Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bà bầu béo, thai nhi vẫn suy dinh dưỡng vì sao? doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.63 KB, 6 trang )

Bà bầu béo, thai nhi vẫn suy
dinh dưỡng vì sao?

Tình trạng bà bầu
thừa cân phải cấp cứu
do nhiễm độc thai
nghén chiếm khoảng
10% trong số thai phụ
tới khám. Đặc biệt có
khá nhiều bà bầu
trong quá trình mang
thai tăng 15 - 25 kg
nhưng thai vẫn bị suy
dinh dưỡng.

Dễ bị nhiễm độc thai
nghén vì mẹ tăng cân
quá mức



Lần sinh đầu tiên, chị Nguyễn Thu Thuỷ (Cầu Giấy,
Hà Nội) chỉ tăng có 12 kg nên sinh con nhỏ (2,9kg) và
nuôi khá vất vả. Vì vậy, lần mang thai này, cả hai vợ
chồng chị xác định cố gắng bồi bổ hết mức để cho
con khoẻ. Hết giai đoạn nghén chị ra sức tẩm bổ và
luôn tự hào về thành tích mỗi tuần lên 1kg của mình.
Khi em bé được 25 tuần chị đã tăng được 12kg,
nhưng bác sĩ vẫn nói là thai nhỏ. Và gần đến lúc sinh
chị tăng được 25kg, nhưng khi sinh con chỉ được
2,3kg và phải nằm lồng kính.



Tình trạng bà bầu tăng cần quá mức 15 - 25kg, sinh
con suy dinh dưỡng (dưới 2,5kg) hiện nay khá phổ
biến. TS Nguyễn Viết Tiến, giám đốc Bệnh việ phụ
sản TW cho biết, nhiều người quan niệm ăn càng
nhiều càng bổ, thai nhi sẽ phát triển tốt nhưng thực ra
đây là nguyên nhân của hàng loạt các nguy cơ: sinh
non, tiểu đường, sinh mổ, thậm chí thai chết lưu.
Thông thường trong thời kỳ mang thai người mẹ chỉ
nên tăng khoảng 9 - 12 kg nhưng nếu tăng cân trên
15kg thai phụ cần phải lưu ý và thường xuyên đi
khám thai. Với những thai phụ tăng cân quá nhanh
nhưng lại bị cao huyết áp, có triệu chứng phù, protein
niệu sẽ là những yếu tố đe doạ tới sự phát triển của
thai nhi, nặng nề hơn có thể làm thai chết lưu. Ngay
cả với những bà bầu không có những bệnh lý về tim
mạch, huyết áp, thận nhưng nếu từ tháng thứ 6 trở
đi tăng khoảng 10kg cũng phải thận trọng bởi có thể
gây ra bệnh cao huyết áp, tiểu đường và dễ sinh non.
Đây cũng là trong những nguyên nhân gây suy dinh
dưỡng bào thai.

Thống kê cho thấy, đái tháo đường thai kỳ xảy ra,
trên khoảng 5 - 10% thai phụ, phần lớn xuất hiện sau
20 tuần thai phụ. Tương tự, cao huyết áp thai kỳ là
một hội chứng bao gồm cao huyết áp, đạm niệu và
phù nề, xảy ra trên khoảng 7 - 8% thai phụ và thường
ở 3 tháng cuối thai kỳ. Tình trạng này làm giảm lượng
máu đến tử cung dẫn đến thai kém nuôi dưỡng.
Thống kê cho thấy, ở người Việt Nam, phụ nữ mang

thai bình thường 59kg, tỷ lệ sẩy thai là 2,1%, tỷ lệ
chết lưu là 1,2%, nhưng nếu quá béo 65,8kg, sẽ nâng
tỷ lệ này lên là 8,7% và 5,3%.

Ăn nhiều nhưng không đủ chất

ThS Phan Bích Nga, phó giám đốc Trung tâm khám,
tư vấn dinh dưỡng (Viện Dinh dưỡng Quốc gia),
nguyên nhân của tình trạng này có thể do bà mẹ ăn
nhiều nhưng ăn chưa đủ các loại thực phẩm dẫn đến
thai nhi bị thiếu đa vi chất, chậm phát triển. Thêm
nữa, tình trạng thiếu máu do thiếu sắt cũng là yếu tố
khiến quá trình nuôi thai của người mẹ không hiệu
quả, trẻ sinh ra dễ bị nhiễm trùng, chỉ số thông minh
thấp. Trong khi đó, ở Việt Nam thiếu máu ở phụ nữ
mang thai khá phổ biến, chiếm khoảng 50%. Đây là
nguyên nhân khiến người mẹ dễ bị nhiễm trùng, sẩy
thai, sinh non, băng huyết khi sinh, làm bào thai kém
phát triển, tăng nguy cơ tử vong cho cả mẹ và con.
Ngoài ra, việc bà bầu tăng cân nhanh nhưng thai vẫn
bị suy dinh dưỡng có thể do các nguyên nhân khác
như thai nhi bị rau cuốn cổ, hoặc do tử cung người
mẹ nhỏ không đủ không gian cho thai nhi phát triển.
Đặc biệt, hiện nay có tình trạng, không ít bà bầu đã
bổ sung quá nhiều canxi dẫn đến không những tăng
thêm nguy cơ bị sỏi thận và tắc sữa, mà còn khiến
cho nhau thai bị canxi hoá quá sớm và không thực
hiện tốt chức năng nuôi dưỡng thai. Thời kỳ đầu là
giai đoạn các bộ phận trong cơ thể của thai nhi phát
triển nhanh nhất, nếu các chị em bổ sung vitamin quá

nhiều, có thể bị sẩy thai. Vì vậy, các bác sĩ khuyên thì
khi mang thai ở thời kỳ giữa nên bắt đầu bổ sung
vitamin, nhưng tốt nhất là qua ăn uống, nếu phải bổ
sung vitamin tổng hợp, cần phải theo sự hướng dẫn
của bác sĩ.

Cách ăn hợp lý để tăng từ 10 - 12kg

Ăn đa dạng thực phẩm và ăn nhiều bữa để đạt nhu
cầu dinh dưỡng.

Để đạt nhu cầu năng lượng, mỗi bữa nên ăn thêm 1
bát cơm cùng với thức ăn so với khi chưa mang thai.

Thức ăn giàu đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa,
các loại đậu: khoảng 150 - 170g thịt cá hoặc 4 - 5 bìa
đậu/ngày và nếu có đìêu kiện mỗi ngày uống 2 ly
sữa. Chất béo nên sử dụng dầu thực vật và chỉ ăn
vừa phải. Chất ngọt ăn vừa phải.

Nên ăn nhiều rau và trái cây tươi khoảng 3 - 5 bát rau
chín và 2 - 4 phần trái cây/ngày.

Sử dụng muối iốt trong ăn uống và chế biến thực
phẩm.

Uống nhiều nước, tối thiểu 2 lít/ngày. Hạn chế tối đa
thức uống có cồn: rượu, bia.


×