Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Khám phá thế giới (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.82 MB, 150 trang )

Khám phá thế giới
10 bãi biển tắm trần lý tưởng nhất thế giới 2006
Hầu hết các khu du lịch tắm trần tuyệt nhất thế giới đều nằm ở châu Âu. Quần đảo Balearic
với hai đảo Ibiza và Formentera là điểm đến lý tưởng cho những du khách chỉ thích mặc
nửa dưới của bộ bikini. Vùng St Tropez miền nam nước Pháp, Forte dei Marmi ở Riviera
của Italy hoặc các đảo của Hy Lạp cũng rất nổi danh.
1. Anse du Gouverneur (vùng St. Barts, French West Indies):
Hầu hết những hòn đảo thuộc chủ quyền của Pháp ở St. Barts đều cho du khách để trần ngực khi
tắm nắng. Nhưng tại Anse du Gouverneur, bạn sẽ được thưởng thức no mắt, sau khi đã vượt qua
đường núi lộng gió. Khu Anse de Grande Saline gần đó cũng rất đẹp, nhưng lượng hắc ín vương
ra từ nơi khai thác dầu trước đây đã cản trở bước chân du khách. Khách sạn St. Barth Isle sang
trọng nằm cách bãi biển 15 phút chạy xe. Vào mùa đông, giá phòng ở đây lên tới 820 USD một
đêm.
2. Bãi biển Clifton (Cape Town, Nam Phi):
Bãi biển Clifton, vịnh Camps và bãi biển Llandudno là 3 trong số những địa danh du lịch nổi tiếng
nhất của thủ đô Nam Phi. Tuy nhiên, Clifton lại được Forbes đưa vào danh sách những bãi biển lý
tưởng cho những người thích tắm trần. Lý do là bãi biển này có 4 vịnh nhỏ biệt lập và kín đáo,
giúp du khách tránh những luồng gió độc mùa hè. Vịnh thứ tư là nơi đông khách nhất, đặc biệt là
trong mùa hè (từ tháng 12 đến tháng 1) vì có cơ sở vật chất đầy đủ nhất. Khách sạn Bay chỉ cách
bờ biển Clifton vài phút đi bộ. Giá phòng tại đây thấp nhất là 200 USD một đêm (từ tháng 10 đến
tháng 4).
Bãi biển Copacabana. (AP)
3. Bãi biển Copacabana (Rio de Janeiro, Brazil):
Bãi cát ở Copacabana dài tới 3 dặm, được dãy núi Sugarloaf và Đại Tây Dương bao bọc. Bức
tượng Đấng cứu thế nổi tiếng của Brazil hướng ánh mắt xuống khu vực này. Những người mê
thể thao chơi bóng đá và bóng chuyền bãi biển trên bãi cát, chen chúc với những người thích tắm
nắng trong những bộ đồ bé xíu. Khách sạn Copacabana Palace xây năm 1923 hướng ra biển,
sẵn sàng phục vụ khách quý. Phòng được cho thuê với giá thấp nhất là 320 USD.
4. Illetes (Formentera, Tây Ban Nha):
Bãi biển này nằm trên hòn đảo nhỏ xíu gần Ibiza, có cùng khí hậu và phong cảnh như những
“hàng xóm” Ibiza, Menorca và Mallorca. Tuy nhiên, Illetes nhỏ hơn, là thiên đường của xe đạp. Vì


vậy, đây được coi là địa điểm lý tưởng cho kỳ nghỉ dành cho gia đình và hội ngộ bạn bè.
Tuy nhiên, Illetes không hề tẻ nhạt. Với bãi biển cát trắng và nước xanh thăm thẳm, các môn thể
thao trên sóng như đua thuyền, thả bè rất được các vị khách tắm trần ưa thích. Du khách có thể
tới Formentera bằng tàu và nên quay về Ibiza để nghỉ ngơi. Khách sạn Pikes luôn chật cứng
khách sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm phục vụ du lịch vào tháng 7. Giá phòng tại đây ít nhất là 244
USD một đêm.
5. La Voile Rouge (St. Tropez, Pháp):
Tuy chỉ là một thành phố cảng nhỏ ở vùng Riviera, St Tropez nổi danh toàn cầu thập niên 1950,
khi trở thành điểm đến của nhiều nhân vật nổi tiếng của làng văn và giới nghệ sĩ như Pablo
Picasso và Jacques Prevért. Diễn viên Brigitte Bardot tới đây vào thập kỷ 1960 và biến St Tropez
trở thành thiên đường tắm nắng, bơi lội và tránh xa thế giới ồn ào. La Voile Rouge là một trong
những địa điểm hút khách nhất khu vực này trong suốt mùa hè. Cách bãi biển khoảng 10 phút
đạp xe là khách sạn Villa Marie. Giá phòng vào giai đoạn cao điểm lên tới 495 USD một đêm.
Bãi biển La Salinas. (digital-ibiza)
6. Las Salinas (Ibiza, Tây Ban Nha):
Đây là nơi lý tưởng cho những ai mê tiệc tùng trong suốt mùa hè, và không phải ai cũng thích bãi
biển này. Những quầy bar trên biển phục vụ du khách tận nơi, nhưng giá không hề rẻ và bạn phải
luôn nhớ mang ví theo mình. Khu bảo tồn động vật hoang dã quanh bãi biển cũng là địa điểm
tham quan tuyệt vời. Dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, mọi thứ ở Ibiza đều rất đắt đỏ. Giá
phòng ở đây là 335 USD trở lên một đêm.
7. Bãi biển Manly (Sydney, Australia):
Đây là nơi có cơ sở vật chất tuyệt vời để làm hài lòng du khách, dù bạn chỉ tới đây một ngày. Các
môn thể thao trên sóng, những nhà hàng ấm cúng, nơi mua bưu ảnh, kem… luôn sẵn sàng phục
vụ. Khách sạn Radisson Kestre nằm ngay trên bãi biển vừa được nâng cấp với giá 4 triệu USD.
Phòng nào cũng có ban công, trong đó có nhiều phòng hướng ra đại dương hoặc cảng Sydney.
Giá phòng thấp nhất là 185 USD.
8. Bãi biển Nikki (St. Tropez, Pháp):
Cùng với La Voile Rouge, đây là một trong những bãi biển tuyệt diệu nhất của vùng St Tropez.
Trên khu du lịch nhan nhản vệ sĩ của các yếu nhân và giới “sao”. Ngay cả các quán café quanh
đó cũng hướng tới những người túi tiền rủng rỉnh. Khách sạn Les Palmiers có giá tương đối rẻ,

mở cửa quanh năm và giá thuê phòng thấp nhất là 125 USD một đêm.
9. Bãi biển Paradise (Mykonos, Hy Lạp):
Đây là thiên đường của những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng trong mùa hè. Rất nhiều quầy bar
được xây dựng trên bãi biển chào mời khách du lịch. Những buổi dạ vũ dưới ánh trăng, trên cát
trắng là khung cảnh quen thuộc ở Paradise. Vào ban ngày, những môn thể thao trên sóng và tắm
nắng vẫn tiếp tục cuốn hút khách du lịch. Khách sạn Belvedere là nơi nghỉ ngơi lý tưởng, với giá
137 USD một đêm.
Plage de Pampelonne. (Yanik Chauvin)
10. Plage de Pampelonne (St. Tropez, Pháp):
Với làn nước trong xanh và những quy định vô cùng rộng rãi với người đi tắm nắng, Plage de
Pampelonne xứng đáng là bãi biển “mát mẻ” nhất vùng St Tropez. Khách sạn Byblos mang phong
cách kiến trúc Địa Trung Hải sẽ là nơi nghỉ ngơi của du khách sau khi vui chơi trên biển. Giá
phòng vào giai đoạn cao điểm là 630 USD một đêm.
H.T. (theo Forbes)
Các thành phố du lịch nổi tiếng của Trung Quốc
Vùng Hoa Bắc có thủ đô Bắc Kinh, miền đông có thành phố Thượng Hải, miền tây có thành
phố La Sa với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp và đặc sắc dân tộc độc đáo, miền nam có
thành phố Côn Minh bốn mùa như xuân.
Trung Quốc hiện có 137 thành phố được đặt danh hiệu thành phố du lịch ưu tú toàn quốc, trong
đó gồm Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân, Trùng Khánh, Thâm Quyến, Hàng Châu, Đại Liên,
Nam Kinh, Hạ Môn, Quảng Châu, Thành Đô, Thẩm Dương, Thanh Đảo, Ninh Ba, Tây An, Cáp
Nhĩ Tân, Tế Nam, Trường Xuân, La Sa Ngoài ra, nước này còn bầu ra 10 thành phố văn hóa
lịch sử nổi tiếng, trong đó có: Cáp Nhĩ Tân, Cát Lâm, Trịnh Châu, Phàn Khánh, Liễu Châu, Thanh
Đảo.
Bắc Kinh
Thành phố này là thủ đô và trung tâm chính trị văn hóa của Trung Quốc. Bắc
Kinh nằm ở phía bắc của vùng đồng bằng Hoa Bắc. Xét về vị trí địa lý, Bắc
Kinh cùng Roma của Italy và Madrid của Tây Ban Nha nằm trên một vĩ tuyến,
thuộc khí hậu gió mùa mang tính lục địa ôn đới, mùa đông và mùa hè tương
đối dài, mùa xuân và mùa thu ngắn và khô hanh. Nhiệt độ bình quân năm là

11,8 độ C.
Bắc Kinh là một thành phố lâu đời đã có 3.000 năm lịch sử. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (năm
770 TCN đến 221 TCN), khu vực Bắc Kinh đã trở thành đô thành của các nước chư hầu Tần,
Hán. Trong thời Tam Quốc, Bắc Kinh cũng là một trong những thị trấn quan trọng ở miền bắc. Nơi
đây trở thành thủ đô từ triều Kim. Sau đó thủ đô của các triều đại Nguyên, Minh, Thanh đều đặt
tại Bắc Kinh.
Sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, nhất là sau khi Trung Quốc thi hành chính sách cải cách
mở cửa hơn 20 năm nay, bộ mặt Bắc Kinh không ngừng đổi mới, những kiến trúc hiện đại vươn
cao sừng sững. Những năm gần đây, Bắc Kinh hằng năm đều tiếp đón hàng triệu du khách nước
ngoài và 10 triệu du khách trong nước.
Lịch sử đã để lại Bắc Kinh nhiều di tích văn vật và cảnh quan nhân văn muôn màu muôn vẻ. Nếu
bạn say mê di tích văn vật, thì hãy đến tham quan Vạn Lý Trường Thành hùng vĩ, hay Tử Cấm
Thành đồ sộ, hoặc du ngoạn viên lâm Hoàng gia Di Hòa Viên, Bắc Hải, Hương Sơn, Thiên Đàn.
Phong cảnh thơ mộng và những kiến trúc lộng lẫy ở đây sẽ khiến bạn say sưa, vô cùng lưu
luyến. Nếu bạn muốn tìm hiểu về nền văn hóa cổ và sự tích của các danh nhân, thì hãy đến tham
quan những cố cư của các danh nhân, xem kinh kịch. Nếu muốn tìm hiểu về tình hình phát triển
của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự của Trung Quốc, bạn có thể tới
tham quan hàng trăm viện bảo tàng nằm rải rác tại Bắc Kinh. Nếu muốn thưởng thức phong cảnh
thiên nhiên, thì đến du ngoạn cảnh non nước tươi đẹp ở vùng ven thành phố Bắc Kinh.
Khu phong cảnh cấp 4 A của Trung Quốc nằm tại Bắc Kinh có Thiên Đàn, Thập tam lăng nhà
Minh, Di hòa viên, cung Hải Dương Bắc Kinh, Bát Đạt Lĩnh Trường thành, Cảnh sơn Bắc hải,
vườn dân tộc Trung Hoa, Cung khoa học kỹ thuật, vườn bách thú và vườn thực vật Bắc Kinh.
Tây An
Tây An là tỉnh lỵ của Thiểm Tây, nằm ở miền tây bắc Trung Quốc, là trung tâm chính trị, kinh tế,
giao thông của khu vực tây bắc và tỉnh nội địa.
Cung điện mùa hè của hoàng tộc Mãn
Thanh. (Travelchinaguide)
Tây An là một trong sáu cố đô của Trung Quốc có niên đại dựng đô sớm
nhất, triều đại nhiều nhất và thời gian lâu nhất, cùng với Lạc Dương, Nam
Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh. Trong lịch sử nước này, theo

giới sử học hiện nay nhận định thì từng có mười triều đại dựng đô tại Tây
An là các triều Tây Chu, Tần, Tây Hán, Tiền Triệu, Tiền Tần, Hậu Tần, Tây
Ngụy, Bắc Chu và Tùy. Do đó, cố đô Tây An đã có ảnh hưởng sâu xa trong
lịch sử Trung Quốc, mà các thành phố khác không thể sánh nổi.
Tây An - một trong bốn đô thành cổ trên thế giới - là thắng cảnh du lịch nổi
tiếng. Tượng binh mã trong lăng Tần Thủy Hoàng được gọi là Kỳ quan thứ
8 của thế giới, nằm ở khu Lâm Đồng của thành phố, với hơn 6.000 bức tượng binh mã, được coi
là một phát hiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Ngoài ra, còn có nhiều khu danh lam thắng cảnh nổi
tiếng như: Đại Nhạn tháp, Hoa Thanh trì, Hoa sơn
La Sa
La Sa là thủ phủ khu tự trị Tây Tạng, tổng diện tích 29.052 km2, nằm ở sườn phía bắc núi
Himalaya. Cả năm phần lớn là trời nắng, ít mưa, mùa đông rét, mùa hè nóng, thuộc khí hậu khô
hạn nửa gió mùa cao nguyên, nhiệt độ bình quân năm 7,4 độ C. Mùa mưa tập trung vào ba tháng
7, 8 và 9. Lượng mưa khoảng 500 mm một năm. Thời gian nắng chiếu trong cả năm là 3.000 giờ
đồng hồ trở lên nên được gọi là Thành phố ánh nắng. La Sa có không khí trong lành, ánh nắng
chan hòa, ngày ấm đêm mát, là một thắng cảnh nghỉ mát hiếm có.
La Sa nằm trên cao nguyên Thanh Tạng nóc nhà thế giới, bình quân cao hơn mặt biển từ 3.600
mét trở lên, khí áp thấp, mật độ không khí nhỏ, hàm lượng ôxi so với nội địa bình quân ít, từ 25
đến 30% . Người mới đến đây đều có phản ứng cao nguyên với mức độ khác nhau như nhức
đầu, khó thở. Ngày đầu tiên sau khi đến La Sa nên nghỉ ngơi, các triệu chứng trên sẽ giảm nhẹ
hoặc không xảy ra. Từ tháng 4 đến tháng 10 là mùa du lịch lý tưởng nhất của Tây Tạng.
La Sa trong tiếng Tạng có nghĩa là mảnh đất thiêng liêng, nơi ở của thần tiên. Thành La Sa có lịch
sử lâu đời và đậm đà không khí văn hóa tôn giáo. Trong khu phố chủ yếu có các phong cảnh như:
chùa Đai Chiêu, phố Bát Lang, cung Pa ta la
(Theo China Broadcast)
Tượng binh mã nhà Tần
trong lăng Tần Thủy Hoàng.
(Travelchinaguide)
Tam giác quỷ vùng biển Bermuda
Bermuda là một trong các đảo san hô nằm ở tận cùng phía bắc, khí hậu ôn hòa và ẩm ướt

quanh năm, nắng chói, có nhiều cảng nước sâu và bãi cát trắng. Cây cối, hoa cỏ rậm rạp,
thạch nhũ kết thành động thủy tinh muôn màu muôn vẻ. Từ đỉnh núi cao 4.200 m nhìn
xuống, biển xanh bát ngát một màu.
Bermuda là một trong các quần đảo nằm ở phía tây Đại Tây Dương, cách
lục địa Bắc Mỹ hơn 900 km, gồm 145 đảo và rất nhiều đá ngầm hợp thành.
Quần đảo này có dạng như cần cẩu, diện tích là 53 km2 với khoảng 20 đảo
có cư dân. Ở 7 đảo lớn có các con đường và cầu trên đê nối liền các đảo.
Đảo có hơn 50.000 người, với 60% là người da đen. Năm 1503, thực dân
Tây Ban Nha, dẫn đầu là Huan Bermuda, là người da trắng đầu tiên đến
đảo và quần đảo được mang tên ông. Đến năm 1609, Quaozri Samos
người Anh cập bến đảo này. Do đó, quần đảo được đổi tên thành
Samosaite. Từ năm 1612, thực dân Anh đến đây buôn nô lệ da đen. Từ
1864, quần đảo chính thức trở thành thuộc địa của Anh, năm 1968 thực
hiện tự trị nội bộ.
Do đảo nằm giữa đường hàng hải, đường hàng không giữa Tây Âu và Bắc Mỹ, gần Mỹ và
Canada nên trở thành điểm du lịch nổi tiếng trên toàn thế giới. Từ thập niên 1970 đến nay, mỗi
năm Bermuda đón khoảng 500.000 đến 600.000 du khách. Quần đảo tuyệt vời này lại nằm giữa
vùng biển tam giác, phía nam bán đảo Florida trên đảo Puerto Rico. Rất nhiều tàu thuyền và máy
bay đã mất tích tại đây khiến người ta kinh hãi.
Ngày 5/12/1945, khí trời mát mẻ, mây tạnh. 5 chiếc máy bay của không quân Mỹ đang bay thành
hàng trên không phận vùng biển này đột nhiên mất dấu vết. Mặt đất mất liên lạc với đội bay, liền
phái hai chiếc máy bay đến cứu hộ. Một trong 2 chiếc này cũng mất tích. Ngày 8/4/1952, tàu chở
hàng Laifudan của Nhật chở đầy lúa mạch, đang chạy trên khu vực này cũng đột ngột mất tích.
Năm 1997, một tàu thủy hạng trung đi vào vùng này. Tàu như bị mê hoặc, hoàn toàn mất định
hướng rồi lật xuống biển. Hơn 300 người trên tàu đều thiệt mạng.
Điều khó hiểu là vào năm 1970, máy bay chở khách cỡ lớn của Mỹ lúc đi qua vùng biển này đột
nhiên mất liên lạc với đài chỉ huy của sân bay. Máy bay biến mất trên màn hình radar theo dõi
trong 10 phút, sau đó lại hiện ra và đáp xuống. Tất cả các đồng hồ trên máy bay đều chạy chậm
10 phút so với trái đất. Theo thống kế, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, có 30 máy bay, 100 tàu và
khoảng 1.000 người đã biến mất tại đây, xác cũng không tìm thấy. Vì vậy, người ta gọi nơi đây là

Tam giác quỷ.
Đường tới Bermuda.
(Bermuda-triangle.org)
Rất nhiều nhà khoa học hàng hải đã nghiên cứu nhưng chưa tìm ra nguyên
nhân của những thảm họa tại vùng biển Bermuda. Tuy nhiên, một số giả
thuyết rất có sức thuyết phục. Có nhà khoa học nhận định, ma quỷ ở đây là
sóng âm thứ, có thể truyền đi rất xa. Con người không nghe được nhưng
có thể quan sát được sóng âm thứ hơn 180 dm. Loại sóng âm này không
chỉ có hại cho khí quản mà còn dẫn đến rối loạn tâm lý, sau cùng là cái
chết. Vì vậy, có thể gọi đây là kiểu giết người không thấy máu. Nếu như
tần số rung của sóng âm thứ thấp hơn 16 lần mỗi giây, sức phá hoại của
nó sẽ rất lớn, có thể làm gãy thân thuyền, cột buồm, máy bay, khiến con
người không thể chịu đựng nổi và không thoát nổi cái chết.
Đối với vùng biển tam giác, biên giới không phải là đất liền mà là sự kết hợp của dòng nước
ngược chiều kim đồng hồ của những dòng chảy ở Đại Tây Dương. Do động đất và núi lửa xảy ra
dưới đáy biển, khiến biển sinh ra độ rung tần số thấp. Dòng xoáy của nước cũng tạo ra sóng âm
thứ. Sóng âm thứ được truyền trong nước với tốc độ 6.000 km/giờ (cao hơn trong không khí). Do
đó, dù biển lặng sóng yên, nhưng gần mặt nước biển có bão. Tàu thuyền đột ngột bị sóng âm thứ
tấn công, dẫn đến tai nạn.
Những xác tàu thuyền và máy bay bị tai nạn đó sẽ đi về đâu? Theo phân tích của các nhà khoa
học, chúng có thể bị cuốn xuống đáy biển sâu thẳm của Đại Tây Dương. Một số nhà khoa học
khác phát hiện, vùng biển tam giác có một toà Kim tự tháp lớn, cạnh đáy dài 300 m, cao 200 m.
Họ khảo sát nhiều lần và phát hiện Kim tự tháp này có những lỗ to. Nước biển tràn qua đó với tốc
độ rất lớn. Sóng biển vỗ dồn dập, mặt biển có màn sương dày đặc. Tàu thuyền qua lại nơi đây có
thể bị cuốn xuống đáy.
Đây chỉ là những giả thuyết. Hy vọng sẽ có ngày sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ khám phá
ra điều bí ẩn này.
(Theo sách Những nền văn minh thế giới)
Bermuda (vàng) trên bản
đồ. (Bermuda-triangle.org)

Thanh bình quần đảo Saint Kilda
Quần đảo nhỏ xíu này nằm lạc lõng trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Scotland 160 km. Nó
được hợp lại bởi những tàn tích của một núi lửa mà sự phân rã và đóng băng đã tạo ra
những vách đứng cao tới 430 m.
Đây là những vách đứng cao nhất và ngoạn mục nhất châu Âu. Khu hệ động vật Saint Kilda là
một ví dụ lý thú về sự phân tán di truyền của một quần thể động vật hạn chế phát triển trong tình
trạng biệt lập: chuột nhắt rừng nhỏ xíu và chim sẻ thót đuôi ở Saint Kilda là những loài động vật
rất đặc sắc, không có ở đâu khác.
Quần đảo này có một trong những quần thể chim biển lớn nhất Bắc Đại Tây Dương, tới hơn 1
triệu con, trong đó đã đếm được 52.000 cặp chim điêu Bassan, 30.000 con chim hải âu, Fanma
và 300.000 cặp vẹt biển.
Quần đảo Saint Kilda (scotland-inverness.co.uk).
Mặc dầu ở vào vị trí biệt lập và điều kiện sống khắc nghiệt, Saint Kilda vẫn có người sống trong
suốt 2.000 năm. Người dân quần đảo này sinh sống bằng thịt chim và trứng chim, dệt len từ loài
cừu Soay (tên một trong những hòn đảo trong quần đảo). Giống cừu nuôi cổ xưa này đã trở lại
trạng thái hoang dã.
Năm 1930, Saint Kilda không còn dân cư. Ngày nay, quần đảo được hưởng quy chế Khu bảo tồn
tự nhiên quốc gia và năm 1986 được ghi vào Danh sách di sản thế giới. Ngôi làng cũ đã được
trùng tu cho những khách du lịch hiếm hoi cập bờ quần đảo vào mùa hè, ngắm phong cảnh khắc
nghiệt và cuộc sống hoang dã trên những hòn đảo lẻ loi này.
(Theo Di Sản Thế Giới)
Nguyên sơ Cappadoce
Cappadoce, vùng núi đá tại Thổ Nhĩ Kỳ, được xem là "độc nhất vô nhị" trên hành tinh. Ngôi
làng Achisar với nét kiến trúc độc đáo, cầu xây bằng đá, quán bar nằm trong hang đá,
đường lát bằng đá, nhà xây trong hang động bằng đá, đồ dùng gia đình cũng bằng đá…
Cappadoce - thành phố du lịch nổi tiếng của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ - với những ngôi làng mang
đậm nét kiến trúc nguyên sơ của người Albi được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
từ thập niên 1980.
Tỉnh giấc, du khách sẽ nhìn thấy người dân trên những chiếc xe bò ung dung ra những cánh
đồng nho làm việc. Họ chỉ trở về nhà khi hoàng hôn đổ xuống các vách đá ngả màu mật. Ruộng

nho của Thổ Nhĩ Kỳ có dạng bậc thang cao 1.300 m. Đến mùa thu hoạch nho chín mọng được
cất thành rượu có mùi vị đặc trưng rất riêng. Vào mùa thu hoạch, người dân tổ chức lễ hội, hát
dân ca, nhảy múa xung quanh những đám lửa to ngoài trời suốt tối… Cạnh đó là những ngôi nhà
Uchisar của người dân bản địa được xây dựng từ thế kỷ thứ 8. Chúng nằm quanh các miệng núi
lửa và ẩn mình trong các pháo đài lộ thiên. Những ngôi nhà hình hộp liền nhau, một nửa khuất
trong hang đá còn nửa kia được xây bằng đá hóa thạch.
Cappadoce nguyên sơ (becquevortfamilytravel).
Độc đáo nhất là khách sạn của ông chủ Jacque Avizou người Pháp. Những căn phòng được xây
dựng trong lòng núi với tiện nghi hiện đại đạt tiêu chuẩn 4 sao. Các phòng nối với phòng khách
bằng cầu thang nhỏ. Sảnh của mỗi phòng ngầm nằm dưới đất. Những viên đá trên tường được
xếp theo nhiều lớp nối nhau rất đa dạng… Khách du lịch tản bộ đến các nhà hàng nổi tiếng của
người Pháp và người Italy thưởng thức những món ăn đặc sản của châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ. Các
thiếu nữ Thổ trong trang phục dân tộc quyến rũ sẽ phục vụ các quý khách tận tình. Du khách tới
những quán bar trong hang động, ngồi cùng nhau nhâm ly cocktail, tách cà phê hay tham gia chơi
domino, tú lơ khơ…
Đến thị trấn Goremme, du khách được tham quan ngôi làng mang đậm kiến trúc của người Thổ
gốc Pháp với các cửa hàng, siêu thị bán những sản phẩm may mặc, áo da, thêu ren… Tại khu
chợ trung tâm, nhiều gian hàng bày bán đồ sành sứ nổi tiếng của Thổ, tranh của các họa sĩ
Thổ…
Ngọn núi lửa Argeu hoạt động cách đây 3 triệu năm sẽ là điểm dừng chân cuối cùng. Sự xói mòn
của những con sóng bạc đầu biển cả đã tạo ra một kỳ quan nổi tiếng thế giới với miệng núi lửa
hình nón ngày nay. Những câu chuyện thần thoại về ác quỷ trong bóng tối và sự tích bí ẩn của
các vò rượu hai quai bằng sành trong các hầm nhà mãi thu hút sự tò mò của du khách.
Một thế giới thiên nhiên đặc trưng là hình ảnh ánh trăng tỏa sáng trên những mỏm núi cao vút. Và
mỗi du khách có thể hứng được bao nhiêu ánh trăng như thế khi màn đêm buông xuống
Cappadoce?
(Theo Thế Giới Phụ Nữ)
Thú vị thủ đô Brussels
Chỉ mất 1 giờ 45 phút, chiếc tàu đẹp đẽ màu đỏ rực đã nuốt gọn đoạn đường dài hơn 300
km đến Gare Midi của Brussels, thủ đô Vương quốc Bỉ. Và chỉ mất hơn 5 phút đáp chuyến

tàu chuyển tiếp, du khách đã đặt chân xuống Gare Central nằm ngay trung tâm thành phố.
Châu Âu vào cuối thu đêm dài ngày ngắn nên gần 8 giờ sáng mà thành phố dường như vẫn còn
chưa hoàn toàn tỉnh giấc. Những giọt mưa thu rơi tí tách mang đến cái lạnh cắt da. Tạt vào một
cửa hiệu nhỏ ấm áp mùi bánh nướng và hương cà phê thơm ngát, du khách vừa khoan khoái
thưởng thức bữa điểm tâm vừa ngắm nhìn những dòng xe nối đuôi lướt qua, đưa các cư dân của
thành phố được mệnh danh là "Thủ đô châu Âu" đến nhiệm sở.
Vương quốc Bỉ cũng chính là quê hương của nhà văn - họa sĩ Hergé - người đã sáng tạo ra nhân
vật Tintin với những chuyến phiêu lưu được độc giả từ trẻ đến già trên cả thế giới yêu thích.
Chẳng thế mà Tổng thống Charles De Gaulle của Pháp trước đây từng thừa nhận anh chàng
phóng viên Tintin ấy còn nổi tiếng hơn cả ông.
Quảng trường Brussels
(albertorossini.com)
Ngay trước nhà ga trung tâm lúc nào cũng có các cô gái lui tới chào mời du khách đi “Golden
tour” một vòng thành phố, với giá 16 euro (trên 300.000 đồng) có giá trị trong ngày và có thể lên
xuống bất cứ điểm tham quan nào. Chiếc xe buýt hai tầng trang bị ống nghe cá nhân, với 6 ngôn
ngữ khác nhau, giới thiệu sơ lược với du khách những công trình nổi tiếng của thủ đô Brussels
như Quảng trường Lớn, Bảo tàng Nghệ thuật, Khu phố cổ Nghị viện châu Âu, Bảo tàng Quân đội
và Hàng không, Công viên thành phố Chuyến cưỡi ngựa (sắt) xem hoa này giúp cho du khách
có được một cái nhìn toàn cảnh trong bước đầu làm quen với Brussels quyến rũ.
Gare du Nord 6 giờ sáng nhộn nhịp hành khách chuẩn bị lên những chiếc tàu nhanh mà chỉ 30
phút nữa thôi đã nhanh chóng tủa đi khắp nơi. Du khách yên vị trên ghế nệm khá sang trọng của
toa hạng nhì mà vẫn còn ngái ngủ, vì muốn kịp đáp chuyến tàu đầu tiên đến Brussels phải thức
dậy từ 5 giờ sáng để đi Metro từ trung tâm Paris đến ga này.
Xe lướt ngang qua Hoàng cung được xây dựng từ thế kỷ 18, được vua Léopold 2 của Bỉ cho sửa
sang lại để sử dụng làm cung điện hoàng gia. Nơi đây chỉ mở cửa cho công chúng tham quan
vào mùa hè. Lá cờ Bỉ ba màu đen, vàng và đỏ bay phất phới trên đỉnh cung điện cho biết nhà vua
Arbert II (lên ngôi năm 1993) đang có mặt trong nước.
Du khách đến tham quan Công viên châu Âu thu nhỏ nằm trong công viên Brussels với mô hình
khoảng 300 danh lam thắng cảnh tiêu biểu của hơn 10 nước châu Âu. Trong công viên rộng
250.000 m2 này thu thập khá toàn diện các thành tựu lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của các

nước trong cộng đồng châu Âu qua mô hình tác phẩm nghệ thuật kiệt xuất xưa lẫn nay, từ tòa
công sở hiện đại của Ủy ban châu Âu đến các cung điện lộng lẫy, đền thờ nguy nga, các cối xay
gió hiền hòa hay tu viện trang nghiêm soi bóng bên hồ nước.
Phía Nam công viên là Quả cầu nguyên tử được xây dựng năm 1958 chào đón hội chợ quốc tế
Brussels. Quả cầu được thiết kế hiện đại với khối hình cầu mô phỏng cấu trúc một phân tử sắt
được phóng đại, gồm 9 quả cầu bạc lơ lửng trên không, mà mỗi khối đều có bản sắc riêng. Bên
trong quả cầu này gồm các phòng triển lãm và một nhà hàng. Nếu đến đây vào buổi tối, du khách
sẽ được thưởng thức 9 quả cầu giao hoán vị trí giống như sự di chuyển của các điện tử trông rất
đẹp đẽ và hoành tráng.
Nổi bật giữa lòng Brussels là Quảng trường lớn (Grand Place) diện tích 20.000 m2 xây vào thế kỷ
11 với nền lát đá hoa cương. Quảng trường này đã được UNESCO ghi vào danh sách di sản văn
hóa nhân loại và từng được Đại văn hào Victor Hugo ca tụng là "quảng trường đẹp nhất thế giới"
vì được bảo tồn tốt nhất châu Âu.
Bao quanh quảng trường là những tòa nhà tráng lệ xây dựng từ thế kỷ 15, tạo nên một khung
cảnh nguy nga. Xưa kia nơi đây quy tụ các phường buôn và những thợ thủ công nghiệp từ khắp
nơi về kiếm sống.
Phía Nam quảng trường là Tòa thị chính, công trình kiến trúc cổ gothique điển hình được khởi
công xây dựng từ năm 1402, với điểm đặc biệt là cổng chính không nằm ở ngay giữa như thông
thường mà lại hơi bị lệch sang bên.
Đối diện Tòa thị chính là tòa nhà trước kia mang tên Cung điện Hoàng đế (King’s House) mặc dù
xưa nay chưa từng có nhà vua nào ngự nơi này cả. Từ thế kỷ 16, tòa nhà này là Trung tâm Hành
chính còn giờ đây là Bảo tàng thành phố.
Ở phía Đông quảng trường có khách sạn Thiên nga trắng nổi tiếng, bởi đây là nơi 150 năm trước
Mác và Ănghen từng ở trong suốt 3 năm lưu lại Bỉ (1845-1848) và đã hoàn thành tác phẩm lớn
“Tuyên ngôn Cộng sản”.
Lang thang dọc con đường nhỏ Bouchers tọa lạc không xa Quảng trường Lớn, không gì thú vị
bằng dừng chân ở một trong các quán bên đường - nơi có bán đủ loại thức ăn, từ món truyền
thống của Bỉ đến các món ăn Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Nhật Bản Du khách đừng bỏ lỡ cơ hội
thưởng thức món "moule mariniere", đặc sản ốc nổi tiếng của Bỉ.
Sẽ thiếu sót nếu đến Brussels mà không đến viếng "Công dân số 1" của thành phố này, đó là bức

tượng Manneken Pis, gọi vui là "Chú bé tồng ngồng đứng đái".
Giống như tháp Eiffel của Pháp hay cối xay gió của Hà Lan, Manneken Pis trở thành biểu tượng
(không chính thức) của Brussels và là một trong những tượng đài nổi tiếng nhất châu Âu.
Bức tượng cao 60 cm, đặt trên đài đá hoa cương ngoài trời, cao 2 mét với mái tóc xoăn, chiếc
mũi hếch này là tác phẩm của bậc thày điêu khắc Jerome Duquesnoy hoàn thành vào năm 1619,
đến năm 1817 được thay bằng bức tượng đồng.
Có rất nhiều dị bản về "lý lịch" chú bé. Người thì cho rằng đây là thiên thần bé nhỏ đã dùng nước
tiểu dập tắt mọi đám cháy lớn cứu nguy cho cư dân toàn thành phố. Truyền thuyết khác lại nói
đây là một chú bé dũng cảm đã cứu Brussels khỏi bị thiêu hủy bởi quân xâm lược Tây Ban Nha
trước khi rút đi. Truyền thuyết cũng kể chú bé huyền thoại này đã nhiều lần bị các đạo quân xâm
lược cướp đi nhưng lại luôn tìm được đường về với thành phố quê hương.
Có lẽ vì yêu thương cậu bé kháu khỉnh và nghịch ngợm, các nhân vật quan trọng và nhiều chính
khách khi đến Brussels đều tặng những bộ y phục đẹp đẽ cho chú diện vào những dịp lễ trọng
đại. Đến nay, gia tài của chú đã lên đến con số 740 bộ trang phục (số liệu năm 2003) được đưa
vào trưng bày trong Bảo tàng thành phố. Bức tượng này cũng là mặt hàng lưu niệm được du
khách ưa chuộng nhất với rất nhiều kích cỡ từ lớn đến nhỏ.
(Theo Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần)
Lễ Đông chí của người Hàn Quốc
Đông chí (Dongji) là lễ hội báo hiệu một năm mới (theo âm lịch) lại bắt đầu đối với người
Hàn Quốc. Đó là ngày mặt trời hồi sinh, ngày dài hơn đêm. Người dân gọi ngày cầu khấn
trời phật và tổ tiên này là A Se, có nghĩa là Tiểu tân niên.
Trong thời phong kiến, các vị vua công bố lịch năm mới cho các triều
thần vào ngày Đông chí. Đây là quyền tối thượng dành cho hoàng
đế, vì lịch có ý nghĩa rất quan trọng trong xã hội trọng nông. Dần
dần, người dân cũng trao đổi lịch với nhau trong khoảng thời gian
này của năm. Đến nay, thói quen đó trở thành truyền thống tặng lịch
cho nhau nhân dịp cuối năm.
Tuy Dongji không còn được người Hàn Quốc coi là ngày lễ lớn như Chuseok (Trung Thu) hay
Seol (Năm mới âm lịch), ngày này vẫn được kỷ niệm với các phong tục như nấu cháo đậu đỏ
(patjuk) để ăn và treo lên cây cối quanh nhà. Người dân trên bán đảo này tin rằng, đậu đỏ có sức

Học sinh tiểu học được dạy nấu cháo
đậu đỏ trong ngày Đông chí. (Yonhap)
mạnh xua đuổi tà ma. Người Hàn Quốc cổ cho rằng, ma quỷ ghét đậu đỏ và những thứ có màu
sắc rực rỡ.
Truyền thuyết Trung Quốc kể rằng, có một cậu bé xấu tính chết vào đúng ngày Đông chí. Ngay
sau đó, bệnh đậu mùa ập đến làng quê của cậu, giết hại vô số người. Bố mẹ cậu bé cho rằng,
chính người con của họ là nguyên nhân làm lây lan căn bệnh chết người này. Họ nhớ ra cậu ghét
đậu đỏ nên lấy loại đỗ này nấu cháo và rải khắp thị trấn. Cuối cùng, bệnh đậu mùa biến mất.
Vì lý do xua đuổi tà ma mà những gia đình có phụ nữ sinh nở thường treo ớt đỏ ở cửa chính.
H.T. (theo Yonhap)
Núi Tae Baek - nơi khởi đầu của năm mới
Khi năm cũ qua đi và năm mới đến, người Hàn Quốc thường tìm đến một nơi đặc biệt để
cầu nguyện. Đó là núi Tae Baek nối bán đảo Triều Tiên, nơi những dòng người đến cầu
cho một xuất phát mới, một quyết tâm mới, một ngày mới.
Trên đỉnh Tae Baek. (KBS)
Núi Tae Baek có nghĩa là Thái Bạch - núi lớn và sáng. Mạch núi bắt đầu từ dãy Baekdu, chạy dài
về phía nam, nhô cao và tạo thành ngọn Tae Baek. Núi không quá cao và hiểm trở, vừa mang vẻ
hùng vĩ đầy nam tính lại vừa có sự dịu dàng, nhu mì đầy nữ tính. Đặc biệt, vào ngày 1/1, từ sáng
sớm, đường lên đỉnh đã tấp nập người lên núi đón năm mới.
Qua chùa Yu Il Sa, mọi người bắt đầu đi sâu vào trong núi. Đã là 4 giờ sáng. Núi vẫn chìm trong
bóng tối nhưng hơn 30 nghìn người tìm đến núi Tae Baek vẫn tiếp tục tiến bước về hướng đỉnh
núi, mang theo những hy vọng của năm mới.
Khi cả tâm hồn và cơ thể đều đã bắt đầu mệt mỏi sau hơn một giờ leo núi, những hàng cây thủy
tùng huyền bí sống ở nơi đây hiện ra, truyền cho du khách nguồn sinh khí mới.
Khoảng 4.000 cây thủy tùng đứng trấn giữ sườn núi Tae Baek từ ngàn xưa. Đây là loài cây có
sức sống rất dẻo dai. Lá cây luôn xanh tươi, minh chứng cho sức sống mãnh liệt của nó. Bởi thế,
đến nơi này, những người leo núi đang dần kiệt sức nhìn thấy hàng cây mà như được tiếp thêm
sinh lực. Và chẳng mấy chốc họ đã lên tới đỉnh núi cao 1.567 m so với mực nước biển.
Đàn tế trời Cheon Jae Dan được người xưa dựng nên bằng tấm lòng thành kính, với chu vi 27 m,
rộng 8 m và cao 3 m. Cheon Jae Dan đã có từ năm 2.333 TCN. Theo cuốn Hwandangoki, cuốn

sử ghi chép về thời kỳ Dangun Joseon, Cheon Jae Dan trên núi Tae Baek được sử dụng như là
một nơi cầu nguyện từ thuở bình minh của dân tộc Hàn. Sau đó, nơi đây đã trở thành một nơi linh
thiêng để cử hành những lễ tế quan trọng của quốc gia.
Trong suốt thời Shilla, các nhà vua đã làm lễ tế trời tại đàn tế này. Ngày nay, mọi người vẫn tìm
về nơi này rất đông, hướng lên trời và hô to điều ước của mình trong năm mới. Những tiếng hô
vang rền cầu nguyện cho sự khởi đầu mạnh mẽ của năm mới, liệu có làm mặt trời đang chìm
trong giấc ngủ đằng đông thức giấc?
Ngắm nhìn vầng thái dương nhô cao và tỏa ánh sáng đỏ rực trên biển mây và khắp các sườn núi
trập trùng, thái dương trong tâm hồn mỗi con người cũng như bừng tỉnh và tỏa sáng. Đó chính là
lý do khiến những bước chân của con người trên con đường xuống núi, về lại cuộc sống đời
thường sau khi xem mặt trời mọc lại tràn ngập niềm hy vọng và sinh khí.
Có một dòng sông bắt nguồn từ nơi đây và ào ạt chảy còn nhanh hơn những bước chân khỏe
khoắn của con người trên đỉnh Tae Baek. Geom Ryong So nằm bên sườn núi Geum Dae trong
thành phố. Mặc dù đang là giữa mùa đông nhưng hằng ngày vẫn có tới 2.000 tấn nước được
phun ra từ đây. Nó chính là nơi bắt đầu của sông Hàn, mạch sống của thủ đô Seoul.
Geom Ryong So có độ rộng bằng khoảng 2 sải tay của người lớn. Nhìn nó chỉ giống như một cái
ao nhỏ, nhưng nước chảy ra từ Geom Ryong So đổ xuống, tạo thành một thác nước cao khoảng
30 m. Và dòng nước bắt đầu cuộc phiêu lưu ra thế giới bên ngoài, tạo ra con sông Hàn có chiều
dài tới 514 km.
Nhưng Tae Baek không phải chỉ là nơi xuất phát của sông Hàn. Sông Nakdong, đường sinh
mệnh của vùng Yeongnam, và Oshipcheon, con sông chảy ra biển Đông cũng được bắt đầu từ
Tae Baek.
Rời Geom Ryong So, chảy qua trung tâm Tae Baek, Sam Soo Ryeong là nơi tất cả các dòng
sông đều chảy qua. Từ điểm cao 920 m so với mực nước biển này, ta có thể trông thấy biển
Đông và khi mưa xuống Sam Soo Ryeong, nước ở đây chảy theo 3 dòng khác nhau. Sông Hàn
về phía bắc, Oshipcheon về phía đông và sông Nakdong về phía nam. Ba con sông lớn cung cấp
nước và nguồn sống cho khu vực phía nam bán đảo Hàn Quốc đều bắt đầu từ Tae Baek.
Ở thung lũng Hambaek, chùa Jeong Am Sa do nhà sư Ja Jang Yul Sa xây dựng bên bờ suối nơi
nước suối uốn lượn hàng trăm lần, vách đá tạo nên hàng nghìn bậc tam cấp.Chùa Jeong Am Sa
được nhà sư Ja Jang Yul Sa xây dựng dưới triều nữ hoàng Seondeok của triều đại Shilla. Thay vì

thờ tượng Phật, chùa thờ xá lị Phật Thích Ca Mâu Ni.
Cảnh chùa Su Ma No. (KBS)
Theo lời của nhà sư Wolin, người phụ trách hành chính của chùa, Jeong Am Sa được xây dựng
vào giữa thế kỷ thứ 7 bởi nhà sư Ja Jang Yul Sa, người đã mang xá lị Phật từ nhà Đường bên
Trung Quốc về. Cùng với Sang Won Sa núi Odae, Bong Jeong Am núi Seorak, Tong Do Sa núi
Yangsan và Beop Heung Sa ở Yeong Wol, chùa được gọi là một trong năm ngôi chùa lớn của
Phật giáo Hàn Quốc có cất giữ xá lị Phật.
Vì lý do đó nên ở chùa Jeong Am Sa, ngôi tháp Su Ma No nơi cất giữ xá lị Phật đã trở thành trung
tâm của đức tin. Nhà sư Wolin cho biết: “Tháp Su Ma No là báu vật của chùa Jeong Am Sa vì là
nơi cất xá lị Phật”.
Tháp Su Ma No đứng trên ngọn đồi phía sau chùa chính, cao 7 tầng với các bức tường được xây
bằng đá mã não, một trong những loại đá quý mà Hàn Quốc không có. Mái hiên ở mỗi tầng tháp
được trang trí thêm bằng các quả chuông gió. Khi mặt trời chiếu vào, cả ngôi tháp tỏa sáng lấp
lánh. Khi gió thổi, 32 quả chuông gió ngân lên những tiếng kêu trong trẻo, xua đi mọi nỗi ưu
phiền. Theo ánh sáng và âm thanh trong trẻo đó, rất nhiều người đã tìm đến với ngôi chùa.
(Theo KBS Vietnamese)
Thác Moxie hùng vĩ
Vào thập kỷ 1850, một nhà truyền giáo người Anh đến đây thám hiểm. Phát hiện ra dòng
thác lớn với thế hùng vĩ và cảnh sắc tuyệt mỹ, trong lòng ông vừa sợ hãi vừa vui. Ông nói:
“Cảnh vật tuyệt vời như vậy, dù thiên sứ có bay qua cũng phải ngoảnh lại nhìn. Cảnh đẹp
quả làm cho người ta lưu luyến, không muốn trở về.”
Thác Moxie hùng vĩ. (Backcountry)
Thác Moxie nằm ở nơi giáp giới vùng Trung du và sông Zambixi, miền nam châu Phi. Thác chảy
dài tới biên giới Zambia và Vùng thượng du, trung du của sông chảy xuyên qua cao nguyên miền
nam châu Phi, với nhiều thác, dòng chảy xiết, khe sâu và bãi nguy hiểm, là một trong những dòng
thác lớn nhất thế giới.
Nhà truyền giáo lấy tên Nữ hoàng Anh lúc đó là Victoria để đặt cho dòng thác. Còn người da đen
bản địa gọi nó bằng tiếng Bantu là Moxie, tức là sấm rền trong mưa rào. Sau khi Zambia giành
được độc lập, để xóa dấu vết của chủ nghĩa thực dân, chính quyền nước này đã tiến hành cải
cách từ gốc, khôi phục lại tên gọi sống động và mang hình tượng trước đây của nó.

Zambixi cuồn cuộn tuôn chảy là dòng sông mẹ nuôi dưỡng thác Moxie. Dòng sông này dài 2.660
km, dài thứ tư châu Phi, có lưu vực đều nằm vào khu vực khí hậu thảo nguyên nhiệt đới, lượng
nước rất dồi dào vào mùa mưa. Vùng thượng du, trung du của sông chảy xuyên qua cao nguyên
miền nam châu Phi, với nhiều thác, dòng chảy xiết, khe sâu và bãi nguy hiểm. Có tới 72 dòng
thác lớn nhỏ nên nguồn tài nguyên thủy điện đặc biệt phong phú. Lượng nước chảy qua cửa
sông bình quân mỗi năm là 160.000 m3/s, nhiều hơn sông Nile và Niner, đứng sau sông
Gangguo.
Dòng sông bắt nguồn từ gò cao Quatene, thuộc biên gới Tây Bắc Zambia, đánh vòng về phía tây,
qua miền đông Angola rồi lại vào vùng đồng bằng lầy lội miền tây Zambia. Lúc này, dòng nước
nhè nhẹ đã trở thành con sông lớn. Nước chảy cuồn cuộn, mặt sông mênh mang và lượng nước
ổn định. Khi nước cuộn đổ về phía đông, đến cạnh vùng Malanba, nơi giáp giữa khu vực thượng
lưu và trung du thì rẽ về phía nam. Lòng sông bị thu hẹp lại. Từ các đoạn đứt gãy hình thành địa
tầng chặn ngang. Dòng chảy chính mất đi chỗ dựa, đổ từ trên cao xuống, tạo nên vùng thác chữ
chi dài 87 km, rộng từ 24 đến 100 m.
Thác chính ở giữa Malanba và đảo Katelaketedao, mức nước chênh lệnh do có độ cao thấp của
lòng sông so với mặt nước biển là 122 m, chiều rộng 1.800 m. Đây chính là thác Moxie nổi tiếng
thế giới. Lượng nước bình quân hằng năm là 1.400 m3/s. Vào mùa mưa có thể đạt tới 5.000
m3/s.
Thác đổ vào khe sâu với khí thế mạnh mẽ như sấm giật chớp rền. Mành nước mênh mông như
sóng tuyết cuồn cuộn trắng xóa, trông như hàng ngàn đấu châu ngọc bắn tung tóe, hàng vạn đóa
hoa bạc đua nở, cuốn theo gió bay vào bầu trời, có nơi cao tới 1.500 m. Thác nước gầm rú vang
dội như tiếng sấm, nghe như trời long đất lở, khiến người ta kinh hồn bạt vía. Sương mù và sóng
âm có thể vang xa 10 km.
Ở mặt nước đầu trên khe có một mỏm đá cao chót vót ở giữa, phân cả dòng thác ra hai đoạn từ
đông sang tây. Đoạn phía tây gọi là thác ma quỷ, nằm một phần ở Zimbawe. Thác ở đây đổ
xuống từ vách đá dốc đứng cao và nguy hiểm, với khí thế dời non lấp bể, rơi xuống vực sâu vạn
trượng làm người ta phải kinh hoàng khiếp sợ, không dám đến gần vì sợ “một bước lỡ chân,
ngàn đời ân hận”. Đoạn giữa là thác chính, với chiều rộng và lượng nước đứng đầu các đoạn
thác. Phía đông là một thác nhỏ hình móng ngựa, nên được gọi là thác vành móng ngựa.
Dòng nước cuồn cuộn chảy.

(Backcountry)
Về phía đông nữa là thác cầu vồng, vì trên khoảng không của nó thường
xuất hiện bảy sắc cầu vồng. Đoạn cuối cùng là thác đông. Năm đoạn thác
song song tiến bước, hội tụ thành một dòng chảy xiết rất lớn, trút vào một
đầm sâu 40 m, nước trong đầm cuộn trào dữ dội, chảy xiết, xoáy tròn sùng
sục nên được gọi là “nồi nước sôi”.
Trên vách đá bên khe phải của “nồi nước sôi” có một cây cầu nhỏ dài hơn 30 m, rộng 2 m. Nhìn
từ xa trông như một lưỡi dao sắc bén, nên có tên là “cầu lưỡi dao”. Đứng trên cầu đưa mắt về xa
chỉ thấy sông nước cuồn cuộn như chảy tới chân trời. Thác nước cao vợi giống như từ sông ngân
đổ xuống. Xung quanh có nhiều khe núi, rừng cây rậm rạp xanh tươi. Hơi nước, hơi sương mù
mịt. Dưới ánh sáng mặt trời, cầu vồng bảy sắc treo lơ lửng trên không trung.
Vào những đêm trăng thanh gió mát, ánh trăng vàng lung linh và dòng thác tuôn đổ cuồn cuộn tôn
thêm vẻ đẹp cho nhau, vừa ồn ào, vừa yên tĩnh, vừa cứng rắn lại vừa dịu êm. Tựa vào lan can
cầu, nhìn xuống thấy nước chảy xiết, cuồn cuộn như con rắn bạc đang uốn lượn chảy ra từ “nồi
nước sôi”, men theo khe và đổ về phía trước. Gió rít, sấm rền, âm thanh vang dội như đang nghe
đoạn nhạc Sấm chớp Polka. Một bức màn bạc siêu cấp bao lên vách đá dựng đứng.
Truyền thuyết Moxie còn làm tăng thêm sức hấp dẫn kỳ lạ của dòng thác. Người ta lưu truyền
rằng, trong các khe sâu dưới thác nước có một nhóm cô gái đẹp. Họ đánh trống tay châu Phi suốt
ngày đêm. Y phục rực rỡ của các cô gái được ánh sáng bạc của thác nước làm phản chiếu lên
bầu trời, biến thành cầu vồng sáng đẹp lóa mắt. Những làn nước hoa bắn tung lên từ những vũ
điệu rộn ràng, hình thành những trận mưa sương lất phất.
Thác Moxie là một kiệt tác, do bàn tay thần kỳ của tự nhiên tạo nên. Zambia đã xây trạm thủy
điện gần Malanba để tận dụng nguồn tài nguyên này. Malanba và thành phố Victoria bên bờ sông
Zambixi đã có đường sắt nối liền, trở thành 2 thành phố du lịch nổi tiếng của hai nước.
(Theo sách Những nền văn minh thế giới)
Roma - thành phố vĩnh hằng
Roma, thủ đô nước cộng hòa Italy, mảnh đất nằm trên bán đảo Địa Trung Hải hoa lệ. Thành
phố này là nơi khởi nguồn của đế quốc La Mã cổ đại, thành phố văn hóa lịch sử nổi tiếng
của thế giới.
Cầu vồng trên thác Moxie.

(Backcountry)
Roma được bắt đầu xây dựng vào giữa thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, đến nay đã có 2.800
năm lịch sử, được loài người tôn vinh như một "thành phố vĩnh hằng".
Roma cổ đại được xây dựng trên 7 quả đồi liền nhau nên còn được gọi là "thành phố 7 quả đồi".
Trong thành phố có công trình kiến trúc cổ như quảng trường, nhà thờ, tu viện, hoàng cung,
trường đấu mãnh thú, miếu thần, pháo đài cổ, các tượng thần, vòi phun nước
Đến tham quan Roma, du khách sẽ chứng kiến tận mắt các tác phẩm vĩ đại lịch sử này. Cảm giác
như đứng trong một viện bảo tàng khổng lồ, do đó Roma còn được du khách gọi là "thành phố
bảo tàng".
Đôi khi nếu không có xe cộ qua lại, không có các loại hàng tiêu dùng hiện đại bày bán trong quầy
kính, du khách sẽ quên mất mình đang sống ở thế kỷ 21, trong một đất nước hiện đại mà gần
như có ý nghĩ thay quần áo kỵ sĩ lên xe ngựa cùng đi với các quý bà nhàn hạ dạo chơi trên
đường phố.
Sẽ rất tuyệt vời nếu đến Roma vào mùa thu. Dưới ánh nắng vàng, du khách có thể dạo bước trên
những tuyến phố cổ, nhìn ngắm các đài phun nước, những đàn bồ câu bay lượn xung quanh và
những trang phục rực rỡ của người dân nơi đây như tô vẽ thêm nét đẹp và lãng mạn của người
Italy.
Quảng trường Venice (europa.eu.int).
Quảng trường Venice ở trung tâm thành phố là quảng trường lớn nhất Roma được xây vào năm
1455. Tại đây vẫn còn lưu giữ nhiều ngôi nhà của những người nổi tiếng trước đây ở Roma. Các
hoạt động lễ tiết trọng đại như tổng thống Italy tuyên thệ nhậm chức, đón tiếp nguyên thủ nước
ngoài đều được tổ chức ở quảng trường Venice. Người Italy gọi quảng trường Venice là Diễn
đàn tổ quốc bởi nó tượng trưng cho biểu tượng nước Italy độc lập và thống nhất.
Quảng trường Tây Ban Nha, quảng trường trung tâm du lịch Roma, bao giờ cũng thu hút nhiều
khách tham quan nhất. Có người đến để bày tỏ tình cảm với người yêu, người thì lang thang độc
tấu đàn nuối tiếc một cuộc tình dang dở. Tại nơi đây, ngôi nhà màu hồng chính là ngôi nhà kỷ
niệm của hai nhà thơ nổi tiếng người Anh: John Keats và Percy Byssche Shelley.
Năm 1672, đài phun nước thuyền cổ do Petro thiết kế được xây dựng đối diện với quảng trường
Tây Ban Nha và được gọi là "Con thuyền thiên đàng". Trên cột trụ La Mã ở gần con thuyền thiên
đàng điêu khắc nhiều nhân vật trong Kinh thánh. Hằng năm vào dịp Noel, nơi đây lại diễn ra các

hoạt động tế lễ trang trọng của giáo hội. Gần quảng trường Tây Ban Nha còn có nhà thờ Tam vi
nhất thể, nơi có tháp chuông xây bằng đá trông rất uy nghi và hoành tráng.
(Theo Tuổi Trẻ)
Tô Châu xinh đẹp
Tô Châu hiện ra xinh đẹp và quyến rũ với những phố cổ mái nâu, tường trắng, những cây
cầu duyên dáng, những tháp chuông chùa thấp thoáng sau rặng ngân hạnh lấp lánh như
dát bạc.
Thành phố này giàu đẹp ngay từ cái tên, chữ Tô trong tên thành phố
nghĩa là “cá” và “gạo”. Nằm ở Đông Nam tỉnh Giang Tô, thuộc vùng
đất màu mỡ nhất châu thổ sông Dương Tử, Tô Châu từ xưa đã lừng
danh là “thiên đường hạ giới”.
Ngoài cảnh sắc tươi đẹp với những khu vườn cảnh được công nhận là Di sản văn hoá thế giới,
những di tích lịch sử từ thời Xuân Thu cách đây 2.500 năm, Tô Châu còn đặc biệt lôi cuốn, hấp
dẫn khách phương xa nhờ ngôi chùa Hàn Sơn (Hàn Sơn Tự) nổi tiếng đã đi vào lịch sử văn hoá
phương Đông với bao giai thoại đẹp như mơ.
Đến Tô Châu mà không thăm Hàn Sơn Tự thì chẳng khác nào tới Paris mà không vào bảo tàng
Louvre hay leo tháp Eiffel vậy. Nhiều người còn coi mục đích tối thượng của chuyến thăm quan
Tô Châu chỉ là để nghe tận tai tiếng “chuông chùa Hàn Sơn” và nhìn tận mắt “bến Phong Kiều”.
Hàn Sơn Tự là một trong 10 ngôi chùa danh tiếng nhất Trung Quốc. Được xây dựng từ thế kỷ thứ
6, thời Nam Triều (nhà Lương), nhưng đến đời Đường nó mới có tên là Hàn Sơn. Chẳng phải có
Bến Phong Kiều (Tuổi Trẻ).
nghĩa là “núi lạnh” (như cách dịch sang tiếng Anh), mà đơn giản là theo tên một vị sư nổi tiếng trụ
trì ở đó.
Có cả một câu chuyện cảm động liên quan tới cái tên này. Chuyện rằng, tại một miền quê nhỏ có
2 chàng trai Hàn Sơn và Thập Đắc thân thiết với nhau như hai anh em. Tới một ngày cha mẹ hỏi
vợ cho Hàn Sơn, thì cô dâu lại chính là người yêu của Thập Đắc. Không muốn làm đau lòng bạn,
Hàn Sơn lẳng lặng từ hôn, bỏ quê ra đi.
Phiêu dạt đến Cô Tô, anh dừng chân tại ngôi chùa này. Trong khi đó, nghĩ rằng vì mình mà Hàn
Sơn phải tha hương, Thập Đắc cũng bỏ quê đi tìm anh. Cuối cùng hai người gặp nhau và cùng tu
tại chùa này.

Nhưng chùa này được nổi danh khắp Trung Quốc và ở cả nước ngoài chủ yếu là nhờ bài thơ
Phong Kiều dạ bạc bất hủ của Trương Kế từ hơn nghìn năm trước: "Nguyệt lạc ô đề sương mãn
thiên/ Giang phong ngư hoả đối sầu miên/ Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự/ Dạ bán chung thanh
đáo khách thuyền".
Bài thơ này cũng lan tỏa và trở nên rất quen thuộc ở Việt Nam nhờ bản dịch tuyệt vời của thi
nhân xứ Đoài Tản Đà: "Trăng tà tiếng quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ/
Thuyền ai đậu bến Cô Tô/ Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn".
Tiếng chuông chùa Hàn Sơn là một di sản văn hóa phi vật thể của thành phố sông nước miền
Giang Nam. Chuông có thể vang xa hàng chục dặm vì nó được đúc theo bí quyết 6 phần đồng, 1
phần thiếc.
Ban đêm thanh vắng, khí ẩm từ sông hồ bốc lên càng làm cho tiếng chuông ngân nga lảnh lót để
lại những dư âm khó quên.
Gác chuông Hàn Sơn (Tuổi
Trẻ)
Quả chuông rung lên, tiếng vọng trầm sâu của nó hòa quyện với giọng tụng kinh âm âm của các
nhà sư gây nên hiệu ứng rất lạ, một cảm giác thành kính thiêng liêng dâng tràn trong mỗi người
đến lễ chùa.
(Theo Tuổi Trẻ)
Làng văn hoá Heyri ở Hàn Quốc
Làng Heyri thuộc thành phố Paju, tỉnh Gyeonggi là ngôi làng của những người làm văn hóa
nghệ thuật đầu tiên được xây dựng ở Hàn Quốc. Đây là nơi thể nghiệm và sáng tạo các
kinh nghiệm văn hóa phong phú.
Một góc làng văn hoá Heyri. (KBS)
Ông Kim Eon Ho, chủ tịch của làng văn hóa Heyri, nói: “Từ giữa những năm 1980, một nhóm
người làm công tác xuất bản đã cùng nhau xây dựng một thành phố sách ở Paju. Sau đó, kế
hoạch thu hút được rất nhiều nghệ sĩ ở các lĩnh vực nghệ thuật khác nhau. Chúng tôi lên kế
hoạch vào năm 1994, năm 1995 thì bắt đầu xây dựng. Không ai nghĩ rằng sẽ có một làng văn hóa
- nghệ thuật lớn như vậy ở khu vực này. Các nhà chuyên môn trên thế giới cũng hết sức ngạc
nhiên. Vì vậy, tôi đã nói với họ rằng, đây là sai lầm rất lớn và may mắn của chúng tôi. Một sai lầm
làm chúng tôi hết sức hạnh phúc”.

Ông Kim đã thuyết phục khoảng 300 người làm văn hóa nghệ thuật cùng xây dựng làng văn hóa
Heyri. Ông muốn tạo ra một nơi để người dân có thể thưởng thức văn hóa nghệ thuật và là một
không gian mở đối với tất cả mọi người muốn giao lưu với các nghệ sĩ.
Ông Kim Eon Ho nói về ý nghĩa của tên gọi làng văn hóa Heyri: “Từ ngôi làng của chúng tôi, vượt
qua một ngọn núi thì sẽ đến ngôi làng Geomsanri nằm sâu trong núi. Ở ngôi làng đó, có một bài
dân ca được truyền lại từ xưa mang tên Heyri. Chúng tôi đã lấy tên bài hát đó để đặt tên cho ngôi
làng của mình. Heyri xuất phát từ từ ‘Hey hey’, một từ gợi cho người ta cảm giác rất vui vẻ và
hứng khởi. Vì thế, Heyri là bài hát được hát khi người nông dân làm đồng, nó giống như một
nguồn năng lượng giúp người ta vượt qua khó khăn”.
Ấn tượng đầu tiên khi bước chân vào làng văn hóa Heyri là các công trình kiến trúc có cùng một
cỡ. Những ngôi nhà không quét sơn và không có tòa nhà nào cao quá 3 tầng, không có hàng rào
bao quanh. Ngôi làng hài hòa với môi trường tự nhiên xung quanh, với các công trình kiến trúc.
Nguyên vật liệu sử dụng trong việc xây dựng cũng phải cho thấy những đặc tính tự nhiên vốn có
của nó. Ttrên 50% diện tích đất được bảo tồn ở trạng thái có trồng cây xanh. Các công trình kiến
trúc của làng được xây dựng đồng thời với việc bảo tồn nguyên vẹn những con suối, đường đi và
đầm lầy tự nhiên. Ngoài ra, 1 phần 3 mỗi tòa nhà trong làng lại được dành làm không gian văn
hóa nghệ thuật. Đây cũng là một điểm độc đáo của ngôi làng. Ở đây không có những ngôi nhà chỉ
để ở.
Thành viên của Heyri phải tham gia hoạt động trong một lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật hoặc phải có kế hoạch kinh doanh liên quan đến văn hóa ở
Heyri. Ban quản lý làng sẽ cho phép những người có đủ tiêu chuẩn trên
nhập làng sau khi họp bàn, cân nhắc.
Ngôi nhà Camerata trong làng Heyri được Hiệp hội kiến trúc sư Hàn Quốc trao giải Công trình
kiến trúc đẹp nhất năm 2005. Ngôi nhà được coi là một trong những địa điểm nổi tiếng nhất của
làng Heyri. Nơi đây đầy ắp những ký ức về thời kỳ công nghệ tuần tự với việc trưng bày hơn 10
nghìn đĩa nhạc, các loa phóng thanh cổ cùng với hệ thống thiết bị âm thanh có từ những năm 30.
Ở Heyri, có rất nhiều nơi được xếp là nơi đầu tiên có ở Hàn Quốc. Trong đó, Cung Điện ảnh là
viện bảo tàng tư liệu phim đầu tiên. Nơi đây thu hút được nhiều khách thăm quan bởi những tư
liệu hết sức quý giá. Cung Điện ảnh là tòa nhà 3 tầng. Tầng 1 là khu trưng bày các vai diễn trong
phim, phục vụ đối tượng là các em nhỏ và tầng lớp thanh niên. Tầng 2 là nơi trưng bày các áp

phích quảng cáo phim được chiếu tại Hàn Quốc từ những năm 1950 đến những năm 1960. Tầng
3 là một không gian trưng bày mở với rất nhiều đồ vật để ngắm nhìn và thư giãn. Cung Điện ảnh
là không gian trưng bày các tư liệu phim đa dạng và quý hiếm với hơn 20 nghìn mục bao gồm 8
nghìn áp phích phim và tờ rơi, 5 nghìn kịch bản phim…
Bảo tàng nhạc cụ dân tộc thế giới là một công trình kiến trúc hình tam giác màu đen làm bằng
kính. Có hơn 500 nhạc cụ của 70 quốc gia trên khắp thế giới như Ghana, Ấn độ, Zambia… được
trưng bày ở đây. Bảo tàng này được xây dựng dựa trên một bộ sưu tập nhạc cụ của cá nhân. Lee
(KBS)

×