp việc cho Bác Hồ đều thán phục
trước sự ham đọc sách báo của Người. Việc đó đã trở thành nhu cầu, nếp quen
trong sinh hoạt hàng ngày không thể thiếu được của Bác.
Thời gian Bác còn khỏe, Người đọc báo, bản tin vào ban ngày, các buổi tối sau
9 giờ Người đọc sách. Bác có thói quen khi đọc, ngón tay đưa theo dòng, mắt dõi
theo, chỗ nào có vấn đề chú ý thì dừng tay ghi chép hoặc đánh dấu để dễ nhận biết
những chỗ cần chú ý, những số liệu và thông tin cần xử lý. Đọc báo, thấy gương
người tốt muốn thưởng Huy hiệu, Bác dùng bút bi hoặc bút chì màu đỏ khuyên
vào. Chỗ nào cần lưu ý, Bác đánh dấu gạch chéo (/); đánh dấu bằng chữ X và
gạch chéo (X/) là chú ý dòng; (!) là lạ; có vấn đề chưa rõ ràng, còn nghi ngờ,
Người đánh dấu chấm hỏi (?) và yêu cầu văn phòng xác minh lại. Đoạn nào cần
xem kỹ, Bác đánh dấu gạch chéo và chấm phẩy (/;). Đã xem xong, Bác viết chữ
V Các đồng chí phục vụ cứ nhìn vào các ký hiệu đó là hiểu và thực hiện theo ý
của Người. Bác cũng hay dùng chữ Hán để đánh dấu. Chữ Hán viết dọc, những
chỗ lề nhỏ, viết chữ Hán không đè lên chữ của sách báo, quan trọng hơn là chữ
Hán giữ được nội dung mà Bác lưu ý. Có những lúc Bác trích tư liệu vào cuốn sổ
nhỏ cũng bằng chữ Hán, những tư liệu này Bác sử dụng để viết báo.
Tuổi Bác ngày một cao, để bảo vệ giữ gìn đôi mắt của Người, Văn phòng Phủ
Chủ tịch cử các chú Vũ Kỳ, Cù Văn Chước, Lê Hữu Lập đọc sách báo cho Bác
nghe. Người sau này gắn bó nhiều nhất với Bác là chú Cù Văn Chước (từ 1962
cho đến khi Bác ốm nặng). Chú Chước thường đọc sách, báo và các bản tin của
Thông tấn xã và Bộ Ngoại giao, được Bác tín nhiệm cao. Để cho Bác đỡ phải
nghe nhiều, chú Chước thường đọc tóm tắt nêu những ý chính những vấn đề quan
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
trọng nhất. Chú đọc rõ ràng, truyền cảm nhất là khi tuổi Bác đã cao, thính giác
suy giảm thì ngữ điệu phải thật phù hợp, đòi hỏi người đọc phải nhạy cảm và hiểu
ý của Bác.
Thường thì mỗi ngày chú đọc phục vụ Bác vào các buổi sáng, trưa, chiều, tối.
Ngày chủ nhật đọc vào buổi sáng và tối, và chỉ đọc các báo địa phương gửi biếu
Bác. Qua các tin bài báo địa phương phản ánh, Bác phát hiện ra những gương
người tốt việc tốt, yêu cầu văn phòng xác minh và tặng Huy hiệu. Khi đọc báo
vào buổi tối, chú Chước chọn những vấn đề có nội dung nhẹ nhàng để Bác nghe
cho đỡ căng thẳng. Những vấn đề dễ gây xúc động thì đọc vào ban ngày. Bác chú
ý nghe đến mức phát hiện được cả chỗ viết sai, sửa cả cách dùng từ và lỗi chính
tả. Có những chỗ Bác yêu cầu đọc lại nhiều lần để hiểu cho kỹ. chú Cù Văn
Chước cũng là người được Bác giao cho nhiệm vụ cắt những bài báo phản ánh về
gương người tốt việc tốt dán thành từng chuyên đề như: Gương về chiến đấu, sản
xuất, thiếu nhi học giỏi dũng cảm Sau này Bác chỉ đạo ông Hà Huy Giáp, Phan
Hiền in thành các tập sách “Người tốt việc tốt”.
Sách Bác đọc có nhiều thể loại. Nguồn sách báo gửi tới để Bác sử dụng có từ
nhiều nguồn khác nhau: Sách biếu của các tác giả gửi tặng, sách biếu của những
cá nhân và tổ chức nước ngoài tặng Bác qua Bộ Ngoại giao hoặc các đoàn của ta
đi công tác, Bác đi thăm các nơi được biếu, các nhà xuất bản gửi biếu Sách báo
đọc xong, Bác thường gửi tới các nơi cần sử dụng. Những sách báo cần làm tư
liệu, Bác giữ lại, nhưng sử dụng xong lại gửi đi. Vì vậy, Bác không có thư viện
riêng. Những cuốn sách, tờ báo khi Người qua đời còn lưu lại tại nhà sàn là những
báu vật vô giá.
6. CHIẾC THẮT LƯNG CỦA BÁC
Thời kỳ đó là tháng 6-1954. Sau chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tới Genève để đàm phán.
Hội nghị kéo dài được gần một tháng thì các bên tạm nghỉ để về nước báo cáo lập
trường các bên cho chính phủ mình. Trên đường về Việt Nam các bạn Trung
Quốc đã mời phái đoàn Việt Nam nghỉ lại Trung Quốc. Phái đoàn Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu.
Hôm đó, Bác nghỉ tạm tại nhà nghỉ Đảng bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Quảng
Tây. Sáng, Bác Hồ đi họp, ở nhà, một cán bộ của bạn đi kiểm tra phòng Bác xem
các nhân viên phục vụ phòng có chu đáo không. Sau khi xem xét một lượt, anh ta
thấy trên sàn nhà một mảnh vải đã cũ, dài khoảng 80cm, rộng khoảng 10cm, màu
vàng đã bạc. Đoán rằng đây là dây gói tài liệu rớt ra sau khi cầm tài liệu đi, anh ta
bỏ mảnh vải vào thùng đựng giấy rác.
Bác đi họp về, hỏi: “Thắt lưng của tôi đâu? Tôi thường để sau ghế tựa nên bị rơi
xuống đất”. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ vội đi tìm và đưa lại cho Bác.
Một chiếc thắt lưng bằng da, bằng dây dù cũng không đắt hơn một miếng vải là
bao. Nhưng vấn đề ở đây: Cái quí báu trong nhân cách của Bác là tính cách luôn
hy sinh, cái riêng bao giờ cũng là tối thiểu, cái dành cho sự nghiệp chung bao giờ
cũng được ưu tiên tối đa. Phẩm chất trong sáng thể hiện thường trực trong những
cử chỉ của Bác, dù nhỏ nhất. Thời điểm đó, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, thắt
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
lưng chiến lợi phẩm thu được rất nhiều, nhưng Bác vẫn chỉ tiếp tục dùng chiếc
thắt lưng quen thuộc cũ kỹ của mình.
7. GIẢN DỊ VÀ TIẾT KIỆM
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Khi
làm việc ở Văn phòng, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn,
màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập
được rất nhiều, nhất là đức tính giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại,
Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Người thường được chú
Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng
rưng nước mắt. Bà nói với chú Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác
chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở Văn phòng của Bác, tôi (Nguyễn Thị Liên- TNTP)
có những kỷ niệm không bao giờ quên.
Bà kể rằng: Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua Văn phòng,
Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Anh Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
- Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhỏm dậy bảo:
- Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được
gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.
Câu chuyện bà kể khiến mọi người đều xúc động và thương Bác quá chừng. Bác
thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như
cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu.
Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch Nước có tác động
lớn đến suy nghĩ của mỗi con người. Nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang
mở cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Những câu chuyện nhỏ trên đây chính là một trong những nét đẹp về đạo đức Bác
Hồ để chúng mình cùng học tập.
8. NĂM ĐIỀU BÁC HỒ DẠY THIẾU NHI
Sinh thời, Bác Hồ dành rất nhiều tình cảm yêu thương cho thiếu niên, nhi đồng.
Không chỉ yêu quý, Bác còn rất quan tâm giáo dục các cháu. Bác nói thiếu nhi là
người chủ tương lai của nước nhà, cho nên cần phải sớm rèn luyện đạo đức cách
mạng cho thiếu nhi. Nhiều thế hệ thiếu niên, nhi đồng Việt Nam luôn ghi nhớ 5
điều Bác dạy. Nhưng 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi có xuất xứ thế nào hẳn có
nhiều bạn còn chưa tường tận.
Vào năm 1961, nhân Lễ kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền
phong Việt Nam (15/5/1941- 15/5/1961), theo đề nghị của Trung ương Đoàn
Thanh niên Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho
thiếu niên, nhi đồng. Bảo tàng Hồ Chí Minh hiện còn lưu giữ bản thảo của bức
thư đó. Trong thư Bác căn dặn: “Các cháu cũng tham gia đấu tranh bằng cách
thực hiện mấy điều sau đây:
Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Giữ gìn vệ sinh,
Thật thà, dũng cảm”.
Nhưng trong cuốn sổ “Giải thưởng Bác Hồ” là loại sổ dành riêng để thưởng cho
giáo viên và học sinh có thành tích xuất sắc trong học tập năm học 1964- 1965 thì
5 điều Bác dạy trên đây lại được in hoàn chỉnh là:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt,
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.
Chữ “thật tốt” và chữ “khiêm tốn” được bổ sung vào 2 câu cuối, nên mỗi câu đều
có 6 chữ.
Sinh thời, chú Vũ Kỳ - Thư ký của Bác cho biết: “Sở dĩ như vậy vì gần đến cuối
năm 1965, để chuẩn bị phần thưởng cho giáo viên và học sinh vào cuối năm học,
Bác thấy 5 điều Bác dạy thiếu niên, nhi đồng từ năm 1965 trở về trước, 3 câu đầu
mỗi câu có 6 chữ còn 2 câu cuối mỗi câu chỉ có 4 chữ, như vậy không cân đối.
Bác đã suy nghĩ và bổ sung thêm cho mỗi câu đủ 6 chữ”.
Đặc biệt, ở câu thứ 5, Bác thêm chữ “Khiêm tốn” vì từ năm 1965 trở đi, đế quốc
Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh, ném bom bắn phá miền Bắc. Nghe theo tiếng
gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mỗi người làm việc bằng hai để đền
đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt” nên trong cả nước đã xuất hiện ngày càng
nhiều gương “Người tốt việc tốt” ở mọi lứa tuổi. Ở miền Bắc xuất hiện nhiều
gương thiếu nhi dũng cảm cứu người, cứu hàng; miền Nam xuất hiện nhiều gương
Dũng sỹ diệt Mỹ. Nhưng Bác không muốn các em tự kiêu, mà muốn các em
khiêm tốn, vì đức khiêm tốn sẽ giúp các em tiến bộ mãi. Bác Hồ còn đánh giá rất
cao đức khiêm tốn ở các em. Người đã nói đại ý rằng: “Ở nhiều nước, người ta
giết nhau chỉ vì đồng bạc giấy, thế mà ở Việt Nam ta các cháu bé đã biết sống như
thế nào Có cháu lên 6 tuổi cùng bạn đi chơi, bạn sảy chân ngã xuống ao, nếu
chạy về gọi người lớn thì bạn chết mất, cháu liền bám vào bụi cỏ bờ ao, nhoai cái
chân nhỏ xíu ra, miệng bảo bạn “bám vào đây, bám vào đây”. Cháu tuy nhỏ tuổi
mà biết thương bạn như vậy. Thương bạn, thông minh và dũng cảm, cháu lại
khiêm tốn nữa, cứu được mạng người mà không khoe khoang. Văn minh chiến
thắng bạo tàn. Xã hội ta văn minh hơn xã hội Mỹ từ những việc làm của các cháu
bé như vậy ”.
Và 5 điều Bác dạy thiếu niên, nhi đồng đã được phổ biến rộng khắp trong các
trường học ở Việt Nam. Nghe theo lời dạy của Người, thiếu niên, nhi đồng khắp
nơi đã hăng hái thi đua tham gia phong trào “Hai tốt”, phong trào “Thiếu nhi làm
nghìn việc tốt”. Chính những đóng góp nhỏ bé của các em đã góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự nghiệp dựng xây đất nước.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, 5 điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng
vẫn là bài học thuộc lòng quý giá để thiếu nhi ghi nhớ, học tập, rèn luyện và noi
theo
9. CÂY XANH BỐN MÙA
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Bác Hồ rất thông cảm với sự vất vả của nhân dân. Tìm hiểu cụ thể đời sống của
đồng bào, đồng chí, của những người lao động là một nếp làm việc quen thuộc
của Bác. Một hôm, Bác gọi đồng chí phục vụ đến và nói:
- Có những đêm nằm nghỉ nghe thấy tiếng chổi tre quét đường phố rất khuya, Bác
nghĩ rằng mùa đông, các cô chú công nhân quét đường vất vả lắm. Chú thử tìm
cách điều tra cụ thể rồi nói lại cho Bác biết.
Vâng lời Bác, một đêm nọ, chú cán bộ giúp lững thững dạo theo hè phố từ lúc
người công nhân bắt đầu làm việc cho đến lúc dừng tay. Một tối làm việc như vậy
họ phải đi đoạn đường khá dài, làm việc thầm lặng và rất vất vả. Câu chuyện công
việc của người công nhân quét đường trong đêm đông được báo cáo lại với Bác
rất tỉ mỉ.
Nghe chú giúp việc nói, Bác suy nghĩ hồi lâu rồi bảo:
- Chú nhớ nhắc những cơ quan có trách nhiệm phải có chế độ cấp phát quần áo
lao động để bảo vệ sức khỏe cho các cô các chú ấy, nhắc nhở cán bộ phụ trách các
cấp phải quan tâm đúng mức đến anh chị em làm nghề vất vả này.
Thời gian trôi qua Lần ấy, Bác có việc đi sang nước bạn. Nước bạn đang mùa
đông lạnh giá, hầu hết cây cối đều trụi lá. Người bỗng phát hiện ra một loài cây
vẫn xanh. Bác hỏi cán bộ địa phương, được biết đúng là loài cây có sức sống tốt,
bốn mùa đều xanh tươi. Người quyết định xin giống cây ấy mang về Việt Nam.
Về nước, Bác trao giống cây đó cho người làm vườn và nói:
- Đây là loài cây mà mùa đông ít rụng lá. Chú trồng thử xem. Nếu chịu được khí
hậu nước ta và xanh tốt thì sau này đem trồng dọc các đường phố, mùa đông vừa
có cây xanh, vừa đỡ vất vả, đỡ tốn công cho anh chị em công nhân quét đường.
Trong Phủ Chủ tịch, gần nhà sàn của Bác, hiện vẫn còn loại cây trên, không rõ tên
khoa học của loài cây ấy là gì, anh chị em vẫn thường gọi là “Cây xanh bốn mùa”.
10. CƯA CÂY PHẢI ĐỂ HỞ MẠCH
Đầu năm 1953, ông Cải cùng nhiều thanh niên quê Thanh Hóa được tuyển chọn
điều lên chiến khu Việt Bắc, bổ sung vào Đội Xây dựng thuộc Ban kiểm tra 12- bí
danh của Chủ tịch Phủ - Thủ tướng phủ tại An toàn khu (ATK) Sơn Dương,
Tuyên Quang.
Cuối năm đó, một đêm cả vùng bị cơn lốc mạnh làm đổ nhiều cây chắn ngang
đường. Đội được lệnh phân làm nhiều tổ đi giải tỏa các con đường mòn khi trời
sáng.
Tổ ông Cải có 6 người, chia thành từng cặp, đang chăm chú cưa từng đoạn cây thì
bỗng thấy Bác đi tới. Anh em vội đứng lên chào Bác, luống cuống quên cả việc
đang làm. Bác xuống ngựa, rồi tiến tới chỗ mọi người đang bối rối. Bác bảo: “Các
chú chào Bác xong lại tiếp tục công việc, khẩn trương lên chứ, sao còn đứng
đấy?”.
Bấy giờ, ai nấy mới vội chạy về vị trí đang làm, cầm cưa. Nhưng luống cuống cưa
mắc kẹt, kéo đẩy đều không được. Bác bảo cặp cưa Cải- Quang: “Các chú phải
một chân giữ cây, một chân đè lên thân cây hai bên cho nó hở mạch thì cưa mới
nhanh được”.
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Bác nhìn sang cặp Tước- Chi, lưỡi cưa cũng đang mắc kẹt giữa thân cây dài vắt
qua đường. Người nói vui, thân mật: “Mấy chú này chắc chưa quen cầm cưa. Cây
này dài, đè chân lên mạch càng ngậm chặt, các chú phải kê đỡ dưới mạch hoặc
một người nâng mạch cưa lên”.
Một người đi cùng Bác cũng đứng hướng dẫn thêm. Anh vừa nói, vừa chỉ tay ra
hiệu. Bác đến bên vỗ vai: “Chú nói đúng. Nhưng miệng nói tay làm giúp các chú
cho nhanh, càng đúng hơn”.
Mọi người cùng cười vui vẻ và Bác cũng giúp một tay dọn dẹp rất nhanh một lối
đi nhỏ.
11. CHUYỆN VỀ 3 CHIẾC BA LÔ
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai cán bộ đi
cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai chú định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang
thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
- Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai chú cán bộ cùng trả lời:
- Thưa Bác, rồi ạ.
Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ một chú
bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.
- Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?
Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có
chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Vậy là hai cán bộ kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.
12. ĂN NO RỒI HÃY ĐẾN LÀM VIỆC
Anh em, bạn bè, họ hàng lâu ngày gặp nhau, cùng uống một chén rượu, ăn với
nhau một bữa cơm cũng là việc thường tình. Cái chính là ở tấm lòng trung thực,
tình nghĩa, kính trọng, yêu thương nhau chứ không nên “khách một khứa mười”
tranh thủ chi tiêu “tiền chùa” xả láng. Khách không nên vì cương vị “gợi ý” khéo
để chủ nhà “nghênh tiếp”.
Những người đã từng được ở gần Bác cho biết, dù trong kháng chiến ở Việt Bắc,
hay khi đã về Hà Nội, kể cả trong những năm chống Mỹ cứu nước, hễ đi công tác
xa, gần, là nhất định Bác “bắt” mang cơm đi theo. Khi cơm nắm, độn cả ngô, mì.
Khi là bánh mì với thức ăn nguội. Chỉ có canh là cho vào phích để đến bữa, Bác
dùng cho nóng.
Nhớ lần về thăm tỉnh Thái Bình, Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân cố nài Bác ở lại ăn
cơm. Bác nói: “Đi thăm tỉnh lụt còn ăn uống nỗi gì!”. Nói xong, Bác lại thương
cán bộ vì đã có cơm sẵn. Bác gọi chú cảnh vệ đưa cơm nắm thức ăn mặn của Bác
đến và bảo:
- Mời đồng chí Bí thư và Chủ tịch đến ăn cơm với Bác. Còn chú và bác sĩ sang
mâm kia ăn cơm với cán bộ tỉnh.
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Thường là đi công tác, đến bữa, Bác cho dừng xe, chọn nơi vắng, mát, sạch, Bác,
cháu mang cơm ra ăn. Làm việc xong, Bác chọn giờ ra về để kịp ăn cơm “ở nhà”.
Nếu không, lại có cơm nấu bữa thứ hai mang theo. Chỉ khi nào ở đâu, công tác lâu
Bác mới chịu “ăn” cơm ở địa phương. Bao giờ Bác cũng dặn “chủ nhà”:
- Đoàn Bác đi có từng này người. Nếu được, chỉ ăn từng này, từng này
Dù chủ nhà có dọn “cỗ” ra, Bác cũng có cách riêng của Bác. Bác nói với anh em:
- Bác cháu ta chỉ ăn hết món này, món này thôi. Còn món này để nguyên.
Nhà chủ thiết tha mời Bác dùng thử món “cây nhà lá vườn”, Bác cũng chỉ gắp vào
bát anh em và bát mình mỗi người một miếng rồi lại xếp ngay ngắn đĩa thức ăn
ấy, kiên quyết để ra ngoài mâm, người ngoài nhìn vào thấy đĩa thức ăn vẫn như
nguyên vẹn. Bác nói với cán bộ:
- Người ta dọn ra một bữa sang, Bác cháu mình có khi cũng chẳng ăn đâu hoặc ăn
chẳng hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: Đấy, Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế
này, thế nọ, cũng điều động người này, người nọ từ giao tế sang, mất thời gian.
Thế là, tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi, thịt
Cứ ăn no rồi đến làm việc.
13. CHÚ LÀM NHƯ THẾ LÀ KHÔNG ĐƯỢC
Vào khoảng năm 1947 bác sĩ Chánh được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe Bác
Hồ. Lần đầu tiên đến gặp Bác, bác sĩ thấy Bác đang nằm trên võng ở cửa đình
Hồng Thái. Thấy bác sĩ đến, Bác ngồi dậy hỏi:
- Chú đi đâu đấy?
- Thưa Bác, cháu là bác sĩ được phân công sang phục vụ Bác.
- Bác không ốm đâu. Chú xuống Văn phòng, chỗ chú Phan Mỹ mà ở và chăm
sóc sức khỏe cho các chú ở dưới đó.
Ngày kháng chiến ở với Bác, bác sĩ Chánh thấy Bác ít bị ốm đau. Lần Bác bị sốt
rét, Bác mời bác sĩ Chánh lên thăm bệnh cho Bác. Khi thấy Bác bị sốt cao, bác sĩ
đang tính xem nên dùng thuốc gì thì Bác đã bảo:
- Bác “ra lệnh” cho chú chữa hai hôm là phải hết sốt!
Bác sĩ Chánh lo quá. Bác sốt cao như thế chữa hai ngày thì khỏi hẳn làm sao
được. Sau khi bác sĩ tiêm cho Bác, cơn sốt hạ dần Bác cười nói:
- Đấy, chú xem, Bác “ra lệnh” chữa hai ngày phải khỏi thế mà đúng như thế đấy!
Một lần, nghe tin vợ bác sĩ đến công tác ở vùng gần đấy. Bác cử bác sĩ đi công tác
đến vùng vợ bác sĩ đang làm việc, có ý cho hai vợ chồng gặp nhau. Vì thời gian
gấp, xong công việc bác sĩ về ngay, không ghé vào thăm vợ.
Khi về tới cơ quan, bác sĩ Chánh gặp Bác, chưa kịp báo cáo công việc thì Bác đã
hỏi ngay:
- Thím ấy có khỏe không?
Khi biết bác sĩ Chánh không gặp được vợ, Bác tỏ ý không vui, Người nói:
- Bác cử chú đi công tác là để cho cô chú gặp nhau. Đã tới đó mà không vào thăm
và động viên thím ấy, chú làm như thế là không được!
14. BỎ MỘT MĂM, LẤY MỘT ĐĨA
Chú Vũ Uy (một trong những người lái xe của Bác) kể cho chúng tôi nghe một
câu chuyện mà chú nhớ mãi:
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
“Đó là vào dịp cuối năm 1950, sau Chiến dịch Biên giới. Tôi được cấp trên phân
công lái xe đưa Bác đi công tác. Một tối trên đường từ Ngân Sơn đi Cao Bằng,
qua đèn chiếu tôi thấy một hòn đá giữa đường. Vốn là lái xe to, quen tay, tôi đưa
xe vào giữa hòn đá, nghĩ bụng sẽ lọt thôi. Nào ngờ hòn đá tai ác bật lên chạm két
nước. Nhảy xuống xe tôi phát hiện ra két bị thủng rồi. Nguy quá, tôi luống cuống
chẳng biết phải làm sao
Bác đến bên, chiếu đèn pin cho tôi, rồi nói:
- Chú cứ bình tĩnh mà chữa. Chữa cho cẩn thận.
Bác không hỏi vì sao xe hỏng, cũng không góp ý phê bình gì.
Vì trên xe có đồng chí thợ máy đi theo nên chẳng mấy chốc lỗ thủng két nước đã
hàn xong. Chúng tôi lại đưa Bác lên đường đi tiếp, đến địa điểm an toàn.
Nghỉ ngơi xong, Bác hỏi tôi:
- Xe làm sao thế chú?
- Thưa Bác, cháu quen lái xe tải, nên thấy hòn đá có thể vượt qua được, không
ngờ nó lại kẹt vào thùng nên bị thủng
Bấy giờ Bác mới nói:
- Đáng lẽ ra chú nên cho xe dừng. Ta lăn hòn đá xuống vực rồi tiếp tục đi. Có lâu
cũng chỉ dăm ba phút, chứ không phải dừng lại đến gần nửa tiếng mà lại giúp các
xe đi sau khỏi gặp nạn. Chú đã “bỏ một mâm mà chỉ lấy một đĩa” đấy!
Tôi nhận lỗi và xin hứa với Bác rút kinh nghiệm, sửa chữa cách nghĩ, cách làm
Cứ như ý tôi sáu chữ Bác dạy “Bỏ một mâm lấy một đĩa” có thể áp dụng trong tất
cả công tác cách mạng. Phải nghĩ tới cái lớn, cái lâu dài, cái chung. Phải cẩn thận
chứ không nên vội vàng, hấp tấp, nghĩ tới cái nhỏ, cái hẹp, cái thiển cận ”
15. CỜ CỦA TA PHẢI BẰNG CỜ CÁC NƯỚC
Bác An Quân, một cựu chiến binh, kể lại:
“Vào khoảng ngày 23 đến 24-8-1945, tôi được lệnh đón đoàn cán bộ cấp trên về
địa phương. Thôn tôi ở bên bờ sông Hồng. Cờ đỏ sao vàng bay trên thôn xóm hai
bên sông. Dưới sông, thuyền xuôi ngược, cờ bay trên đỉnh cột buồm, tạo nên
không khí quật khởi đẹp lạ thường.
Chiếc thuyền đưa đoàn cán bộ tới. Chúng tôi nhận ra trong đó Cụ Hồ. Trông Cụ
gầy yếu xanh xao, tay cầm chiếc gậy song nhỏ, vai đeo túi dết màu chàm. Sau vài
phút chào hỏi, chúng tôi mời Cụ và đoàn cán bộ về trụ sở tự vệ thôn. Tới cổng
thôn, ông Cụ dừng lại xem các khẩu hiệu cách mạng kẻ trên tường. Chợt nhìn
thấy dãy cờ căng trước cổng thôn, Cụ bỗng hỏi:
- Sao các chú làm cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh?
Một đồng chí thưa:
- Dạ, giấy đỏ và vàng nhân dân mua làm cờ nhiều quá nên thiếu! Vì muốn cho đủ
nên chúng cháu phải cắt nhỏ đi một chút ạ!
Cụ khẽ lắc đầu và bảo:
- Không nên! Các chú phải hiểu là cách mạng thành công, nước ta giành được
độc lập và đã ngang hàng với các nước, vì vậy cờ của ta phải bằng cờ các nước
khác. Có thế mới tỏ rõ chí tự cường, tự trọng của mình.
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
Thấu hiểu ý nghĩa lời dạy của Bác, ngay sau đó, một đồng chí chúng tôi đã trèo
lên lấy cờ xuống để sửa lại
Tại một hội nghị quân sự, thấy một số cán bộ “sính chữ”, Bác thân mật nói: Một
vài cán bộ ta dùng từ khó hiểu quá, có lẽ cho rằng như thế mới oai chăng ?! Dùng
chữ “khoảng cách” có tội tình gì, mà các chú phải nói “cự ly”, “ giữ ngựa” lại đi
gọi là “giám mã”
Ít là bao nhiêu ?
Tháng 12-1965, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Hội phụ nữ Hà
Nội quyết định mở Đại hội “Ba đảm đang” để động viên tinh thần chị em. Thành
Hội có viết thư lên báo cáo với Bác Hồ, không ngờ hai ngày sau, Bác cho gọi lãnh
đạo Hội tới gặp Người. Bác hoan nghênh sáng kiến của Hội, bàn kỹ nội dung và
cách làm, rồi bất chợt Bác hỏi: “Thế đại hội định tiêu hết bao nhiêu tiền?”. Chị
phụ trách Hội lúng túng: “Thưa Bác, cũng ít thôi ạ”. Bác cười: “Ít là bao
nhiêu?”. Thấy chị đỏ mặt, Bác không hỏi thêm nữa, chỉ nhẹ nhàng nhắc: “Đại hội
phải bàn những việc thiết thực, tránh hình thức, lãng phí, thì mới có kết quả tốt
được !”.
Vui, mà thấm thía
Tại một Hội nghị quân sự, thấy một số cán bộ “sính chữ”, Bác thân mật nói:
- Một vài cán bộ ta dùng từ khó hiểu quá, có lẽ cho rằng như thế mới oai. Dùng
chữ “khoảng cách” có tội tình gì, mà các chú phải nói “cự ly”, “ giữ ngựa” lại gọi
là “giám mã”
Bác cười, hóm hỉnh tiếp:
- Tất nhiên chữ nào đã Việt hóa rồi, thì ta không phải chữa lại nữa. Thí dụ chữ
“Độc lập”, nếu ta “lấy lại” thì “độc” tức là “một”, lập có thể phiên thành “đứng”.
Lúc đó, câu khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm!”, sẽ bị thay bằng “Việt
Nam đứng một muôn năm” thì nghe chẳng ra sao cả. Hoặc như chữ “khuyết
điểm”, mà lại chữa thành “lỗ hổng”, thì thật buồn cười.
Những người có mặt lúc đó đều ngẩng mặt cười xòa nhưng ai cũng cảm thấy thấm
thía lời dạy của Người.
16. GẦN GŨI VỚI ĐỒNG BÀO
Năm 1960, có một nhà báo nọ được giao nhiệm vụ đi làm tin về cuộc Bác Hồ tiếp
đồng bào dân tộc thiểu số về thăm Hà Nội. Bác đến các bàn chạm cốc với bà con,
tới bàn anh nhà báo, Bác hỏi:
- Chú chúc rượu bà con chưa ?
Anh nhà báo nhanh nhảu:
- Dạ thưa Bác, rồi ạ !
Bác nhìn bộ complet sang trọng của anh phóng viên và vuốt nhẹ cái cà-vạt của
anh, nhắc:
- Hôm nay, Bác tiếp khách toàn là bà con nông dân người dân tộc, chú làm báo
mà mặc thế này, thì gần gũi, tiếp xúc thế nào với bà con !
17. VIỆC NÀO DỄ NHẤT
Hồi ở chiến khu Việt Bắc, các cơ quan đóng sâu ở trong rừng, hằng tháng, mọi
người phải đi lấy gạo về ăn, có khi mất cả ngày mới được một chuyến, không phải
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
không có người ngại. Một lần, Bác đi công tác qua một con suối, thấy rất đông
cán bộ, trong đó có nhiều trí thức, trên đường đi lấy gạo về, đang ngồi nghỉ. Bác
dừng chân hỏi:
- Đố các cô chú, trong nghề nông, việc nào làm dễ nhất ?
Mọi người đua nhau trả lời. Người bảo dễ nhất là gieo mạ, gặt hái; người thì cho
là xay lúa, giã gạo. Một bác sĩ giục Bác:
- Thưa Bác, Bác chấm cho ai trả lời đúng ạ?
Bác cười:
- Theo Bác, việc làm dễ nhất là đi đến kho lấy gạo về nấu ăn
Nghe Bác đáp, cả đoàn cùng cười vui và quên đi hết mệt mỏi nhưng ai cũng thấm
thía lời dạy của Người.
18. BÁC CŨNG CÓ GIẤY MÀ!
Chiến sĩ Lý Phúc Nha được đại đội trưởng phân công bảo vệ một khu vực
quan trọng trong địa điểm tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm
1951 tại Kim Bình, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Đại đội trưởng dặn: “Khu vực
đơn vị ta bảo vệ là cả con người, thì nơi này là bộ óc. Mặc dầu các đại biểu đã
có giấy ra vào và phù hiệu, nhưng phải kiểm tra thật kỹ để bảo đảm nghiêm
mật”.
Lúc sau, Nha thấy một cụ già người cao, đội nón cũ, quần xắn đến đầu gối, chân
đi dép cao su, vai mang túi vải, xăm xăm đi về phía mình. Ông cụ hiền từ hỏi:
- Chú gác ở đây à ?
- Dạ !
Thấy ông cụ định bước vào khu vực cấm, Nha bối rối, vội hỏi:
- Cụ cho cháu xem giấy ra vào ạ.
- Bác đây mà, chú cũng hỏi giấy ư ?
Một cán bộ vừa đi đến, thấy thế cũng bảo:
- Bác đấy, thế mà đồng chí cũng hỏi giấy thì lạ thật !
- Bác cũng phải có giấy mà ! Có giấy thì mới được vào mà !
Người cán bộ toan gắt với Nha, thì ông cụ đã bảo anh ta đi gọi cán bộ đại đội và
ôn tồn hỏi:
- Chú người dân tộc gì ? Quê ở đâu ? Vào bộ đội lâu chưa ?
Lúc này Nha mới thấy ông cụ quen quen, lại hỏi han thân mật, bèn thưa:
- Dạ, cháu người Sán Chỉ, quê ở Thái Nguyên, vào bộ đội được hơn một năm rồi.
Giữa lúc ấy, đại đội trưởng chạy tới, vẻ hốt hoảng:
- Bác Hồ đấy mà, sao đồng chí không để Bác vào nhà của Bác?
Nha sung sướng vì được gặp Bác Hồ, nhưng lại bối rối tự trách mình sao lại đi hỏi
giấy Bác. Bác tươi cười:
- Chú làm nhiệm vụ như vậy là tốt.
Nghe Bác nói thế, Nha mới hết lo.
Sáng hôm sau, hết giờ thể dục, Bác gọi Nha và cán bộ chỉ huy lên gặp. Bác bảo
mọi người ngồi, rồi Bác tự tay rót nước mời. Đoạn, Bác lấy trong cuốn sách ra
một tấm ảnh của Bác, cầm bút ghi mấy dòng chữ phía sau, trao cho Lý Phúc Nha
và nói:
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
- Chú Nha mới vào bộ đội chưa biết Bác. Hôm qua thấy Bác không có giấy nên
không cho vào nơi quy định, như vậy là đúng và đáng khen. Bác thưởng chú Nha
chiếc ảnh của Bác. Còn đại đội trưởng và chính trị viên trao nhiệm vụ cho chiến sĩ
chưa rõ, lại chưa giới thiệu cho chiến sĩ biết Bác, làm trở ngại đến công việc, Bác
phê bình. Các chú có đồng ý không ?
Từ chỗ Bác trở về, Nha sung sướng và cảm động, nhưng cứ thương đại đội trưởng
và chính trị viên vì mình mà bị phê bình.
19. TÀI NGOẠI GIAO CỦA BÁC
Bác Hồ là người xây dựng và vun đắp rất nhiều cho sự lớn mạnh của ngành
ngoại giao Việt Nam. Dưới đây là hai câu chuyện kể của nguyên Bộ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên và nguyên Đại sứ Việt Nam tại năm nước
Bắc Âu Phạm Ngạc về tài ngoại giao của Bác Hồ.
Bác Hồ với Thủ tướng Ấn Độ Neru - Chuyện của Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ lần thứ hai. Trong cuộc mít
tinh có hàng vạn người dự tại Red Fort (Thành Đỏ) ở Thủ đô Delhi, các bạn Ấn
Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như
một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng Ấn Độ ngày ấy là J. Neru thì
chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người khác. Khi Thủ tướng Neru
mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối. Thấy vậy, Thủ tướng
Neru nói: “Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài ngồi lên chiếc ghế này
chính là niềm vinh dự của chúng tôi”. Chứng kiến điều này, hàng vạn người dự
mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước cứ
nhường nhau, chẳng ai chịu ngồi lên chiếc ghế lớn ấy. Cuối cùng, Thủ tướng Neru
đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị
hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay
vang dội và hô rất to: “Hồ Chí Minh muôn năm ! Hồ Chí Minh muôn năm !”.
Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại
của họ về Bác Hồ.
Trong chuyến thăm này, trong một bữa tiệc do Thủ tướng Neru chiêu đãi Bác Hồ
có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng
thìa, dĩa mà dùng 5 ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ
cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng
dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có
vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Neru:
“Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon, chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói
chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch”. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn
tiệc cười vang làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật.
Những bài học của Bác - chuyện của Đại sứ Phạm Ngạc
Mùa Đông năm 1954, một số anh chị em Bộ Ngoại giao được sang Phủ Chủ tịch
xem phim. Mọi người đã yên vị, Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng lặng lẽ đi
vào.
Bác lên tiếng trước: “Hôm nay, các cô chú sẽ nghe Thủ tướng nói chuyện, sau đó
sẽ cùng xem phim. Nhưng Bác phê bình, ở đây có cả các cô chú bên Ngoại giao,
TrườngTHCS Tân Bình Tài liệu Tuyên truyền
thế mà thấy Thủ tướng và Bác vào không ai đứng dậy”. Chúng tôi bật đứng lên
nhận lỗi và nhớ mãi bài học đầu tiên này.
Bác có biệt tài tiếp khách và gây ấn tượng sâu sắc với khách quốc tế, đồng thời
cũng rất cảnh giác. Một lần tiếp đoàn thể thao nước ngoài, khi giới thiệu tới Phó
Đoàn, Bác nói ngay: Tôi biết ông này. Phó Đoàn (sĩ quan tình báo) sau đó thú
nhận, khi Bác sang thăm nước ông ta, ông đóng vai sĩ quan cận vệ, không ngờ
sang Việt Nam mặc thường phục Bác vẫn nhận ra.
Ngày nay ta nêu cao và thực hiện rất hiệu quả chính sách ngoại giao rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước.
Thực tế đường lối đối ngoại này đã được Bác khởi xướng và đặt nền móng ngay
từ khi Người bắt đầu hoạt động cách mạng.
Người đã chủ động giúp đỡ và cộng tác với các sĩ quan tình báo của Mỹ, bố trí 2
sĩ quan Mỹ cùng ở sát bên mình trong an toàn khu để theo dõi tình hình thế giới
và liên lạc với đồng minh. Việc đó đã chinh phục tình cảm của Trung úy Patti và
cộng sự cho mãi đến sau này.
Bác luôn trân trọng tình hữu nghị với các nước anh em và bạn bè. Mặc dù có
những thay đổi trong đường lối và tập hợp lực lượng trên thế giới, nhưng mối
thiện cảm với Bác và dân tộc Việt Nam vẫn được duy trì và phát triển.