Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

Bài thuyết trình sự đa dạng sinh học "Sự tuyệt chủng" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 30 trang )

Sinh Viên Thực Hiện:
Đặng Hoàng Minh 08114052
Lớp: DH08LN
1. Sự kiện tuyệt chủng xảy ra vào cuối kỷ Ordoviccan:
Kỷ Ordovican là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ) kỷ của
đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là kỷ
Silur.
Kỷ Ordovican bắt đầu với một sự kiện tuyệt chủng nhỏ vào
khoảng 488,3 triệu năm trước và kéo dài trong khoảng
44,6 triệu năm.
Kỷ Ordovican đến hồi kết thúc bằng một loạt các sự
kiện tuyệt chủng, mà cùng với nhau chúng hợp thành
sự kiện tuyệt chủng lớn thứ hai trong số 5 sự kiện
tuyệt chủng chính trong lịch sử Trái Đất theo tỷ lệ
phần trăm các chi bị tuyệt chủng.
Vào thời gian đó tất cả các sinh vật đa bào phức tạp
đều sinh sống trong lòng đại dương và khoảng 49%
các chi động vật đã biến mất hoàn toàn; các ngành
tay cuộn và động vật hình rêu đã bị suy giảm đi
nhiều, cùng với nhiều loài bọ ba thùy, các loài "cá"
(nhiều) răng nón (lớp Conodonta) và nhóm
Graptolita.

Nguyên nhân được chấp nhận rộng rãi nhất là các
sự kiện này đã do sự bắt đầu của một thời kỳ băng
hà gây ra, trong tầng động vật Hirnantian, để kết
thúc các điều kiện nhà kính ổn định và kéo dài của
kỷ Ordovican. Sự kiện này diễn ra ngay sau khi có
sự sụt giảm lượng điôxít cacbon trong khí quyển
và nó có ảnh hưởng mang tính chọn lọc tới các


biển nông là khu vực mà đa số các sinh vật sinh
sống.
Kỷ Devon (kỷ Đề-vôn) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được
đặt theo tên gọi của khu vực Devon, Anh, là nơi mà các loại đá
thuộc kỷ này được nghiên cứu lần đầu tiên.
Kỷ này được đặt tên theo tên gọi của Devon, Anh là khu vực mà các
phần lộ thiên của đá thuộc kỷ này là phổ biến. Trong khi các tầng
đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá
rõ thì niên đại chính xác vẫn chưa chắc chắn. Theo ICS (2004), thì
kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8
triệu năm trước, cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ±
2,5 triệu năm trước.
Trong kỷ Devon có những sinh vật:

Những loài cá đã tiến hóa để có chân đã xuất hiện lần đầu tiên và bắt đầu
việc đi lại trên mặt đất như là động vật bốn chân .

Những động vật chân khớp như côn trùng và nhện cũng bắt đầu chiếm
lĩnh môi trường sống trên đất liền.

Những loài thực vật hạt trần đầu tiên cũng lan truyền trên các vùng đất
khô, tạo thành các cánh rừng lớn.

Trong lòng đại dương, cá đã đa dạng hóa thành những loài cá mập và các
loài cá vây thùy (Sarcopterygii) và cá xương.

Những loài động vật thân mềm như cúc cũng đã xuất hiện, còn
bọ ba thùy và những động vật tay cuộn tương tự như động vật thân mềm
và các đá san hô ngầm lớn vẫn là phổ biến.
Vào cuối kỷ Devon khoảng 365 triệu năm trước một chuỗi dài

các vụ tuyệt chủng liên tiếp kéo dài khoảng 7 triệu năm đã tiêu diệt
19% số họ, 50% số chi và 70% số loài.
Hóa thạch của bọ ba thùy Ductina vietnamica thuộc kỷ Devon ở Trung
Quốc
Kỷ Permian là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 299,0 triệu năm
trước tới 248,0triệu năm trước. Nó là kỷ cuối cùng của
đại Cổ Sinh. Kỷ Permian diễn ra sau kỷ Than Đá và ngay sau nó
là kỷ Trias thuộc đại Trung Sinh.
Kỷ Permian được Roderick Murchison-một nhà địa chất học người
Anh đặt tên trong thập niên 1840, theo khu vực được khai quật
rộng khắp xung quanh thành phố Permi ở Nga .
Một lượng các nhóm côn trùng quan trọng mới cũng xuất hiện
trong thời kỳ này, bao gồm các loài thuộc các bộ như
bộ Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Hai cánh (Diptera).
Động vật bốn chân kỷ Permi bao gồm các loại
động vật lưỡng cư và bò sát. Thời kỳ này cũng là giai đoạn
phát triển của các loại động vật sống hoàn toàn trên cạn và
sự xuất hiện của động vật ăn cỏ và ăn thịt lớn đầu tiên.
Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được
ghi lại trong cổ sinh vật học diễn ra cách đây vào khoảng
245 triệu năm trước kéo dài khoảng 1 triệu năm làm mất đi
54% số họ, 90% đến 95% các loài sinh vật biển, khoảng
70% loài sinh vật trên cạn, trong đó, 2/3 số loài bò sát, ếch
nhái và 30% số bộ côn trùng.
Nguyên nhân
Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ
Đại học Tiểu bang Ohio thông báo rằng có chứng cứ cho thấy
tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra với
đường kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở
độ sâu 1,6 km phía dưới lớp băng của khu vực vùng Wilkes ở

miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa học đã suy đoán là
va chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ
Permian, mặc dù niên đại của nó là dao động trong khoảng
100-500 triệu năm trước.
Kỷ Triassis hay kỷ Tam Điệp là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 251
đến 200 triệu năm trước. Là kỷ đầu tiên của Đại Trung Sinh, kỷ
Trias kế tiếp kỷ Permian và kế tiếp nó là kỷ Jura.
Tên gọi Trias lần đầu tiên được Friedrich Von Alberti gọi năm 1834 từ
ba tầng đá khác biệt rõ ràng —là các tầng đá đỏ, phía trên là tầng
đá phấn, tiếp theo là đá phiến sét màu đen— được tìm thấy ở nhiều
nơi tại Đức và khu vực tây bắc châu Âu.
Sa Thạch từ kỷ Tam Điệp
Trong kỷ Triassis, ba loại hình chính của sinh vật có thể được phân chia
như sau: những sinh vật còn sót lại từ sự kiện tuyệt chủng kỷ
Permian, một vài nhóm mới đã phát triển nhanh chóng nhưng ngắn
ngủi và các nhóm mới đã thống lĩnh thế giới trong đại Trung Sinh.
Kỷ Triassis kết thúc với sự tuyệt chủng hàng loạt, đặc biệt nghiêm trọng
trong các đại dương; các loài động vật có xương sống với răng nón
thuộc lớp Conodonta đã biến mất, cũng giống như là gần như toàn bộ
các loài bò sát biển, ngoại trừ thằn lằn cá (Ichthyosauria) và thằn lằn
chân chèo (Plesiosauria). Các động vật không xương sống như
ngành Tay cuốn (Brachiopoda), lớp Chân bụng (Gastropoda) thuộc
ngành thân mềm (Mollusca) bị ảnh hưởng nặng nhất. Trong lòng đại
dương, 22 % các họ động vật biển và có lẽ khoảng một nửa các chi đã
biến mất.
Kỷ Phấn trắng hay kỷ Cretaceous là một đơn vị chính trong
niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145,5 ±
4,0 triệu năm trước cho đến khi bắt đầu thế Paleocen của
phân đại đệ Tam vào khoảng 65,5 ± 0,3 triệu năm trước. Là kỷ địa
chất dài nhất trong đại Trung Sinh, kỷ Creta chiếm khoảng gần

một nửa thời gian của đại này. Sự kết thúc của kỷ Creta xác định
ranh giới giữa đại Trung Sinh và đại Tân Sinh.
Trên đất liền, động vật có vú vẫn còn ít, chủ yếu là các loài bò
sát dạng thằn lằn thống trị, đặc biệt là khủng long. Các
loài bò sát bay, chim. Trong kỷ Creta, côn trùng bắt đầu
đa dạng hóa và các loài kiến, mối cùng một vài loài
cánh vẩy cổ nhất đã biết đã xuất hiện. Các loài rệp, châu
chấu, và ong vú lá cũng đã xuất hiện.
Trong lòng đại dương, các loài cá đuối, cá mập hiện đại và
cá xương thật sự đã trở thành phổ biến. thằn lằn cá, thằn
lằn đầu rắn, thằn lằn rắn.
Baculites, một dạng vỏ thẳng của cúc đá cũng đã thịnh vượng
trong lòng đại dương.
Đợt tuyệt chủng xảy ra vào cuối kỷ phấn trắng-
Cretaceous và đầu kỷ Tertiary cách đây khoảng 65
triệu năm, là đợt tuyệt chủng làm các loài thằn lằn
khổng lồ, các loài khủng long trên cạn, các loài bò sát
bay Pterosaurus và bò sát biển Ichthyosaurus và
Plesiosaurus bị tuyệt chủng, khoảng 60-80% tổng số
loài động vật bị tuyệt chủng.
1.Hiện trạng, tốc độ tuyệt chủng những năm gần đây:
Vào khoảng 11000 năm trước các loài thú lớn ở Bắc Mỹ đã bị tuyệt chủng
là voi Mamut, voi Mastodon và một số loài thuộc nhóm ăn thịt như
sư tử Mỹ, gấu mặt ngắn, sói, mèo lớn.
Năm 1600, trên toàn thế giới đã ghi nhận sự tuyệt chủng của 700 loài
động vật có xương sống, không xương sống(113 loài chim, 83 loài thú)
và thực vật có mạch.
Từ năm 1600 đến nay, thêm khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các
loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng.

Tốc độ tuyệt chủng tự nhiên trước đây là 1 loài/năm, nhưng ngày nay là 1
loài/giờ (gấp 10000 lần).
Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt lớn ở các đảo, là nơi tập tryng các loài đặc
hữu và là nơi bị khống chế về mặt không gian.
2 . Hình ảnh một số loài đã tuyêt chủng và đang bị đe dọa:
Hổ răng kiếm
Chim cánh cụt hoàng đế
Gấu Koala
Cá heo trắng
Cáo Bắc cực
Hải cẩu cổ vòng Ringed
Cá hồi
3. Nguyên nhân

Sự phá hủy sinh cảnh

Sự chia cắt của sinh cảnh

Sự ô nhiễm

Sự phá rừng làm nông nghiệp

Sa mạc hóa

Vấn đề biến đổi khí hậu

Gia tăng dân số

×