Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ung thư thanh quản (Kỳ 2) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.87 KB, 5 trang )

Ung thư thanh quản
(Kỳ 2)
4.2. Các triệu chứng lâm sàng của ung thư thanh quản: Tuỳ theo vị trí
của ung thư khác nhau mà các triệu chứng lâm sàng cũng khác nhau, kể cả thời
gian xuất hiện.
4.2.1. Triệu chứng cơ năng:
- Khàn tiếng ngày càng tăng và dẫn đến phát âm khó khăn, khàn đặc,
mất tiếng.
- Khó thở xuất hiện và tăng dần mặc dù triệu chứng này đã có từ lâu
nhưng ở mức độ nhẹ, bệnh nhân thích ứng được, nhưng sau đó xuất hiện từng cơn
khó thở, nguy kịch nhất là khi bị kích thích dẫn đến co thắt thanh quản, đôi khi
kèm theo một bội nhiễm thứ phát (đợt viêm cấp do cảm cúm, phù nề do tia phóng
xạ) thì khó thở nặng.
- Ho: Cũng là triệu chứng hay gặp nhưng kín đáo và mang tính chất
kích thích, đôi khi có từng cơn ho kiểu co thắt.
- Đau: Chỉ xuất hiện khi khối u đã lan đến bờ trên của thanh quản,
nhất là khi khối u đã bị loét. Đau thường lan lên tai và đau nhói lúc nuốt.
- Đến giai đoạn muộn thì xuất hiện nuốt khó và sặc thức ăn, xuất tiết
vào đường thở thì gây nên những cơn ho sặc sụa. Ở giai đoạn này, toàn trạng cũng
bị ảnh hưởng.
4.2.2. Khám lâm sàng:
- Ung thư biểu mô dây thanh ở giai đoạn đầu thì u thường khu trú ở
một bên dây thanh dưới hình thái một nụ sùi nhỏ hoặc thâm nhiễm nhẹ và hay gặp
ở nửa trước dây thanh hoặc mép trước. Di động của dây thanh ở giai đoạn đầu nếu
là thể tăng sinh thì chưa bị ảnh hưởng nhiều, nhưng nếu là thể thâm nhiễm thì di
động bị hạn chế nhẹ. Sự đánh giá độ di động của dây thanh rất có ý nghĩa trong chỉ
định điều trị.
- U ở hạ thanh môn thì trước hết dây thanh di động bị hạn chế rồi lan
ra quá đường giữa nên dễ nhầm với một u của thanh môn.
- U ở thượng thanh môn thì ít khi phát hiện được ở giai đoạn sớm,
băng thanh thất phù nề che lấp dây thanh cùng bên, niêm mạc dày cộm lên, chắc


cứng, sau đó loét lan nhanh ra nẹp phễu thanh thiệt và xoang lê. Vì vậy u ở vùng
này thường hay gặp ở giai đoạn muộn dưới hình thái thâm nhiễm hay tăng sinh,
đôi khi kèm theo loét và lan vào hố trước thanh thiệt.
- Nếu ung thư thanh quản không được điều trị, thường chỉ kéo dài
được một năm hoặc 18 tháng, tử vong thường do ngạt thở cấp tính, biến chứng
viêm phế quản phổi, suy kiệt hay chảy máu ồ ạt.
4.3. Di căn của ung thư thanh quản:
- Hạch cổ: Tuỳ thuộc vào vị trí của thương tổn u, nên hạch cổ di căn
cũng khác nhau vì nó phụ thuộc vào hệ thống bạch mạch của vùng đó. Hệ thống
bạch mạch này thường có 2 mạng lưới phân giới khá rõ rệt: một mạng ở thượng
thanh môn, một mạng ở hạ thanh môn, 2 mạng này được phân giới hạn bởi dây
thanh. Mạng lưới thượng thanh môn bao gồm bạch mạch từ tiền đình thanh quản
đổ về thân bạch mạch, chui qua phần bên của màng giáp móng và tận cùng của
hạch cảnh trên. Mạng lưới hạ thanh môn cũng khá phong phú tuy ít dày đặc hơn
phần thượng thanh môn. Còn vùng ranh giới tức dây thanh thì hệ bạch mạch rất
bé, nằm rải rác dọc theo dây thanh, sau đó nối với mạng lưới của tiền đình thanh
quản hay hạ thanh môn. Vì vậy ung thư vùng thượng thanh môn thường có hạch
cổ di căn sớm, còn ung thư vùng hạ thanh môn thì di căn xuất hiện muộn hơn. Các
hạch vùng này thường ở sâu, nên khám phát hiện lâm sàng khó hơn.
- Di căn xa của ung thư thanh quản ít gặp hơn của ung thư hạ họng,
theo nhận xét của nhiều tác giả, thường hay gặp là di căn vào phổi (4%) sau đó là
cột sống, xương, gan, dạ dày, thực quản (1,2%). Cho đến nay, vẫn chưa xác định
được những yếu tố gì có liên quan giữa u nguyên phát và di căn xa vào phổi, phế
quản, vì vậy việc kiểm tra các thương tổn ở phổi trước khi điều trị ung thư thanh
quản là hết sức cần thiết.
5. Chẩn đoán:
5.1. Chẩn đoán xác định: Ung thư thanh quản nếu được chẩn đoán sớm,
điều trị kịp thời thì có thể khỏi được với tỉ lệ ngày càng cao. Khác với ung thư
thượng thanh môn và ung thư hạ họng, do các triệu chứng ban đầu kín đáo, không
rầm rộ. Nên người bệnh dễ bỏ qua, không đi khám, còn ung thư thanh môn (dây

thanh) thường xuất hiện sớm, các triệu chứng khó nói, khàn tiếng, nên người bệnh
tự đi khám sớm hơn.
Những trường hợp có thương tổn một bên thanh quản, thương tổn còn rất
khu trú, di động của dây thanh hơi khác thường thì phải kiểm tra theo dõi, làm các
xét nghiệm cần thiết để loại trừ một ung thư.
5.2. Chẩn đoán phân biệt:
- Viêm thanh quản mạn tính phì đại, với một viêm thanh quản thể dày
da (pachidermic) còn khu trú, với một loét do tiếp xúc ở mỏm thanh hoặc một sa
niêm mạc thanh thất.
- Trong giai đoạn đầu, về lâm sàng cần phân biệt với một lao thanh
quản (thể viêm dây thanh hay thể u lao tuberculome).Thể thâm nhiễm ở mép sau
rất giống một thương tổn lao, nhưng thương tổn lao rất ít xuất phát từ vị trí này.
- Với một thương tổn lupus, thường hay gặp ở bờ thanh thiệt và tiền
đình thanh quản nhưng có đặc điểm là cùng tồn tại nhiều hình thái trong một thời
điểm (vừa có loét, vừa có thâm nhiễm, vừa có xơ sẹo) nên chẩn đoán phân biệt
không khó khăn lắm.
- Giang mai thời kỳ thứ 3, giai đoạn gôm chưa loét cũng dễ nhầm với
loại ung thư thâm nhiễm ở vùng thanh thất hay băng thanh thất. Nếu ở giai đoạn
đã loét thì cần phân biệt với u tiền đình thanh quản hay một ung thư hạ họng thanh
quản. Bờ loét không đều loét hình núi lửa, xung quanh rắn, màu đỏ như màu thịt
bò, không đau lắm là đặc điểm của loét giang mai.
- Dây thanh một bên không di động cần phân biệt với một liệt hồi qui
hoặc một viêm khớp nhẫn phễu.
- Với các u lành tính, cần phân biệt với một polip, một u nhú vì các u
này dễ ung thư hoá, nhất là người có tuổi, nam giới. Vì vậy, ở những trường hợp
nay phải khám định kỳ, theo dõi và cần thiết thì phải làm sinh thiết nhiều lần.
- Ở giai đoạn muộn, do các triệu chứng như mất tiếng, khó thở, nuốt
khó, hạch cổ bị cố định đã rõ ràng, nên chẩn đoán không gặp khó khăn lắm, nhất
là khi soi thanh quản thì khối u đã khá rõ rệt, to, choán gần hết vùng thanh quản và
có trường hợp đã lan ra cả mô lân cận.


×