Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Giới thiệu linh kiện thiết bị máy tính pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 57 trang )

Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng

Phần I : GIỚI THIỆU LINH KIỆN
và THIẾT BỊ MÁY TÍNH
1. VỎ MÁY (CASE)
2. BO MẠCH CHÍNH
3. CPU
4. RAM
5. Ổ ĐĨA CỨNG
6. Ổ ĐĨA MỀM
7. Ổ ĐĨA CD-ROM
8. Ổ ĐĨA GẮN NGOÀI
9. CÁC LOẠI CARD
10. THIẾT BỊ NGOẠI
VI




Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
VỎ THÙNG MÁY (Case )
Là bộ phận để gắn các thiết bị vào bên trong máy tính, có nhiệm vụ bảo vệ các thiết bị này.
Có 2 loại vỏ máy và bộ nguồn được gọi là kiểu nguồn AT và ATX.
1. LOẠI VỎ NGUỒN AT
Trước đây phần lớn máy tính sử dụng loại AT. Đối với loại vỏ nguồn này dây nguồn được cắm
trực tiếp vào Contact ở phía trước của vỏ máy. Thường vỏ thùng có diện tích nhỏ gọn. Tấm mắp
đậy của vỏ thùng được thiết kế thành một khối chung.


2. LOẠI VỎ NGUỒN ATX
Hiện nay máy tính sử dụng loại vỏ nguồn ATX. Đối với loại vỏ nguồn này dây nguồn được


cắm vào bo mạch chính (Main Board), thường vỏ thùng có diện tích lớn hơn loại AT. Vỏ máy có
cấu trúc 2 tấm ở hai bên.








Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
BO MẠCH CHÍNH (Main Board)











A8N VM CSM, Asus's Flagship
MicroATX motherboard

An old Octek Jaguar V mainboard with an AMD
386DX-40 processor
Bo mạch chủ hay còn gọi là bo mẹ, bo hệ thống, logic board, trên dòng máy tính Apple, thỉnh
thoảng gọi tắt là mobo. Bo mạch chủ là bo mạch chính, trung tâm nối kết các hệ thống điện phức

tạp.
Một chiếc máy tính thơng thường được tạo nên từ bộ vi xử lý, bộ nhớ, và các thiết bị cơ bản
khác thường nằm ngay trên bo mạch chủ. Các thiết bị khác của máy tính như bộ nhớ ngồi, các
mạch điện điều khiển cho việc trình diễn âm thanh và hình ảnh (bo mạch âm thanh, bo mạch đồ
họa), và các thiết bị ngoại vi thường được gắn vào bo mạch chủ thơng qua các cáp số liệu và các
cáp dẫn nguồn.
Bo mạch chủ thường lớn bằng hoặc hơn khổ giấy A4, gắn chi chít những linh kiện điện tử và
các đường dẫn. Ln có
CPU, bộ não của máy tính gắn trên đó và các thanh RAM, bộ nhớ động.
Các chi tiết khác hay gặp là
card màn hình, xuất hình ảnh ra màn hình, card âm thanh, xuất âm
thanh
ra loa, các cổng, giao tiếp với những thiết bị khác.
Phân loại:
Bo mạch chủ có rất nhiều chủng loại, phù hợp với những kích cỡ khác nhau.
PC/XT: chuẩn bo mạch chủ được thiết kế bởi IBM – cho máy tính gia đình đầu tiên. Được
thiết kế một số lượng lớn các bản sao theo chuẩn mở và do đó trở thành chuẩn cấp số.
AT form factor (Cơng nghệ cấp cao): Một dạng chuẩn mở rộng đầu tiên, tiếp nối thành cơng
của PC/XT. Được biết đến như là Full AT, dùng phổ biến trong dòng máy tính 386. Bây giờ chúng
đã lỗi thời và được thay thế bởi ATX.
Baby AT: sự nối tiếp bo mạch chủ AT của hãng IBM. Kế thừa những đặc tính của AT nhưng
nhỏ gọn hơn. Được dùng khơng cần AGP port.
ATX: Phát triển từ AT và được dùng phổ biến ngày nay.
ETX: Dùng trong hệ thống nhúng và single board computer.
Mini ATX: về cơ bản bản mạch như ATX nhưng dấu chân nhỏ hơn.
Micro ATX: một phiên bản nhỏ của ATX, thường được dùng trong những thùng máy lớn như
Antec Aria
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Flex ATX: một tập hợp ATX rất nhỏ, cho phép những bản thiết kế bo mạch chủ linh hoạt tuỳ
theo vị trí và hình dáng hợp thành.

LPX: về cơ bản được thiết kế bởi Western Digital, cho phép trong những thùng máy nhỏ hơn
tuỳ thuộc vào bo mạch chủ bởi sự sắp xếp của card mở rộng trong khe cắm đứng. Thiết kế này cho
phép card mở rộng nối song song đến bo mạch chủ.
Nhà sản xuất OEM:
Mini LPX: một tập hợp nhỏ hơn của LPX
NLX : bo mạch chủ hiện trạng thấp, hợp nhất một khe cắm, thiết kế phù hợp với xu hướng thị
trường
BTX: chuẩn mới của Intel nối tiếp thành cơng của ATX
Micro BTX và pico BTX: một tập hợp nhỏ hơn của BTX
Mini TTX: Bo mạch chủ tích hợp cao của VIA, thiết kế cho người dùng bao gồm thin-clients
và set-top boxes
WTX: bo mạch lớn, được thiết kế cho những máy có thiết bị sử dụng năng lượng cao( trạm làm
việc cao)
Hầu hết các máy để bàn đều dùng một trong các loại ổ cứng này nhưng máy tính xách tay dùng
ổ cứng tích hợp cao được sản xuất bởi những nhà sản xuất riêng nên máy tính xách tay tốn chi phí
rất cao để sủa chữa và khó nâng cấp
Thông thường các bo mạch được thiết kế theo các yếu tố hình dạng AT và ATX. Ngày nay
chủng loại bo ATX đang chiến lónh ưu thế trên thò trường.
1. LOẠI BO AT
Thơng thường các loại bo AT sử dụng các đầu nối nguồn 6 dây kép, các đầu nối Com1, Com2
và LPT là các dây nối cáp được cắm vào bo mạch chính, ngoại trừ đầu cắm với bàn phím.

2. LOẠI ATX
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Loại bo ATX được cấu tạo gọn gàng hơn. Dây cấp nguồn sử dụng các đầu nối 20 dây. Các đầu
nối Com1, Com2, LPT và bàn phím được thiết kế dính liền trên bo mạch mà khơng sử dụng các
dây cáp để kết nối. Có thêm các cổng kết nối USB, khơng sử dụng các đầu nối của bàn phím truyền
thống mà dùng loại ổ cắm PS/2



Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
CPU (Central Processing Unit)
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống máy tính, có nhiệm vụ phân tích, điều khiển, xử lý,
tính tốn, lưu trữ, truy tìm các thơng tin, được coi như là trái tim và khối óc của máy tính.
Có rất nhiều chủng loại CPU với các tên gọi như Pentium, Celeron, AMD, Athlon, Cyrix
Tùy theo chủng loại cũng như sự phát triển khơng ngừng của cơng nghệ vi xử lý mà người ta
đưa ra nhiều kiểu đế cắm cho các CPU như MMX xử dụng Socket 7, Pentium II, III cho kiểu Slot
1, Slot A cho kiểu Athlon, Pentium III cho kiểu Slot 1, Socket 370

CPU Pentium MMX

CPU AMD K6


CPU Cyrix

CPU Athlon


CPU Pentium II





CPU Pentium 4







CPU Xeon


Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng

Hình ảnh của CPU
1. MƠ TẢ CHUNG:
CPU là một thành phần của máy tính số , nó dịch lệnh và xử lý dữ liêu chứa trong chương
trình máy tính. CPU mang lai một đặc tính cơ bản của máy tính số là khả năng lập trình được, và là
một phần khơng thể thiếu trong máy tính, cùng với bộ nhớ chính và phương tiện xuất/nhập . CPU
được sản xuất từ các mạch tích hợp gọi là vi xử lý. Từ giữa thập niên 70, các vi xử lý đơn chip đã
thay thế hồn tồn các loại khác, và đến nay cụm từ "CPU" thường ám chỉ tới vài loại vi xử lý.
Cụm từ "central processing unit" mơ tả một lớp cụ thể của các máy logíc có khả năng thực thi
các chương trình phức tạp. Định nghĩa rộng này có thể được áp dụng dễ dàng tới nhiều máy tính
trước đó mà sau đó rất lâu thuật ngữ "CPU" được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên thuật ngữ này được
khởi xướng và dùng trong cơng nghiệp máy tính từ đầu thập kỹ 60 (Weik 1961). Dạng, thiết kế và
thực hiện CPU thay đổi nhanh từ đó, nhưng hoạt động cơ bản thì giống nhau.
Các CPU trước kia được thiết kế theo u cầu như là một phần của một máy tính lớn. Tuy
nhiên, chi phí của phương pháp thiết kế theo u cầu cho một ứng dụng cụ thể đã tạo ra sự phát
triển của các lớp bộ xử lý khơng đắt và được chuẩn hóa, phù hợp với nhiều mục đích. Xu thế chuẩn
hóa này nói chung bắt đầu trong thập niên của các máy tính lớn transistor rời rạc (transistor
mainframes) và minicomputers và bùng nổ với sự phổ biến của mạch tích hợp (integrated circuit)
(IC). Các IC cho phép tăng độ phức tạp CPU, các CPU được thiết kế và sản xuất trong khơng gian
rất nhỏ (vài millimeters). Cả sự nhỏ hóa và sự tiêu chuẩn hóa của CPU đã tăng sự hiện diện của các
thiết bị số trong cuộc sống hiện đại vượt xa ứng dụng giới hạn của các máy tính tốn chun dụng.
Các vi xử lý hiện đại xuất hiện trong mọi thứ từ ơ tơ (automobiles) đến điện thoại di động (cell
phones
), đến độ chơi trẻ em.

2. LỊCH SỬ

EDVAC, một trong những máy tính điện tử có lưu chương trình đầu tiên.
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Trước khi sự ra đời của các máy giống CPU ngày nay, các máy tính như là
ENIAC phải đấu lại
dây để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Các máy này thường được ám chỉ cho các máy tính
chương trình cố định, theo nghĩa chún phải được cấu hình lại để chạy chương trình khác. Từ khi
thuật ngữ "CPU" được định nghĩa một cách tổng qt như là thiết bị thực thi phần mềm (computer
program), các thiết bị đầu tiên được gọi đúng nghĩa CPU xuất phát từ sự ra đời của máy tính lưu
chương trình (stored-program computer).
Ý tưởng của máy tính lưu chương trình đã hiện diện trong thiết kế của ENIAC, nhưng bị bỏ
qn vào lúc đầu nên nó khơng thể hồn thành sớm hơn.Vào ngày 30/ 6/ 1945, trước khi ENIAC
hồn thành, nhà tốn học John von Neumann đã đưa ra bài báo có tên "First Draft of a Report on
the EDVAC". Nó đã phát thảo thiết kế của một máy tính lưu chương trình mà thực tế đã được hồn
thành vào tháng tám 1949
(von Neumann 1945). EDVAC được thiết kế để thực hiện một số lượng
cụ thể của các loại khác nhau. Những lệnh này có thể kết hợp để tạo nên chương trinh hữu ích để
EDVAC chạy. Điều đáng chú ý là các chương trình viết cho EDVAC được lưu trong bộ nhớ máy
tính
(computer memory) tốc độ cao hơn là được chỉ rõ bởi sự sắp xếp vật lý của máy tính. Sự vượt
qua giới hạn lớn của ENIAC là số lượng lớn thời gian và cơng sức cần thiết để cấu hình lại máy
tính để thực hiện một nhiệm vụ mới. Với thiết kế của Von Neuman, chương trình hay phần mềm
mà EDVAC chạy có thể thay đổi dễ dàng bằng các thay đổi nội dung của bộ nhớ máy tính.
[1]
Cần chú ý là von Neuman được cơng nhận chính thức với thiết kế máy tính chứa chương trình
bởi vì thiết kế của ơng về EDVAC, mặt khác bởi vì Konrad Zuse cũng đã đề ra ý tưởng tương tự.
Thêm vào đó, cái gọi là kiến trúc Harvard ( Harvard architecture) của Harvard Mark I, cái mà đã
được hồn thành trước EDVAC, cũng dùng một thiết kế lưu trữ chương trình sử dụng băng giấy
đục lỗ (punched paper tape) hơn là bộ nhớ điện tử. Khác nhau quan trọng giữa von Neuman và kiến

trúcHarvard là sự phân biệt sau này về lưu trữ và xử lý của lệnh và dữ liệu của CPU, trong khi
trước đây sử dụng khơng gian nhớ giống nhau cho dữ liệu và lệnh. Các CPU hiện đại hầu hết là
thuộc thiết kế von Neumann, nhưng các thành phần của kiến trúc Harvard cũng được xem xét kỹ.
Hiện tại các thiết bị số, tất cả CPU làm việc với các trạng thái riêng lẻ và do đó u cầu vài loại
thành phần chuyển mạch để phân biệt và chuyển đổi giữa các trạng thái.Trước khi sự chấp thuận
mang tính thương mại của transistor, các rơle điện (electrical relays) và đèn chân khơng ( vacuum
tubes) (các giá trị về điện) được sử dung một cách phổ biến như là các phần tử chuyển mạch. Mặt
dù chúng có những ưu điểm nhất định về tốc độ hơn trước đây với những thiết kế thuần cơ khí,
chúng khơng tin cậy với nhiều lý do. Chẳng hạng, việc xây dựng các mạch điều khiển dòng (direct
current
), mạch logic tuần tự (sequential logic) cho các rơle đòi hỏi thêm phần cứng để giải quyết
vấn đề nảy khi tiếp xúc (rung) (
contact bounce). Trong khi các ống đèn chân khơng phải chịu rung,
chúng phải đốt nóng trước khi hoạt động đúng chức năng và ngay cả khi ngừng hoạt động.
[2]

Thơng thường khi một đèn bị hư, CPU phải được chuẩn đốn để xác định thành phần lỗi để thay
thế. Do đó, các máy tính điện tử trước kia (dựa vào đèn điện tử) có thể nói nhanh hơn nhưng ít tin
cậy hơn các máy tính cơ điện (dựa vào rơle). Các máy tính đèn như EDVAC được giữ trung bình
tám tiếng giữa các lỗi, ngược lại các máy tính rơle như
Harvard Mark I (chậm hơn, ra đời sớm hơn)
rất hiếm khi lỗi (Weik 1961:238).Cuối cùng các CPU dựa vào đèn trở nên vượt trội bởi vì ưu điểm
lớn về tốc độ có đủ khả năng giải quyết các bài tốn thực tế. Hầu hết các CPU đồng bộ chạy với tốc
độ xung đồng hồ (clock rates) thấp so với các phiên bản vi điện tử hiện đại. Tần số tín hiệu đồng hồ
trong tầm từ100 kHz đến 4 MHz rất phổ biến vào thời điểm đó, bị hạn chế bởi tốc độ của các thiết
bị chuyển mạch được tạo cùng.
3. CPU TRANSITOR RỜI RẠC VÀ TÍCH HỢP
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng

CPU,

bộ nhớ nhân, và giao diện bus ngồi của MSI PDP-8/I.
Độ phức tạp thiết kế của CPU tăng khi nhiều cơng nghệ khác nhau hỗ trợ tạo ra các thiết bị điện
tử nhỏ hơn và tin cậy hơn. Sự cải tiến đầu tiên như vậy đến từ sự ra đời của transistor. Các CPU
transistor hóa trong suốt thập niên 50, 60 khơng còn phải xây dựng kềnh càng, khơng tin cậy, với
các phần tử dễ vỡ như đèn chân khơng và rơle điện tử. Với sự cải tiến này các CPU phức tạp hơn,
tin cậy hơn đã được xây dựng trên một hay nhiều bản mạch in (printed circuit boards) chứa các linh
kiện rời.
Trong giai đoạn này, một phương pháp chế tạo nhiều transistor trong một khơng gian nén trở
nên phổ biến. các mạch tích hợp (IC) cho phép số lượng lớn transistor được chế tạo trên một khn
bán dẫn (semiconductor) hay "chip". Đầu tiên chỉ có các mạch số rất cơ bản như các cổng NOR
được thu nhỏ trong các IC. Các CPU dựa hồn tồn vào các IC đó ám chỉ tới các thiết bị độ tích
hợp nhỏ ("small-scale integration") (SSI). Các IC SSI, như những con được sử dụng trong Apollo
guidance computer, thường chứa số lượng transistor ở mức hàng chục. Để tạo tồn bộ CPU từ các
IC SSI u cầu hàng nghìn chip riêng lẻ, nhưng cần khơng gian và năng lượng ít hơn các phiên bản
transistor rời. Khi cơng nghệ vi điện tử phát triển, sự tăng số lượng transistor được đặt trong các IC
làm giảm số lượng các IC rời cần cho một CPU đầy đủ. MSI và LSI (medium- and large-scale
integration) IC tăng số lượng transistor lên hàng trăm, sau đó lên hàng nghìn.
Năm 1964 IBM giới thiệu kiến trúc máy tính System/360, nó được dùng trong các dòng máy
tính chạy cùng chương trình với tốc độ và hiệu xuất khác nhau. Điều này có ý nghĩa ở thời điểm khi
hầu hết các máy tính điện tử khơng tương thích với máy khác, thậm chí chúng được tạo từ một nhà
sản xuất. Trong sự cải tiến này, IBM đã đưa ra khái niệm
microprogram (thường được gọi
"microcode"), khái niệm này vẫn còn thấy dùng rộng rãi trong CPU hiện đại
(Amdahl et al. 1964).
Kiến trúc System/360 đã phổ biến đến mức nó thống trị thị trường máy tính lớn (mainframe
computer) trong vài thập niên tới và nó để lại mốt thừa kế vấn tiếp tục phát triển bởi máy tính hiện
đại như IBM zSeries. Cùng năm, Digital Equipment Corporation (DEC) đã giới thiệu một máy tính
có tầm ảnh hưởng khác nhằm vào lĩnh vực khoa học và nghiên cứu đó là
PDP-8. DEC sau đó đã
giới thiệu dòng

PDP-11 cực kỳ phổ biến hơn dòng ngun thủy, dòng PDP-11 được xây dựng vói
các IC SSI nhưng rốt cuộc được thực hiện bằng các linh kiện LSI khi trở thành thực tế. Hồn tồn
khác với SSI và MSI trước đó, thực hiện LSI đầu tiên của PDP-11 chứa CPU được tạo thành chỉ từ
4 IC LSI (Digital Equipment Corporation 1975).
Các máy tính dựa vào trasistor có nhiều ưu điểm riêng so với các thế hệ trước. Bên cạnh tăng
tính tin cậy và tiêu thụ năng lượng thấp các trasistor còn cho phép CPU hoạt động ở tốc độ cao hơn
do thời gian chuyển mạch ngắn của transistor so với ống điện tử hay rờ le. Nhờ vào độ tin cậy tăng
cao cũng như sự tăng vượt bật tốc độ của các phần tử chuyển mạch (chính là các transistor độc
chiếm trong thời kỳ này), tốc độ xung đồng hồ của CPU ở mức vài chục MHz vào thời điểm này.
Thêm vào đó, trong khi các CPU transistor rời và IC được dùng phổ biến, các thiết kế hiệu quả cao
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
như
SIMD (Single Instruction Multiple Data) vector processors bắt đầu xuất hiện. Các bản phát
thảo trong phòng thí nghiệm sau đó đã tạo ra kỷ ngun của
supercomputers chun mơn hóa được
tạo ra bởi Cray Inc.
4. BỘ VI XỬ LÝ


Khn dạng của vi xử lý
Intel 80486DX2 (kích thước thật: 12×6.75 mm)
Việc giới thiệu vi xử lý (
microprocessor) vào thập niên 1970 đã tác động mạnh thiết kế và thực
hiện của CPU. Từ sau lần giới thiệu vi xử lý đầu tiên (Intel 4004) vào năm 1970 và được sử dụng
rộng rãi vi xử lý đầu tiên (Intel 8080) vào năm 1974, lớp CPU này vượt hẳn các phương pháp thực
hiện CPU khác. Các nhà sản xuất mainframe và minicomputer ở thời điểm này đã nâng cấp kiến
trúc máy tính cũ của họ, và đã tạo ra các tập lệnh tương thích với các bộ vi xử lý. Dưah vào sự ra
đời và thành cơng lớn của personal computer, thuật ngữ CPU bây giờ được hiểu như là vi xử lý.
Các thế hệ CPU trước được chế tạo như là các thành phần rời và các IC nhỏ tích hợp cao trên
một hay nhiều board mạch. Các bộ vi xử lý thì ngược lại, là những CPU được tạo ra từ số lượng rất

ít các IC, thường là một. Kích thước tổng thể CPU nhỏ là kết quả của việc chế tạo trên một khn
(die) đơn làm cho thời gian chuyển mạch nhỏ hơn do các hệ số vật lý như giảm điện dung dây.
Điều này cho phép các vi xử lý đồng bộ có tốc độ xung đồng hồ từ vài chục megahertz tới vài
gigahertz. Thêm vào đó, khi khả năng tạo rất nhiều các transistor nhỏ trên một IC tăng, độ phức tạp
và số lượng transistor trên một CPU tăng nhanh. Xu hướng này được mơ tả theo quy luật Moore,
nó được chứng minh bằng sự tăng trưởng độ phức tạp của CPU (và các IC khác) hơm nay.
Trong khi độ phức tạp, kích thước, cấu tạo và dạng tổng qt của CPU thay đổi nhanh chóng
trong 60 năm qua, điều đáng chú ý là chức năng và thiết kế cơ bản khơng có gì thay đổi. Hầu như
các CPU phổ biến ngày nay có thể mơ tả một cách chính xác như là máy von Neumann stored-
program.
Quy luật Moore đã nêu tiếp tục đúng, sự quan tâm lo ngại phát sinh về giới hạn của cơng nghệ
mạch tích hợp transistor.Sự thu nhỏ cực kỳ của các cổng điện tử là ngun nhân của các tác động
của các hiện tượng như là electromigration và subthreshold leakage trở nên quan trọng hơn. Những
điều quan tâm lo ngại này là các yếu tố chính làm cho các nhà nghiên cứu nghiên cứu các phương
pháp tính tốn mới như là quantum computer, cũng như mở rộng cách sử dụng của parallelism và
các phương pháp nâng cao tính có ích của mơ hình von Neuman cổ điển.
5. HOẠT ĐỘNG CỦA CPU
Khơng kể đến các dạng vật lý, hoạt động cơ bản của hầu hết CPU là thực thi chuỗi các lệnh
được lưu trữ gọi là chương trình. Được thảo luận ở đây là những cái thỏa mãn
von Neumann
architecture. Chương trình được biểu diễn băng một chuỗi các số được giữ trong computer
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
memory
. Có 4 bước mà hầu như các CPU von Neuman dùng trong hoạt động của chúng: fetch,
decode, execute, và writeback.

Lược đồ trình bày một lệnh MIPS32 được giải mã (MIPS Technologies 2005)
Bước đầu tiên, fetch, u cầu nhận một lệnh (instruction) (lệnh được biểu diễn bằng một số hay
một chuỗi các số) từ bộ nhớ chương trình. Vị trí trong bộ nhớ được quyết định bởi PC(bộ đếm
chương trình program counter), nó lưu trữ số xác định vị trí hiện tại trong chương trình. Sau khi

một lệnh được đọc, PC tăng theo chiều dài câu lệnh của đơn vị bố nhớ. Lệnh mà CPU đọc được
quyết định hành vi của CPU. Trong bước giả mã, câu lệnh phân thành nhiều phần khác nhau. Để
hiểu thêm chúng ta phải xem kiến trúc tập lệnh. Thường thì lệnh có phần mã lệnh, tốn hạng. Tốn
hạng có thể giá trị hằng, hoặc con trỏ chỉ tới giá trị của tốn hạng: một thanh ghi hoặc địa chỉ bộ
nhớ.

Sơ đồ khối của CPU đơn giản
Sau đọc và giải mã lệnh, đến bược thực thi câu lệnh. Trong bước này, các phần khác nhau của
CPU được kết nối. Ví dụ, phép cộng, ALU sẽ được kết nối đến tập ngõ nhập và tập ngõ xuất. Ngõ
nhập cung cấp số cộng, và ngõ xuất chứa kết quả. ALU chứa mạch có thể thực thi được các phép
tốn luận lí và số học. Nếu kết quả q lớn thì cờ tràn trong thanh ghi cờ sẽ được thiết lập. Bước
cuối cùng, writeback, kết quả bước thực thi ghi vào thanh ghi nội để có thể truy xuất nhanh bởi câu
lệnh tuần tự. Vài kiểu câu lệnh thao tác PC hơn là dữ liệu một cách trực tiếp. Sau bước này thì quy
trình lặp lại cho câu lệnh tiếp theo.
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
RAM (Module bộ nhớ)
Bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên (thường được viết tắt là RAM) xem như là một khung lưu trữ dữ
liệu và nó cho phép truy xuất bất kỳ ơ nhớ nào (chú ý là một cách ngẫu nhiên chứ khơng phải là
tuần tự). Nguợc lại, các thiết bị nhớ khác (như băng từ, đĩa từ…) có thể truy xuất dữ liệu với bộ lưu
trữ cỡ vừa và chỉ duy nhất bằng lệnh chỉ định bởi sự khác biệt trong thiết kế cơ cấu của chúng
Nhìn chung, RAM trong máy tính được xem như là bộ nhớ chính(hay là bộ nhớ ngun thủy):
vùng hoạt động được dùng cho nhập, xuất, và những ứng dụng, dữ liệu thủ cơng. Các loại RAM
này thường sử dụng trong các vi mạch (IC). Chúng gọi chung là thanh nhớ, hay là thanh RAM bởi
vì chúng đựoc sản xuất hàng loạt như là bảng mạch nhỏ với một gói làm bằng chất las-tic và một
vài thanh gơm. Hầu hết những máy tính cá nhân có những cái khe để gắn vào thêm hay tháo những
linh kiện nhớ ra.
Hầu hết các loại RAM đều có khả năng đọc và ghi. ”RAM” được dùng để trao đổi dữ liệu vói
“bộ nhớ đọc ghi”. Ở đây RAM ngược lại so với bộ nhớ truy xuất tuần tự.
1. MƠ TẢ CHUNG
Máy tính sử dụng RAM để lưu trữ những đoạn mã chương trình và dữ liệu trong suốt q trình

hoạt động. Định nghĩa các từ RAM có nghĩa là với bất kỳ ơ nhớ nào trong RAM thì thời gian truy
xuất đến các ơ nhớ khác nhau là như nhau. Hầu hết những thiết bị khác phụ thuộc vào thời gian
truy xuất đến từng byte hay bit.
2. LỊCH SỬ
Hệ thống nhớ đầu tiên xây đựng bằng đèn chân khơng (vacuum tubes) trơng khá giống mơ hình
của RAM ngoại trừ việc chúng thường xun bị lỗi. Bộ nhớ trung tâm dùng dây kèm với lỗ điện từ
ferit trung tâm (ferrite electromagnetic), cũng có thời gian truy xuất tương đương. Từ “trung tâm”
(core) vẫn còn được dùng bởi vài người lập trình để miêu tả bộ nhớ RAM chính cho máy tính.
Ngày nay khái niệm sơ khai về bộ nhớ ống và trung tâm vẫn còn dùng trong mơ hình RAM được
hiện thực với vi mạch tích hợp.

3. THƠNG TIN VỀ RAM
Thời gian truy xuất bộ nhớ của các linh kiện nhớ ngun thủy trước đây thường bao gồm 1 độ
trễ bất định. Có nhiều loại khác nhau như: Delay line memory, hay Drum memory. Delay line
memory sử dụng tuần tự của xung nhịp sóng âm trong ống thủy ngân để giữ một chuỗi bit. Drum
memory họat động nhiều như ổ đĩa cứng hiện đại, lưu trữ dữ liệu từ trong những vòng tròn của đĩa.
(Hãy xem mục bộ nhớ ngun thủy để bàn luận nhiều hơn trong những trường hợp giả định và
trong những trường hợp khác. )
Nhiều loại RAM là bay hơi nghĩa là khơng giống một số dạng lưu trữ khác của máy tính chẳng
hạn như đĩa và băng, RAM bay hơi sẽ mất hết dữ liệu khi máy tính tắt nguồn. RAM ngày nay lưu
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
trữ 1 bit dữ liệu bằng cách nạp điện áp vào tụ điện như RAM động (DRAM ), hay là sử dụng Flip-
Flop để lưu trữ như là RAM tĩnh (SRAM). Chúng ta cần phân biệt SRAM (Static Ram) và SDRAM
(Single Dynamic Ram).
Gần đây, những thiết bị RAM khơng bay hơi đang được phát triển, chúng sẽ lưu trữ dư liệu
ngay cả khi mất nguồn cung cấp. Cơng nghệ sử dụng bao gồm các sợi cacbon nhỏ và hiệu ứng từ.
Vào mùa hè năm 2003, RAM từ với dung lượng là 128 Kb bắt đầu xuất hiện trên thị trường, mà
sản xuất với cơng nghệ 0. 18 µm. Cơng nghệ trung tâm MRAM sẽ đặt nền tảng cho việc sản xuất
RAM từ. Vào tháng 6 năm 2004, Infineon Technologies đã khánh thành 1 loại RAM đầu tiên với
dung lựong là 16 Mb cũng bằng cơng nghệ 0. 18 µm.

Bằng các sợi cacbon nhỏ, cơng nghệ cao Nantero đã xây dựng nên 1 thanh RAM với dung
lượng 10
GB vào năm 2004.
Phần mềm “phân chia” một cổng RAM của máy tính, cho phép nó họat động nhanh như một
đĩa cứng tốc độ cao, nó được coi như là một RAM disk. Trừ khi RAM disk được sử dụng là khơng
bay hơi, nếu khơng thì một RAM disk sẽ khơng lưu dữ liệu nếu như máy tính bị tắt.
4. Mơđun của các RAM thơng dụng
Common RAM packages as illustrated to the right, from top to bottom:
1. DIP 16 chân (vi mạch RAM, thường là pre-FPRAM)
2. SIPP (thường là FPRAM)
3. SIMM 30 chân (thường là FPRAM)
4. SIMM 72 chân (so-called "PS/2 SIMM", thường là EDO RAM)
5. DIMM 168 chân (SDRAM)
6. DIMM 184 chân (DDR SDRAM)
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng







Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Ổ ĐĨA CỨNG (Hard disk )


Bên trong một ổ cứng sau khi mở nắp và tháo bỏ các tấm đĩa dữ liệu
Ổ cứng, hay còn gọi là ổ đĩa cứng, là thiết bị điện tử dùng để lưu giữ thơng tin dưới dạng nhị
phân trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật liệu từ tính. Ban đầu, ổ cứng được thiết kế để hoạt
động trong máy tính điện tử. Với sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ, ổ cứng ngày có kích

thước càng nhỏ và dung lượng càng lớn. Ngày nay ổ cứng còn được sử dụng trong các thiết bị điện
tử khác như máy nghe nhạc kĩ thuật số, máy ảnh kĩ thuật số, máy quay phim kĩ thuật số, đầu máy
DVD, v.v.
1. CÁC ĐẶC TÍNH THƯỜNG ĐƯỢC QUAN TÂM
Dung lượng (đơn vị gigabyte - GB)
Tốc độ truy xuất trung bình (đơn vị mili giây - ms)
Tốc độ truy xuất trung bình thấp đồng nghĩa với khả năng đáp ứng u cầu đọc ghi dữ liệu cao.
Độ lớn của bộ nhớ đệm (đơn vị megabyte - MB)
Độ lớn của bộ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất hoạt động của ổ cứng.
Số vòng quay một phút (đơn vị vòng/phút -
rpm)
Tốc độ quay của tấm đĩa dữ liệu và mơ tơ.
Kích thước (đơn vị
inch - ")
Hầu hết các ổ đĩa cứng ngày nay có kích thước 3,5" đối với máy để bàn và 2,5" đối với máy
xách tay. Các ổ đĩa 2,5" thường chậm hơn và có dung lượng thấp hơn đồng thời tiêu thụ ít điện
năng hơn và an tồn hơn khi di chuyển. Một kích thước nữa đang ngày càng trở nên phổ biến là các
ổ 1,8" dùng trong các máy nghe nhạc kĩ thuật số MP3. Loại ổ này có mức tiêu thụ điện năng rất
thấp cũng như độ kháng chấn cao.
Độ tin cậy, hay thời gian trung bình giữa các sự cố hỏng hóc (Mean Time Between Failures -
MTBF)
Ổ đĩa SATA 1.0 hỗ trợ tốc độ lên tới 10.000 vòng/phút và mức MTBF lên tới 1 triệu giờ.
Những ổ đĩa kênh sợi quang (Fibre Channel - FC) hỗ trợ tới 15.000 vòng/phút và có giá trị MTBF
đến 1,4 triệu giờ.
Số lượng truy xuất I/O mỗi giây
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Ổ đĩa hiện đại có thể thực hiện khoảng 50 lần ngẫu nhiên hoặc 100 lần tuần tự.
Mức tiêu thụ điện
Chỉ số này đặc biệt quan trọng trong các máy tính xách tay chạy pin.
Độ ồn (đơn vị dBA)

Tốc độ truyền dữ liệu
• Vùng trung tâm: từ 44,2 MB/s đến 74,5 MB/s
• Vùng mép đĩa: từ 74,0 MB/s đến 111,4 MB/s
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Ổ cứng đầu tiên trên thế giới có là IBM 350 Disk File được chế tạo bởi Reynold Johnson ra mắt
năm
1955 cùng máy tính IBM 305. Ổ cứng này có tới 50 tấm đĩa kích thước 24" với tổng dung
lượng là 5 triệu kí tự. Một đầu từ được dùng để truy nhập tất cả các tấm đĩa khiến cho tốc độ truy
nhập trung bình khá thấp.
Thiết bị lưu trũ dữ liệu
IBM 1301 ra mắt năm 1961 bắt đầu sử dụng mỗi đầu từ cho một mặt
đĩa.
Ổ đĩa đầu tiên có bộ phận lưu trữ tháo lắp được là ổ IBM 1311. Ổ này sử dụng đĩa IBM 1316 có
dung lượng 2 triệu kí tự.
Năm 1973, IBM giới thiệu hệ thống đĩa 3340 "Winchester", ổ đĩa đầu tiên sử dụng kĩ thuật lắp
ráp đóng hộp (sealed head/disk assembly - HDA). Kĩ sư trưởng dự án/chủ nhiệm dự án Kenneth
Haughton đặt tên theo súng trường Winchester 30-30 sau khi một thành viên trong nhóm gọi nó là
"30-30" vì các trục quay 30 MB của ổ cứng. Hầu hết các ổ đĩa hiện đại ngày nay đều sử dụng cơng
nghệ này, và cái tên "Winchester" trở nên phổ biến khi nói về ổ đĩa cứng và dần biến mất trong
thập niên 1990.
Trong một thời gian dài, ổ đĩa cứng có kích thước lớn và cồng kềnh, thích hợp với một mơi
trường được bảo vệ của một trung tâm dữ liệu hoặc một văn phòng lớn hơn là trong mơi trường
cơng nghiệp khắc nghiệt (vì sự mong manh), hay văn phòng nhỏ hoặc nhà riêng (vì kích cỡ q khổ
và lượng điện năng tiêu thụ). Trước
thập niên 1980, hầu hết ổ đĩa cứng có các tấm đĩa cỡ 8" (20
cm) hoặc 14-inch (35 cm), cần một giá thiết bị cũng như diện tích sàn đáng kể (tiêu biểu là các ổ
cứng lớn có đĩa tháo lắp được, thường được gọi là "máy giặt"), và trong nhiều trường hợp cần tới
điện cao áp hoặc thậm chí
điện ba pha cho những mơ tơ lớn chúng dùng. Vì lí do đó, các ổ đĩa cứng
khơng được dùng phổ biến trong máy vi tính đến tận năm 1980, khi

Seagate Technology cho ra đời
ổ đĩa ST-506 - ổ đĩa 5¼" đầu tiên có dung lượng 5 megabyte. Có một thực tế là trong cấu hình xuất
xưởng, máy
IBM PC (IBM 5150) khơng được trang bị ổ cứng.

Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng

Một ổ đĩa cứng IBM cổ
Đa số các ổ đĩa cứng cho máy vi tính đầu thập kỉ 1980 khơng bán trực tiếp cho người dùng cuối
bởi nhà sản xuất mà bởi các OEM như một phần của thiết bị lớn hơn (như Corvus Disk System và
Apple ProFile). Chiếc IBM PC/XT được bán ra đã có một ổ cứng lắp trong nhưng xu hướng tự cài
đặt nâng cấp bắt đầu xuất hiện. Các cơng ty chế tạo ổ cứng bắt đầu tiếp thị với người dùng cuối bên
cạnh OEM và đến giữa thập niên 1990, ổ đĩa cứng bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng bán lẻ.
Ổ đĩa lắp trong ngày càng được sử dụng nhiều trong PC trong khi các ổ đĩa lắp ngồi tiếp tục
phổ biến trên máy Macintosh của Apple Computer và các nền tảng khác. Mỗi máy Mac sản xuất
giữa giữa các năm 1986 và 1998 đều có một cổng SCSI phía sau khiến cho việc lắp đặt thêm phần
cứng mới trở nên dễ dạng; tương tự như vậy, "toaster" (máy nướng bánh) Macs khơng có chỗ cho ổ
cứng (hay trong Mac Plus khơng có chỗ lắp ổ cứng), các đời tiếp theo cũng vậy thế nên ổ SCSI lắp
ngồi là có thể hiểu được. Các ổ đĩa SCSI lắp ngồi cũng phổ biến trong các máy vi tính cổ như
loạt Apple II và Commodore 64, và cũng được sử dụng rộng rãi trong máy chủ cho đến tận ngày
nay. Sự xuất hiện vào cuối thập niên 1990 của các chuẩn giao tiếp ngồi như USB và FireWire
khiến cho ổ cứng lắp ngồi trở nên phổ biến hơn trong người dùng thơng thường đặc biệt đối với
những ai cần di chuyển một khối lượng lớn dữ liệu giữa hai địa điểm. Vì thế, phần lớn các ổ đĩa
cứng sản xuất ra đều có trở thành lõi của các vỏ lắp ngồi.
Dung lượng ổ cứng tăng trưởng theo hàm mũ với thời gian. Đối với những máy
PC thế hệ đầu,
ổ đĩa dung lượng 20 megabyte được coi là lớn. Cuối thập niên 1990 đã có những ổ đĩa cứng với
dung lượng trên 1 gigabyte. Vào thời điểm đầu năm 2005, ổ đĩa cứng có dung lượng khiêm tốn nhất
cho máy tính để bàn còn được sản xuất có dung lượng lên tới 40 gigabyte còn ổ đĩa lắp trong có
dung lượng lớn nhất lên tới một nửa

terabyte (500 gigabyte), và những ổ đĩa lắp ngồi đạt xấp xỉ
một terabyte. Cùng với lịch sử phát triển của PC, các họ ổ cứng lớn là MFM, RLL, ESDI, SCSI,
IDE và EIDE, và mới nhất là SATA. Ổ đĩa MFM đòi hỏi mạch điều khiển phải tương thích với
phần điện trên ổ cứng hay nói cách khác là ổ đĩa và mạch điều khiền phải tương thích. RLL (Run
Length Limited) là một phương pháp mã hóa bit trên các tấm đĩa giúp làm tăng mật độ bit. Phần lớn
các ổ đĩa RLL cần phải tương thích với bộ điều khiển nó làm việc với. ESDI là một giao diện được
phát triển bởi Maxtor làm tăng tốc trao đổi thơng tin giữa PC và đĩa cứng. SCSI (tên cũ là SASI
dành cho Shugart (sic) Associates), viết tắt cho Small Computer System Interface, là đối thủ cạnh
tranh ban đầu của ESDI. Khi giá linh kiện điện tử giảm (do nhu cầu tăng lên) các chi tiết điện tử
trước kia đặt trên cạc điều khiển đã được đặt lên trên chính ổ cứng. Cải tiến này được gọi là ổ cứng
tích hợp linh kiện điện tử (Integrated Drive Electronics hay IDE). Các nhà sản xuất IDE mong
muốn tốc độ của IDE tiếp cận tới tốc độ của SCSI. Các ổ đĩa IDE chậm hơn do khơng có bộ nhớ
đệm lớn như các ổ đĩa SCSI và khơng có khả năng ghi trực tiếp lên RAM. Các cơng ty chế tạo IDE
đã cố gắng khắc phục khoảng cách tốc độ này bằng phương pháp đánh địa chỉ logic khối (Logical
Block Addressing - LBA). Các ổ đĩa này được gọi là EIDE. Cùng lúc với sự ra đời của EIDE, các
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
nhà sản xuất SCSI đã tiếp tục cải tiến tốc độ SCSI. Những cải tiến đó đồng thời khiến cho giá thành
của giao tiếp SCSI cao thêm. Để có thể vừa nâng cao hiệu suất của EIDE vừa khơng làm tăng chi
phí cho các linh kiện điện tử khơng có cách nào khác là phải thay giao diện kiểu "song song" bằng
kiểu "nối tiếp", và kết quả là sự ra đời của giao diện SATA. Tuy nhiên, hiệu suất làm việc của các ổ
đĩa cứng SATA thế hệ đầu và các ổ đĩa PATA khơng có sự khác biệt đáng kể.
3. NGUN LÝ HOẠT ĐỘNG
Dữ liệu sẽ được lưu trên những đĩa từ, khi cần truy xuất dữ liệu thì mạch điều khiển sẽ điều
khiển cần đọc/ghi di chuyển trên bề mặt đĩa. Đầu đọc/ghi sẽ tiếp nhận những thơng tin trên bề mặt
đĩa và truyền thơng tin đến bộ xử lý nằm trên bản mạch của HDD.
4. CẤU TẠO
Ngồi 2 thành phần chính là những đĩa từ và đầu đọc/ghi, HDD còn có những thành phần sau:
mạch điều khiền, bộ nhớ đệm (cache), hệ cơ vận hành cần đọc/ghi, hộp bảo vệ.
• Mạch điều khiển: có nhiệm vụ ổn định tốc độ cho motor quay đĩa và vận hành hệ cơ để điều
khiển cần đọc/ghi (một thiết bị điều khiển đầu đọc/ghi). Nó như một cánh tay robot di

chuyển trên bề mặt đĩa để đưa đầu đọc/ghi vào vị trí cần ghi hay đọc dữ liệu.
• Đầu đọc/ghi: được gắn với cần đọc/ghi và chịu sự điều khiển của thiết bị này. Đầu đọc/ghi
có tác dụng đọc dữ liệu từ đĩa hoặc ghi dữ liệu lên đĩa.
• Đĩa: là những miếng đĩa nhỏ hình tròn được phủ một lớp từ tính, đĩa này có thể được sử
dụng hai mặt trên và dưới.
• Mạch xử lý dữ liệu: dùng để xử lý những thơng tin được truy xuất từ đĩa.
• Bộ đệm: là nơi tạm lưu dữ liệu trong q trình truy xuất, HDD có bộ nhớ đệm lớn sẽ có tốc
độ truy xuất dữ liệu cao hơn.
• Hộp bảo vệ: những thiết bị trên được bao bọc bởi hộp bảo vệ rất kín để đĩa khơng thể tiếp
xúc với mội trường bên ngồi và chịu được sự va chạm nhẹ.
5. GIAO TIẾP

Hai giắc cắm SATA trên bảng mạch chủ
Có nhiều chuẩn giao tiếp khác nhau giữa ổ đĩa cứng với hệ thống phần cứng. Sự đa dạng này
xuất phát từ u cầu tốc độ đọc/ghi dữ liệu khác nhau giữa các hệ thống máy tính. Các chuẩn
ATA
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
được sử dụng phổ biến trong
máy tính cá nhân trong khi chuẩn SCSI và Fibre Channel có tốc độ
cao hơn được sử chủ yếu nhiều trong
máy chủ. Các chuẩn giao tiếp ổ cứng phổ biến gồm:
• ATA
• Ultra ATA
• Fibre Channel
• SCSI
• Ultra SCSI
• Ultra160 SCSI
• Ultra320 SCSI
• Serial ATA




Ổ ĐĨA MỀM (Floppy disk )
Có 2 loại ổ dĩa mềm : loại 5.25 inch (1.2 Mb) và 3.5 inch (1.44 Mb). Là thiết bị dùng để lưu trữ
(đọc ghi) dữ liệu với dung lượng nhỏ. Hiện nay chỉ còn phổ biến loại ổ dĩa 3.5 inch do thiết kế của
nó an tồn và nhỏ gọn, các dĩa mềm 1.44 Mb đã từ từ thay thế loại dĩa 1.2 Mb trong các máy tính
cá nhân.

Trong q khứ với dung lượng của ổ đĩa mềm thực sự là hữu ích và rất tiện dụng. Chúng ta có
thể dùng đĩa mềm chạy hệ điều hành. Nó thực sự hữu dụng trong việc di chuyển dữ liệu vì chúng
có thể tháo rời ra một cách dễ dàng. Nhưng với thời điểm hiện tại nó thực sự là một thiết bị 'lỗi thời'
khi USB đang chiếm lĩnh tồn bộ thị trường với giá cả hợp lí và độ bền vượt trội. Trong khi đĩa
mềm trở thành một thứ khơng hợp thời vì độ bền, kinh tế cũng như cơng nghệ. Nhưng dù sao nó
cũng đã có một thời hồng kim trong lịch sử máy tính.
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Ổ ĐĨA CD ROM
(Compact Disk Read Only Memory)
Ổ dĩa CD-ROM là một bước đột phá mới trong việc lưu trữ dữ liệu. Ổ đĩa CD-ROM đã thay thế
ổ đĩa mềm và trở thành phương tiện lưu trữ thơng dụng nhất ngày nay.
Có 2 loại ổ dĩa CD: Loại chỉ đọc và loại có chức năng vừa đọc vừa ghi. Mỗi kiểu ổ đĩa Cd-Rom
có tính năng khác nhau dựa vào loại IDE hoặc SCSI.


Những tốc độ thơng dụng:
Data Transfer Speeds
Tốc độ Megabytes/s Megabits/s Mebibits/s
1x
0.15 1.2 1.1444
2x
0.3 2.4 2.2888

4x
0.6 4.8 4.5776
8x
1.2 9.6 9.1553
10x
1.5 12.0 11.4441
12x
1.8 14.4 13.7329
20x
3.0 24.0 22.8882
32x
4.8 38.4 36.6211
36x
5.4 43.2 41.1987
40x
6.0 48.0 45.7764
48x
7.2 57.6 54.9316
50x
7.5 60.0 57.2205
52x
7.8 62.4 59.5093

Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
Ổ ĐĨA GẮN NGOÀI
1. Ổ ĐĨA "ZIP"
Là thiết bị lưu trữ có thể di chuyển được với mức lưu trữ trung bình, được giới thiệu bởi
Iomega vào năm 1994. Ban đầu nó lưu trữ được 100 MB, nhưng những phiên bản sau này được
tăng lên 250 MB rồi đến 750 MB
Nó được kết nối vào cổng COM hoặc LPT để đọc ghi dữ liệu.




2. Ổ ĐĨA USB




Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng

USB là sự tích hợp của thiết bị lưu trữ dữ liệu dùng bộ nhớ flash với giao tiếp USB. Chúng nhỏ
, nhẹ, di chuyển được và ghi chép được. Dung lượng bộ nhớ thường là 8 MB đến 64 GB. Khi dung
lượng bộ nhớ tăng lên, giá cả cũng tăng theo, như năm 2006 nhiều sản phẩm với dung lượng 1 đến
4 GB với giá khơng mắc hơn nhiều so với sản phẩm dung lượng 128 MB vào năm 2002.
Có những phiên bản dùng cơg nghệ Firewire, nhưng khi chuẩn IEEE1394 khơng còn phổ biến
bằng USB, nó cũng ít được sản xuất.
Đĩa USB có rất nhiều ưu điểm hơn so với các thiết bị lưu trữ cầm tay khác, đặc biết là đĩa A.
Nó nhanh hơn, lưu trữ nhiều hơn và uyễn chuyễn hơn ổ đĩa A.Loại đĩa này dùng chuẩn USB, được
hổ trợ bởi các hệ điều hành hiện đại như Linux, Mac OS X, và Window XP.
Đĩa flash bao gồm nhiều mạch điện tích hợp rất nhỏ được đống gói trong lớp vỏ nhựa hay kim
loại, làm cho đỉa đủ cứng để mang theo trong túi. Chỉ có đầu nối USB được đưa ra ngồi để giao
tiếp hay để kết nối với các thiết bị khác. Hầu hết đĩa flash sử dụng chuẩn USB loại A , nó cho phép
kết nối trực tiếp với các cổng của máy tính cá nhân
Hầu hết đĩa flash hoạt động chỉ khi cung cấp nguồn từ cổng USB của máy tính, và khơng cần
nguồn pin từ bên ngồi. Để truy cập dữ liệu trong đĩa flash, đĩa flash phải đựoc kết nối với máy tính
bằng cách kết nối trực tiếp với cổng USB của máy tính hoặc thơng qua USB hub



Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng


1. USB connector
2. USB mass storage controller device
3. Test points
4. Flash memory chip
5. Crystal oscillator
6. LED
7. Write-protect switch
8. Space for second flash memory chip

Crrative MuVo - thiết bị USB có thể chơi nhạc số
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
CÁC LOẠI CARD
1. VIDEO CARD
Có nhiệm vụ chuyển đổi thơng tin của hệ thống và hiển thị lên màn hình (Monitor) máy tính.
Ngày nay thường thấy có 2 loại bus hệ thống card là PCI và AGP.
Card PCI
Card AGP

GeForce 6600GT (NV43) GPU

Radeon 9800 Pro (R350) GPU
Graphics processing unit (GPU) là thiết bị lưới đồ họa của máy tính cá nhân, máy trạm. Nó hiệu
quả trong việc thao tác và hiển thị đồ họa máy tính, và cấu trúc song song làm cho chúng hiệu quả
hơn các kiểu CPU vói những giải thuật phức tạp. Với một số tác vụ ngun thủy đồ họa để hiện
thực GPU làm cho chúng chạy nhanh hơn là vẽ trực tiếp lên màn hình thực thi bởi CPU. Phổ biến
2D. Nhưng vẫn hỗ trợ 3D nhưng có lẽ với thời điểm hiện tại phục vụ nhiều cho chơi game.
Các chức năng tính tốn
GPU sử dụng transitor để tính tốn với đồ họa 3D. Chúng thường sử dụng giải pháp lưới và ánh
xạ, theo hệ thống tọa độ theo chuẩn của máy tính. Hiện nay thì các nhà sản xuất phần cứng cũng

như các giải pháp phần mềm đang cải tiến giải thuật và cơng nghệ cũng như kỹ thuật làm cho tính
năng ngày càng mở rộng và phát triển. Trong tương lai chúng ta sẽ sử dụng với cơng nghệ 3D. Bởi
vì nó đang trở nên phổ biến và thân thiện người dùng hơn tất cả.
Khoa CNTT, bộ môn Kỹ Thuật Máy Tính CLB phần cứng
2. SOUND CARD
Có nhiệm vụ chuyển đổi tính hiệu âm thanh kỹ thuật số sang tín hiệu tương tự và xuất ra loa
hay ngược lại để thu tín hiệu âm thanh vào máy tính. Có 2 loại bus hệ thống cho card âm thanh là
PCI và ISA



Card âm thanh là một card mở rộng của máy tính, cho phép âm thanh vào ra dưới sự điều
khiển của chương tình máy tính. đặc trưng của card âm thanh là cung cấp âm thanh ở lớp đa
phương tiện như nhạc, video, game…Mộ số máy tính card âm thanh được tích hợp, một số tách rời.
Bo mạch âm thanh (sound card) là thiết bị cho phép chuyển đổi tín hiệu số (digital) thành tín
hiệu tương tự (analog). Tín hiệu số cấu thành từ hàng lọat là các chuỗi ký tự nhị phân 0 hoặc 1, tín
hiệu tương tự là tín hiệu sóng điện từ có dạng hình sin khi nhìn trên biểu đồ hay màn hình máy đo
sóng. Sau khi tín hiệu số được chuyển thành tín hiệu tương tự, chúng sẽ đi qua bộ khuếch đại trong
loa hoặc cũng có thể là dàn ampli lớn rồi được truyền tới màng rung tại các loa và cuối cùng
chuyển hóa thành dạng sóng âm dưới những tần số thích hợp mà tai người có thể nghe (cảm nhận)
thấy được.
Hầu hết card âm thanh đều có đường kết nối đến tín hiệu âm thanh nào đó như đầu ghi băng
hoặc nguốn âm thanh nào khác. Card âm thanh có thể số hố và lưu trữ âm thanh trên ổ cứng máy
tính hoặc chỉnh sửa lại. Nét đặc trưng khác là có đường kết nối microphone và thơng qua đó có thể
dùng phần mềm để nhận dạng giọng nói.
3. SCSI CARD
Là loại card điều khiển giao tiếp thơng tin giữa hệ thống và các thiết bị có giao diện thiết kế
theo chuẩn SCSI như ổ dĩa cứng SCSI, máy Scan SCSI, Ổ CD-ROM

×