Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Chương 16: Mô hình hóa User Case potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.64 KB, 17 trang )




Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 134
Chương 16
Mô hình hóa User Case

16.1- Giới thiệu Use Case
Trong giai đoạn phân tích, người sử dụng cộng tác cùng nhóm phát triển phần mềm tạo
nên một tổ hợp thông tin quan trọng về yêu cầu đối với hệ thống. Không chỉ là người cung
cấp thông tin, bản thân người sử dụng còn là một thành phần hết sức quan trọng trong bức
tranh toàn cảnh đó và nhóm phát triển cần phải chỉ ra được phương thức hoạt động của hệ
thống tương lai theo hướng nhìn của người sử dụng. Hiểu được điểm quan trọng này là chìa
khóa để tạo dựng được những hệ thống vừa thoả mãn các yêu cầu đặt ra vừa dễ dàng sử
dụng, thậm chí tạo niềm vui thích trong sử dụng.
Như vậy công cụ giúp ta mô hình hoá hệ thống từ hướng nhìn của người sử dụng gọi là
Use Case. Và để trả lời rõ hơn về Use Case ta xét một trường hợp sau:
Giả sử tôi quyết định mua một chiếc máy fax mới. Khi đến cửa hàng máy văn phòng, tôi
mới nhận ra là phải chọn lựa trong một danh sách máy móc rất phong phú. Loại máy nào sẽ
được chọn đây? Tôi tự hỏi thật chính xác mình muốn làm gì với chiếc máy fax sẽ mua? Tôi
muốn có những tính năng nào? Tôi muốn dùng bằng giấy thường hay giấy thermal ? Tôi
muốn copy bằng cái máy đó? Tôi muốn nối nó với máy tính của mình? Tôi muốn dùng nó vừa
làm máy fax vừa làm scanner? Tôi có cần phải gởi fax thật nhanh đến mức độ cần một chức
năng chọn số tăng tốc? Liệu tôi có muốn sử dụng máy fax này để phân biệt giữa một cú điện
thoại gọi tới và một bản fax gởi tới ?.
Tất cả chúng ta đều trải qua những kinh nghiệm như vậy khi quyết định mua một món
hàng nào đó không phải vì niềm vui bộc phát. Việc chúng ta sẽ làm trong những trường hợp
như vậy là một dạng phân tích Use Case: Chúng ta tự hỏi mình sẽ sử dụng sản phẩm (hay


hệ thống) sắp bắt ta bỏ ra một khoản tiền đáng kể đó ra sao? Trả lời xong câu hỏi trên ta mới
có khả năng chọn ra sản phẩm thoả mãn những đòi hỏi của mình. Điều quan trọng ở đây là
phải biết những đòi hỏi đó là gì.
Loại quy trình này đóng vai trò rất quan trọng đối với giai đoạn phân tích của một nhóm
phát triển hệ thống. Người dùng muốn sử dụng hệ thống tương lai, hệ thống mà bạn sắp thiết
kế và xây dựng, như thế nào?
Use Case là một công cụ trợ giúp cho công việc của nhà phân tích cùng người sử dụng
quyết định tính năng của hệ thống. Một tập hợp các Use Case sẽ làm nổi bật một hệ thống
theo phương diện những người dùng định làm gì với hệ thống này.
Để làm rõ hơn, ta hãy xét một ví dụ nhà băng lẻ. Hệ thống tương lai trong trường hợp này
sẽ có nhiều người sử dụng, mỗi người sẽ giao tiếp với hệ thống cho một mục đích khác biệt:
 Quản trị gia sử dụng hệ thống cho mục đích thống kê
 Nhân viên tiếp khách sử dụng hệ thống để thực hiện dịch vụ phục vụ khách hàng.
 Nhân viên phòng đầu tư sử dụng hệ thống thực hiện các giao dịch liên quan đến
đầu tư.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 135
 Nhân viên thẩm tra chữ ký sử dụng hệ thống cho mục đích xác nhận chữ ký và bảo
trì thông tin liên quan đến khách hàng.
 Khách hàng giao tiếp với hệ thống (nhà băng) cho các hoạt động sử dụng dịch vụ
như mở tài khoản, gửi tiền vào, rút tiền mặt, …
Quá trình tương tác giữa người sử dụng và hệ thống trong mỗi một tình huống kể trên sẽ
khác nhau và phụ thuộc vào chức năng mà người sử dụng muốn thực thi cùng hệ thống.
Nhóm phát triển hệ thống cần phải xây dựng nên một kịch bản nêu bật sự tương tác cần
thiết giữa người sử dụng và hệ thống trong mỗi khả năng hoạt động. Ví dụ như kịch bản cho

sự tương tác giữa nhân viên thu ngân và hệ thống của bộ phận tiết kiệm trong suốt tiến trình
của một giao dịch. Một kịch bản khác ví dụ là chuỗi tương tác xảy ra giữa bộ phận tiết kiệm
và bộ phận đầu tư trong một giao dịch chuyển tiền.
Nhìn chung, có thể coi một Use case như là tập hợp của một loạt các cảnh kịch về việc sử
dụng hệ thống. Mỗi cảnh kịch mô tả một chuỗi các sự kiện. Mỗi một chuỗi này sẽ được kích
hoạt bởi một người nào đó, một hệ thống khác hay là một phần trang thiết bị nào đó, hoặc là
một chuỗi thời gian. Những thực thể kích hoạt nên các chuỗi sự kiện như thế được gọi là các
Tác Nhân (Actor). Kết quả của chuỗi này phải có giá trị sử dụng đối với hoặc là tác nhân đã
gây nên nó hoặc là một tác nhân khác.
16.2- Một số ví dụ Use Case
Trong ví dụ nhà băng lẻ ở trên, một số những Use Case dễ thấy nhất là:
 Một khách hàng mở một tài khoản mới.
 Phòng đầu tư tính toán tiền lãi cho các tài khoản đầu tư.
 Một chương trình đầu tư mới được đưa vào áp dụng.
 Yêu cầu chuyển tiền của khách hàng được thực hiện.
 Chuyển tiền theo kỳ hạn từ một tài khoản đầu tư sang một tài khoản tiết kiệm
16.3 Sự cần thiết phải có Use Case
Use Case là một công cụ xuất sắc để khuyến khích những người dùng tiềm năng nói về
hệ thống từ hướng nhìn của họ. Đối với người dùng, chẳng phải bao giờ việc thể hiện và mô
tả những ý định trong việc sử dụng hệ thống cũng là chuyện dễ dàng. Một hiện thực có thật là
người sử dụng thường biết nhiều hơn những gì mà họ có thể diễn tả ra: Công cụ Use Case
sẽ giúp cho nhóm phát triển bẻ gãy "lớp băng" đó, ngoài ra một sự trình bày trực quan cũng
cho phép bạn kết hợp các biểu đồ Use Case với các loại biểu đồ khác.
Sáng kiến chủ đạo là lôi cuốn được người dùng tham gia vào những giai đoạn đầu tiên
của quá trình phân tích và thiết kế hệ thống. Việc này sẽ nâng cao xác suất cho việc hệ thống
chung cuộc trở thành một công cụ quen thuộc đối với các người dùng mà nó dự định sẽ trợ
giúp – thay vì là một tập hợp khó hiểu và rối rắm của các khái niệm máy tính mà người dùng
trong giới doanh thương có cảm giác không bao giờ hiểu được và không thể làm việc cùng.
Công tác lôi kéo người sử dụng tham gia tích cực vào quá trình phân tích là nền tảng
quan trọng cho việc tạo dựng một mô hình "thành công", một mô hình dễ được người sử

dụng hiểu và chấp nhận sau khi đã thẩm xác các nhiệm vụ căn bản. Ngoài ra, Use Case còn
giúp nhóm phát triển quyết định các lớp mà hệ thống phải triển khai.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 136
16.4 Mô hình hóa Use Case
Trường hợp sử dụng là một kỹ thuật mô hình hóa được sử dụng để mô tả một hệ thống
mới sẽ phải làm gì hoặc một hệ thống đang tồn tại làm gì. Một mô hình Use Case được xây
dựng qua một quá trình mang tính vòng lặp (interative), trong đó những cuộc hội thảo bàn
luận giữa nhóm phát triển hệ thống và khách hàng (hoặc/và người sử dụng cuối) sẽ dẫn tới
một đặc tả yêu cầu được tất cả mọi người chấp nhận. Người cha tinh thần của mô hình hóa
Use Case là Ivar Jacobson, ông đã tạo nên kỹ thuật mô hình hóa dựa trên những kinh
nghiệm thu thập được trong quá trình tạo hệ thống AXE của hãng Erisson. Use Case đã nhận
được một sự quan tâm đặc biệt lớn lao từ phía cộng đồng hướng đối tượng và đã tác động
lên rất nhiều phương pháp hướng đối tượng khác nhau.
Những thành phần quan trọng nhất của một mô hình Use Case là Use Case, tác nhân và
hệ thống. Ranh giới của hệ thống được định nghĩa qua chức năng tổng thể mà hệ thống sẽ
thực thi. Chức năng tổng thể được thể hiện qua một loạt các Use Case và mỗi một Use Case
đặc tả một chức năng trọn vẹn, có nghĩa là Use Case phải thực thi toàn bộ chức năng đó, từ
sự kiện được kích hoạt đầu tiên bởi một tác nhân ngoại cảnh cho tới khi chức năng đòi hỏi
được thực hiện hoàn tất. Một Use Case luôn luôn phải cung cấp một giá trị nào đó cho một
tác nhân, giá trị này là những gì mà tác nhân mong muốn từ phía hệ thống. Tác nhân là bất
kỳ một thực thể ngoại cảnh nào mong muốn tương tác với hệ thống. Thường thường, đó là
một người sử dụng của hệ thống, nhưng nhiều khi cũng có thể là một hệ thống khác hoặc là
một dạng máy móc thiết bị phần cứng nào đó cần tương tác với hệ thống.
Trong kỹ thuật mô hình hóa Use Case, hệ thống sẽ có hình dạng của một "hộp đen" và

cung cấp các Use Case. Hệ thống làm điều đó như thế nào, các Use Case được thực thi ra
sao, đó là những khía cạnh chưa được đề cập tới trong giai đoạn này. Trong thực tế, nếu mô
hình hóa Use Case được thực hiện trong những giai đoạn đầu của dự án thì thường nhà phát
triển sẽ không biết Use Case sau này sẽ được thực thi (tức là biến thành những dòng code
thật sự) như thế nào.
Mục tiêu chính yếu đối với các Use Case là:
 Để quyết định và mô tả các yêu cầu về mặt chức năng của hệ thống, đây là kết quả
rút ra từ sự thỏa thuận giữa khách hàng (và/hoặc người sử dụng cuối) và nhóm
phát triển phần mềm.
 Để tạo nên một lời mô tả rõ ràng và nhất quán về việc hệ thống cần phải làm gì,
làm sao để mô hình có thể được sử dụng nhất quán suốt toàn bộ quá trình phát
triển, được sử dụng làm công cụ giao tiếp cho tất cả những người phát triển nên
các yêu cầu này, và để tạo nên một nền tảng cho việc tạo nên các mô hình thiết kế
cung cấp các chức năng được yêu cầu.
 Để tạo nên một nền tảng cho các bước thử nghiệm hệ thống, đảm bảo hệ thống
thỏa mãn đúng những yêu cầu do người sử dụng đưa ra. Trong thực tế thường là
để trả lời câu hỏi: Liệu hệ thống cuối cùng có thực hiện những chức năng mà khởi
đầu khách hàng đã đề nghị?
 Để cung cấp khả năng theo dõi các yêu cầu về mặt chức năng được chuyển thành
các lớp cụ thể cũng như các thủ tục cụ thể trong hệ thống.
 Để đơn giản hóa việc thay đổi và mở rộng hệ thống qua việc thay đổi và mở rộng
mô hình Use Case, sau đó chỉ theo dõi riêng những Use Case đã bị thay đổi cùng
những hiệu ứng của chúng trong thiết kế hệ thống và xây dựng hệ thống.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 137

Những công việc cụ thể cần thiết để tạo nên một mô hình Use Case bao gồm:
1. Định nghĩa hệ thống (xác định phạm vi hệ thống)
2. Tìm ra các tác nhân cũng như các Use Case
3. Mô tả Use Case
4. Định nghĩa mối quan hệ giữa các Use Case
5. Kiểm tra và phê chuẩn mô hình.
Đây là một công việc mang tính tương tác rất cao, bao gồm những cuộc thảo luận với
khách hàng và những người đại diện cho các loại tác nhân. Mô hình Use Case bao gồm các
biểu đồ Use Case chỉ ra các tác nhân, Use Case và mối quan hệ của chúng với nhau. Các
biểu đồ này cho ta một cái nhìn tổng thể về mô hình, nhưng những lời mô tả thực sự của
từng Use Case thường lại là văn bản. Vì các mô hình trực quan không thể cung cấp tất cả
các thông tin cần thiết, nên cần thiết phải dùng cả hai kỹ thuật trình bày đó.
Có rất nhiều người quan tâm đến việc sử dụng các mô hình Use Case. Khách hàng
(và/hoặc người sử dụng cuối) quan tâm đến chúng vì mô hình Use Case đặc tả chức năng
của hệ thống và mô tả xem hệ thống có thể và sẽ được sử dụng ra sao. Các Use Case vì vậy
phải được mô tả trong những thuật ngữ và ngôn ngữ của khách hàng/người sử dụng.
Nhà phát triển cần đến các mô hình Use Case để hiểu hệ thống cần phải làm gì, và qua
đó có được một nền tảng cho những công việc tương lai (các mô hình khác, các cấu trúc thiết
kế và việc thực thi xây dựng hệ thống bằng code). Các nhóm chuyên gia thử nghiệm tích hợp
và thử nghiệm hệ thống cần đến Use Case để thử nghiệm và kiểm tra xem hệ thống có đảm
bảo sẽ thực hiện đúng chức năng đã được đặc tả trong giai đoạn đầu. Và cuối cùng, bất kỳ
người nào liên quan đến những hoạt động liên kết đến chức năng của hệ thống đều có thể
quan tâm đến các mô hình Use Case; ví dụ như các nhóm tiếp thị, bán hàng, hỗ trợ khách
hàng và các nhóm soạn thảo tài liệu.
Mô hình Use Case mô tả hướng nhìn Use Case của hệ thống. Hướng nhìn này là rất quan
trọng, bởi nó ảnh hưởng đến tất cả các hướng nhìn khác của hệ thống. Cả cấu trúc logic lẫn
cấu trúc physic đều chịu ảnh hưởng từ các Use Case, bởi chức năng được đặc tả trong mô
hình này chính là những chức năng được thực thi trong các cấu trúc kia. Mục đích cuối cùng
là thiết kế ra một giải pháp thỏa mãn các yêu cầu đó.
Mô hình hóa các Use Case chẳng phải chỉ được dùng để nắm bắt các yêu cầu của hệ

thống mới; nó cũng còn được sử dụng để hỗ trợ cho việc phát triển một phiên bản mới của
hệ thống. Khi phát triển một phiên bản mới của hệ thống đang tồn tại, người ta sẽ bổ sung
thêm các chức năng mới vào mô hình Use Case đã có bằng cách thêm vào các tác nhân mới
cũng như các Use Case mới, hoặc là thay đổi đặc tả của các Use Case đã có. Khi bổ sung
thêm vào mô hình Use Case đang tồn tại, hãy chú ý để không bỏ ra bất kỳ một chức năng
nào vẫn còn được cần tới.
16.5 Biểu đồ Use Case
Use Case được mô tả trong ngôn ngữ UML qua biểu đồ Use Case, và một mô hình Use
Case có thể được chia thành một số lượng lớn các biểu đồ như thế. Một biểu đồ Use Case
chứa các phần tử mô hình biểu thị hệ thống, tác nhân cũng như Use Case và chỉ ra các mối
quan hệ giữa các Use Case.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 138
Lời mô tả nội dung Use Case thường được cung cấp dưới dạng văn bản. Trong UML, lời
mô tả đó được coi là thuộc tính "văn bản" (document) của Use Case. Lời mô tả này bao chứa
những thông tin quan trọng, định nghĩa các yêu cầu và chức năng cụ thể. Thay cho việc mô
tả Use Case bằng văn bản, bạn cũng có thể vẽ một biểu đồ hoạt động (activity diagram). Mặc
dầu vậy, nên nhớ rằng một Use Case cần phải được mô tả sao cho dễ hiểu và dễ giao tiếp
đối với người sử dụng, mà những cấu trúc phức tạp như một biểu đồ hoạt động có thể gây
cảm giác xa lạ đối với những người không quen sử dụng.
Tóm tắt: Một biểu đồ Use Case thể hiện: Hệ thống, tác nhân và Use Case. Ví dụ biểu đồ
Use Case trong UML:

Hình 16.1- Một ví dụ biểu đồ Use case trong UML
Trong đó: Hệ thống được thể hiện qua hình chữ nhật với tên hệ thống ở bên trên. Tác

nhân được thể hiện qua kí hiệu hình nhân. Use Case được thể hiện qua hình ellipse
16.5.1 Hệ thống
Vì hệ thống là một thành phần của mô hình Use Case nên ranh giới của hệ thống mà ta
muốn phát triển cần phải được định nghĩa rõ ràng. Xin nhớ rằng một hệ thống không phải bao
giờ cũng nhất thiết là một hệ thống phần mềm; nó có thể là một chiếc máy, hoặc là một
doanh nghiệp. Định nghĩa các ranh giới và trách nhiệm của hệ thống không phải bao giờ
cũng là việc dễ dàng, bởi không phải bao giờ người ta cũng rõ ràng nhìn ra tác vụ nào có khả
năng được tự động hóa tốt nhất ở hệ thống này và tác vụ nào thì tốt nhất nên thực hiện thủ
công hoặc dành cho các hệ thống khác. Một khía cạnh khác cần chú ý là hệ thống cần phải
lớn tới mức độ nào trong phiên bản đầu tiên của nó. Cố gắng tối đa cho phiên bản đầu tiên
của hệ thống thường là cách mà người ta hay thực hiện, thế nhưng những mục tiêu quá tầm
như vậy có thể khiến cho hệ thống trở nên quá lớn và thời gian để cung cấp hệ thống quá
lâu. Một sáng kiến tốt hơn là xác nhận cho rõ các chức năng căn bản và tập trung vào việc
định nghĩa một kiến trúc hệ thống thích hợp, rõ ràng, có nền tảng rộng mở để nhiều chức
năng hơn có thể được bổ sung vào hệ thống này trong các phiên bản sau.
Yếu tố quan trọng là bạn phải tạo dựng được một bản catalog của các khái niệm (các
thực thể) trung tâm cùng với các thuật ngữ và định nghĩa thích hợp trong những giai đoạn
đầu của thời kỳ phân tích. Đây chưa phải mô hình phạm vi đối tượng, mà đúng hơn là một cố
gắng để mô tả các thuật ngữ của hệ thống hoặc doanh nghiệp mà chúng ta cần mô hình hóa.
Các thuật ngữ sau đó sẽ được dùng để mô tả Use Case. Phương thức cụ thể của catalog
này có thể rất khác nhau; nó có thể là một mô hình khái niệm chỉ ra các mối quan hệ đơn giản
hoặc chỉ là một văn bản chứa các thuật ngữ cùng lời mô tả vắn tắt những thuật ngữ này trong
thế giới thực.
16.5.2 Tác nhân
Một tác nhân là một người hoặc một vật nào đó tương tác với hệ thống, sử dụng hệ
thống. Trong khái niệm "tương tác với hệ thống", ý chúng ta muốn nói rằng tác nhân sẽ gửi
thông điệp đến hệ thống hoặc là nhận thông điệp xuất phát từ hệ thống, hoặc là thay đổi các




Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 139
thông tin cùng với hệ thống. Nói một cách ngắn gọn, tác nhân thực hiện các Use Case. Thêm
một điều nữa, một tác nhân có thể là người mà cũng có thể là một hệ thống khác (ví dụ như
là một chiếc máy tính khác được nối kết với hệ thống của chúng ta hoặc một loại trang thiết bị
phần cứng nào đó tương tác với hệ thống).
Một tác nhân là một dạng thực thể (một lớp), chứ không phải một thực thể. Tác nhân mô
tả và đại diện cho một vai trò, chứ không phải là một người sử dụng thật sự và cụ thể của hệ
thống. Nếu một anh chàng John nào đó muốn mua hợp đồng bảo hiểm từ một hãng bảo
hiểm, thì vai trò của anh ta sẽ là người mua hợp đồng bảo hiểm, và đây mới là thứ mà chúng
ta muốn mô hình hóa, chứ không phải bản thân anh chàng John. Trong sự thực, một con
người cụ thể có thể đóng vai trò làm nhiều tác nhân trong một hệ thống: một nhân viên ngân
hàng đồng thời cũng có thể là khách hàng của chính ngân hàng đó. Mặt khác, số lượng các
vai trò mà một con người cụ thể được phép đảm trách trong một hệ thống cũng có thể bị hạn
chế, ví dụ cùng một người không được phép vừa soạn hóa đơn vừa phê duyệt hóa đơn đó.
Một tác nhân sẽ có một tên, và cái tên này cần phải phản ánh lại vai trò của tác nhân. Cái tên
đó không được phản ánh lại một thực thể riêng biệt của một tác nhân, mà cũng không phản
ánh chức năng của tác nhân đó.
Một tác nhân giao tiếp với hệ thống bằng cách gửi hoặc là nhận thông điệp, giống như
khái niệm chúng ta đã quen biết trong lập trình hướng đối tượng. Một Use Case bao giờ cũng
được kích hoạt bởi một tác nhân gửi thông điệp đến cho nó. Khi một Use Case được thực
hiện, Use Case có thể gửi thông điệp đến một hay là nhiều tác nhân. Những thông điệp này
cũng có thể đến với các tác nhân khác, bên cạnh chính tác nhân đã kích hoạt và gây ra Use
Case.
Tác nhân cũng có thể được xếp loại. Một tác nhân chính (Primary Actor) là tác nhân sử
dụng những chức năng căn bản của hệ thống, tức là các chức năng chính. Ví dụ, trong một
hệ thống bảo hiểm, một tác nhân căn bản có thể là tác nhân xử lý việc ghi danh và quản lý
các hợp đồng bảo hiểm. Một tác nhân phụ (Secondary actor) là tác nhân sử dụng các chức

nặng phụ của hệ thống, ví dụ như các chức năng bảo trì hệ thống như quản trị ngân hàng dữ
liệu, giao tiếp, back-up và các tác vụ quản trị khác. Một ví dụ cho tác nhân phụ có thể là nhà
quản trị hoặc là một nhân viên sử dụng chức năng trong hệ thống để rút ra các thông tin
thống kê về doanh nghiệp. Cả hai loại tác nhân này đều được mô hình hóa để đảm bảo mô tả
đầy đủ các chức năng của hệ thống, mặc dù các chức năng chính mới thật sự nằm trong mối
quan tâm chủ yếu của khách hàng.
Tác nhân còn có thể được định nghĩa theo dạng tác nhân chủ động (active actor) hay tác
nhân thụ động (passive actor). Một tác nhân chủ động là tác nhân gây ra Use Case, trong khi
tác nhân thụ động không bao giờ gây ra Use Case mà chỉ tham gia vào một hoặc là nhiều
Use Case.
16.5.3 Tìm tác nhân:
Khi nhận diện tác nhân, có nghĩa là chúng ta lọc ra các thực thể đáng quan tâm theo khía
cạnh sử dụng và tương tác với hệ thống. Sau đó chúng ta có thể thử đặt mình vào vị trí của
tác nhân để cố gắng nhận ra các yêu cầu và đòi hỏi của tác nhân đối với hệ thống và xác
định tác nhân cần những Use Case nào. Có thể nhận diện ra các tác nhân qua việc trả lời
một số các câu hỏi như sau:
 Ai sẽ sử dụng những chức năng chính của hệ thống (tác nhân chính)?
 Ai sẽ cần sự hỗ trợ của hệ thống để thực hiện những tác vụ hàng ngày của họ?



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 140
 Ai sẽ cần bảo trì, quản trị và đảm bảo cho hệ thống hoạt động (tác nhân phụ)?
 Hệ thống sẽ phải xử lý và làm việc với những trang thiết bị phần cứng nào?
 Hệ thống cần phải tương tác với các hệ thống khác nào? Nhóm các hệ thống này
được chia ra làm hai nhóm, nhóm kích hoạt cho mối quan hệ với hệ thống, và
nhóm mà hệ thống cần phải xây dựng của chúng ta sẽ thiết lập quan hệ. Khái niệm

hệ thống bao gồm cả các hệ thống máy tính khác cũng như các ứng dụng khác
trong chính chiếc máy tính mà hệ thống này sẽ hoạt động.
 Ai hay cái gì quan tâm đến kết quả (giá trị) mà hệ thống sẽ sản sinh ra?
Khi đi tìm những người sử dụng hệ thống, đừng quan sát những người đang ngồi ở trước
màn hình máy tính. Nên nhớ rằng, người sử dụng có thể là bất kỳ người nào hay bất kỳ vật
nào tương tác hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với hệ thống và sử dụng các dịch vụ của hệ thống
này để đạt đến một kết quả nào đó. Đừng quên rằng mô hình hóa Use Case được thực hiện
để mô hình hóa một doanh nghiệp, vì thế tác nhân thường thường là khách hàng của doanh
nghiệp đó. Từ đó suy ra họ không phải là người sử dụng theo nghĩa đơn giản và trực tiếp là
người ngồi trước màn hình máy tính và thao tác với máy tính.
Để có thể nhận dạng được tốt nhiều tác nhân khác nhau, hãy tiến hành nghiên cứu những
người sử dụng của hệ thống hiện thời (một hệ thống thủ công hoặc một hệ thống đang tồn
tại), hỏi xem họ đóng những vai trò nào khi thực thi công việc hàng ngày của họ với hệ thống.
Cũng người sử dụng đó có thể thực thi nhiều vai trò khác nhau tại nhiều thời điểm khác nhau,
tùy thuộc vào việc chức năng nào trong hệ thống đang được sử dụng.
Xin nhắc lại, một tác nhân là một vai trò (một lớp), chứ không phải một thực thể riêng lẻ.
Mặc dù vậy, khi cung cấp ví dụ là một vài các thực thể của một tác nhân, bạn có thể đảm bảo
rằng tác nhân đó thật sự tồn tại. Một tác nhân phải có một sự liên kết (Association) nào đó
với một hoặc là nhiều Use Case. Mặc dù có những tác nhân có thể không kích hoạt nên một
Use Case nào, nhưng tác nhân đó sẽ giao tiếp ít nhất với một Use Case tại một thời điểm
nào đó. Cần phải đặt tên cho tác nhân làm sao để tên phản ánh đúng vai trò của tác nhân đó
trong hệ thống.
16.5.4 Biểu diễn tác nhân trong ngôn ngữ UML
Tác nhân trong UML là một lớp với biệt ngữ "Actor" (Tác nhân) và tên của lớp này là tên
của tác nhân (phản ánh vai trò của tác nhân). Một lớp tác nhân có thể vừa có thuộc tính
(attribute) lẫn hành vi (method) cũng như một thuộc tính tài liệu (document) mô tả tác nhân
đó. Một lớp tác nhân có một biểu tượng chuẩn hóa, biểu tượng "hình nhân":

Hình 16.2- biểu tượng tác nhân trong UML
16.5.5- Use Case

Một Use Case là đại diện cho một chức năng nguyên vẹn mà một tác nhân nhận được.
Một Use Case trong ngôn ngữ UML được định nghĩa là một tập hợp của các chuỗi hành động
mà một hệ thống thực hiện để tạo ra một kết quả có thể quan sát được, tức là một giá trị đến
với một tác nhân cụ thể. Những hành động này có thể bao gồm việc giao tiếp với một loạt các
tác nhân cũng như thực hiện tính toán và công việc nội bộ bên trong hệ thống.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 141
Các tính chất tiêu biểu của một Use Case là:
 Một Use Case bao giờ cũng được gây ra bởi một tác nhân, được thực hiện nhân
danh một tác nhân nào đó. Tác nhân phải ra lệnh cho hệ thống để thực hiện Use
Case đó, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Hiếm khi có tác nhân không liên quan đến
việc gây ra một Use Case nào đó.
 Một Use Case phải cung cấp một giá trị cho một tác nhân. Giá trị đó không phải
bao giờ cũng cần thiết phải nổi trội ra ngoài, nhưng luôn phải được thấy rõ.
 Một Use Case là phải hoàn tất. Một trong những lỗi thường gặp là sẻ chia một Use
Case thành các Use Case nhỏ hơn, và các Use Case này thực thi lẫn nhau giống
như việc gọi hàm cho một ngôn ngữ lập trình. Một Use Case sẽ không được coi là
hoàn tất chừng nào mà giá trị cuối cùng của nó chưa được sản sinh ra, thậm chí
ngay cả khi đã xẩy ra nhiều động tác giao tiếp (ví dụ như đối thoại với người sử
dụng).
Use Case được nối với tác nhân qua liên kết (association). Đường liên kết chỉ ra những
tác nhân nào giao tiếp với Use Case nào. Mối liên kết bình thường ra là một mối quan hệ 1-1
và không có hướng. Điều đó muốn nói lên rằng một thực thể của lớp tác nhân sẽ giao tiếp với
một thực thể của một Use Case và cả hai có thể giao tiếp với nhau trong cả hai chiều. Một
Use Case sẽ được đặt tên theo một thực thể mà Use Case sẽ thực hiện, ví dụ như ký hợp

đồng bảo hiểm, cập nhật danh sách,v.v…,và thường là một cụm từ hơn là chỉ một từ riêng lẻ.
Một Use Case là một lớp, chứ không phải một thực thể. Nó mô tả trọn vẹn một chức
năng, kể cả các giải pháp bổ sung và thay thế có thể có, các lỗi có thể xảy ra cũng như
những ngoại lệ có thể xảy ra trong quá trình thực thi. Một kết quả của sự thực thể hóa một
Use Case được gọi là một cảnh kịch (scenario) và nó đại diện cho một sự sử dụng cụ thể của
hệ thống (một đường dẫn thực thi riêng biệt qua hệ thống). Ví dụ một cảnh kịch của Use
Case "Ký hợp đồng bảo hiểm" có thể là "John liên hệ với hệ thống qua điện thoại rồi sau đó
ký hợp đồng bảo hiểm ô tô cho chiếc xe Toyota Carolla mà anh ta vừa mua."
16.5.6 Tìm Use Case
Quá trình tìm các Use Case bắt đầu với các tác nhân đã được xác định ở phần trước. Đối
với mỗi tác nhân, hãy hỏi các câu hỏi sau:
a. Tác nhân này cần những chức năng nào từ hệ thống? Hành động chính của tác nhân là
gì ?. Ví dụ cho một giao dịch rút tiền bên máy ATM trong một nhà băng lẻ, các hành động
chính của khách hàng (tác nhân) có thể là :
 Đút thẻ vào máy ATM. Nhập password. Nhập loại chuyển dịch
 Nhập số tiền mặt muốn rút ra. Yêu cầu về loại tiền. Nhặt tiền ra từ máy
 Rút thẻ và tờ in kết quả giao dịch
b. Tác nhân có cần phải đọc, phải tạo, phải hủy bỏ, phải sửa chữa, hay là lưu trữ một loại
thông tin nào đó trong hệ thống? Ví dụ :
 Nhân viên nhà băng liệu có quyền truy xuất hay thay đổi mức tiền lãi?
 Khách hàng có thể thay đổi password của mình.
c. Tác nhân có cần phải báo cho hệ thống biết về những sự kiện nào đó? Những sự kiện
như thế sẽ đại diện cho những chức năng nào? Ví dụ: Khách hàng kết thúc tài khoản, nhân



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 142

viên cung cấp những thông tin này cho hệ thống. Có một chương trình đầu tư mới, các chi
tiết của chương trình này sẽ phải được nhân viên nhà băng nhập vào hệ thống.
d. Hệ thống có cần phải thông báo cho Actor về những thay đổi bất ngờ trong nội bộ hệ
thống? Trong tài khoản còn quá ít tiền. Ba kỳ liên tiếp tiền lương chưa đổ về tài khoản.
e. Công việc hàng ngày của tác nhân có thể được đơn giản hóa hoặc hữu hiệu hóa qua
các chức năng mới trong hệ thống (thường đây là những chức năng tiêu biểu chưa được tự
động hóa trong hệ thống)?
f. Các câu hỏi khác: Use Case có thể được gây ra bởi các sự kiện nào khác?
Ví dụ : Sự kiện thời gian: Cuối tháng, hết hạn đầu tư. Sự kiện bình thường của hệ thống:
Tự động chuyển tiền theo các lệnh xác định trước. Các sự kiện bất bình thường: Hợp đồng
đầu tư kết thúc trước thời hạn. Hệ thống cần những thông tin đầu vào/đầu ra nào? Những
thông tin đầu vào/đầu ra đó từ đâu tới và sẽ đi đâu? Khó khăn và thiếu hụt chính trong hệ
thống hiện thời nằm ở đâu (thủ công /tự động hóa)?
Đối với nhóm câu hỏi cuối không có nghĩa là Use Case ở đây không có tác nhân, mà tác
nhân sẽ được nhận ra chỉ khi chúng ta nhận diện ra các Use Case này và sau đó xác định tác
nhân dựa trên cơ sở là Use Case. Xin nhắc lại, một Use Case bao giờ cũng phải được liên
kết với ít nhất một tác nhân.
16.5.7 Ví dụ tìm Use Case
Nhà băng ABC đưa ra các yêu cầu sau: Một khách hàng có thể muốn gửi tiền vào, rút tiền
ra hoặc đơn giản kiểm tra lại số tiền trong tài khoản của anh ta qua máy tự động rút tiền
(ATM). Khi đưa tiền vào hoặc rút tiền ra, cần phải ghi ra giấy kết quả những chuyển dịch đã
thực hiện và trao tờ giấy này cho khách hàng.
Quan sát các chức năng căn bản và các thành phần tham gia, ta thấy có hai tác nhân dễ
nhận ra nhất là khách hàng và nhân viên thu ngân.
Qua đó, có thể nhân dạng các Use Case sau:
 Gửi tiền vào.
 Rút tiền ra.
 Kiểm tra mức tiền trong tài khoản
 Thực hiện các chuyển dịch nội bộ hệ thống
 In kết quả các chuyển dịch đã thực hiện.



Hình 16.3 – Các Use case trong hệ thống ATM
Use Case gửi tiền vào và rút tiền ra phụ thuộc vào Use Case thực hiện các chuyển dịch
trong nội bộ hệ thống, việc thực hiện này về phần nó lại phụ thuộc vào chức năng in ra các
công việc đã được thực hiện. Kiểm tra mức tiền trong tài khoản là một Use Case độc lập,
không phụ thuộc vào các Use Case khác.
16.6- Các biến thể (Variations) trong một Use Case



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 143
Mỗi Use Case sẽ có một dòng hành động chính (Basic Course). Đó là tiến trình bình
thường hay tiến trình mong đợi đối với Use Case này.
Ngoài ra, có thể còn có một hay nhiều dòng hành động thay thế (Alternative) khác. Chúng
có thể được chia làm hai nhóm chính:
 Thay thế bình thường (Normal Alternative)
 Điều kiện gây lỗi (Error Condidtions)
Những gì mang tính bình thường hơn trong Use Case được gọi là Thay thế bình thường.
Có thể miêu tả các dòng hành động thay thế bằng từ ngữ (xem phần tài liệu Use Case ). Ví
dụ một khách hàng có thể chọn các loại giao dịch sau của ATM:
 Gửi tiền vào
 Rút tiền ra
 Kiểm tra mức tiền trong tài khoản
Đây là những ví dụ cho các dòng hành
động thay thế bình thường. Điều kiện gây lỗi
đại diện cho những bước tiến hành bất bình

thường trong một Use Case. Cần phải tính
trước đến những điều kiện gây lỗi đó, ví dụ :
 Mức tiền trong tài khoản không đủ
để tiến hành giao dịch
 Password không đúng
 ATM bị nghẽn thẻ
Hình sau nêu bật dòng hành động chính và
những dòng hành động thay thế cũng như sự
khác biệt của chúng đối với tiến trình mong đợi
của Use Case.
Hình 16.4 – Các tiến trình trong hệ thống ATM
16.7- Quan hệ giữa các Use Case
Có ba loại quan hệ Use Case: Quan hệ mở
rộng, quan hệ sử dụng và quan hệ tạo nhóm. Quan hệ mở rộng và quan hệ sử dụng là hai
dạng khác nhau của tính thừa kế. Quan hệ tạo nhóm là một phương cách để đặt nhiều Use
Case chung với nhau vào trong một gói.
16.7.1- Quan hệ mở rộng
Nhiều khi trong quá trình phát triển Use Case, người ta thấy một số Use Case đã tồn tại
cung cấp một phần những chức năng cần thiết cho một Use Case mới. Trong một trường
hợp như vậy, có thể định nghĩa một Use Case mới là Use Case cũ cộng thêm một phần mới.
Một Use Case như vậy được gọi là một Use Case mở rộng (Extended Use Case). Trong
quan hệ mở rộng, Use Case gốc (Base Use Case) được dùng để mở rộng phải là một Use
Case hoàn thiện. Use Case mở rộng không nhất thiết phải sử dụng toàn bộ hành vi của Use
Case gốc.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G

Trang 144
Biểu đồ sau chỉ ra Use Case “Ký hợp đồng mua ô
tô” là Use Case mở rộng của "Ký hợp đồng bảo
hiểm”.
Hình 16.5 - Quan hệ mở rộng giữa các Use Case
Quan hệ mở rộng giữa các Use Case được biểu
thị bằng đoạn thẳng với hình tam giác rỗng trỏ về phía
Use Case được dùng để mở rộng, đi kèm với
stereotype <<extends>>.
16.7.2 Quan hệ sử dụng
Khi một nhóm các Use Case cùng chung một hành vi nào đó thì hành vi này có thể được
tách riêng ra thành một Use Case riêng biệt và nó có thể được sử dụng bởi các Use Case
kia, một mối quan hệ như vậy được gọi là quan hệ sử dụng.
Trong quan hệ sử dụng, phải sử dụng toàn bộ Use Case khái quát hóa, nói một cách
khác, ta có một Use Case này sử dụng toàn bộ một Use Case khác. Các hành động trong
Use Case khái quát hóa không cần phải được sử dụng trong cùng một tiến trình. Chúng có
thể được trộn lẫn với các hành động xảy ra trong Use Case chuyên biệt hóa.

Hình 16.6 - Quan hệ sử dụng giữa các Use Case
Quan hệ sử dụng giữa các Use Case được biểu thị bằng đoạn thẳng với hình tam giác
rỗng trỏ về phía Use Case được sử dụng, đi kèm với stereotype <<uses>>.
16.7.3 Quan hệ chung nhóm
Khi một số các Use Case cùng xử lý các chức năng tương tự hoặc có thể liên quan đến
nhau theo một phương thức nào đó, người ta thường nhóm chúng lại với nhau.
Nhóm các Use Case được thực hiện bằng khái niệm "Gói" (Package) của UML. Gói không
cung cấp giá trị gia tăng cho thiết kế.
Ví dụ: tất cả các Use Case có liên quan đến sự tương tác giữa khách hàng và nhân viên
thu ngân sẽ được nhóm thành "Package Khách hàng- N/v thu ngân"

Hình 16.7 – Package của UML

Tóm tắt về Use Case với máy ATM trong ngân hàng lẻ: Cho tới nay chúng ta đã xác định
được một vài Use Case, phân tích dòng hành động chính cũng như các dòng hành động thay
thế, cũng như rút ra các mối quan hệ giữa chúng. Biểu đồ sau tổng hợp những thông tin đã
thu thập được về nhóm các Use Case căn bản của một hệ thống ATM.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 145

Hình 16.8 - Biểu đồ một số Use Case trong hệ thống ATM
16.8 Miêu tả Use Case
Như đã trình bày, lời miêu tả một Use Case thường được thực hiện trong văn bản. Đây là
lời đặc tả đơn giản và nhất quán về việc các tác nhân và các Use Case (hệ thống) tương tác
với nhau ra sao. Nó tập trung vào ứng xử đối ngoại của hệ thống và không đề cập tới việc
thực hiện nội bộ bên trong hệ thống. Ngôn ngữ và các thuật ngữ được sử dụng trong lời miêu
tả chính là ngôn ngữ và các thuật ngữ được sử dụng bởi khách hàng/người dùng.
Văn bản miêu tả cần phải bao gồm những điểm sau:
 Mục đích của Use Case: Mục đích chung cuộc của Use Case là gì? Cái gì cần phải
được đạt tới? Use Case nói chung đều mang tính hướng mục đích và mục đích
của mỗi Use Case cần phải rõ ràng.
 Use Case được khởi chạy như thế nào: Tác nhân nào gây ra sự thực hiện Use
Case này? Trong hoàn cảnh nào?
 Chuỗi các thông điệp giữa tác nhân và Use Case: Use Case và các tác nhân trao
đổi thông điệp hay sự kiện nào để thông báo lẫn cho nhau, cập nhật hoặc nhận
thông tin và giúp đỡ nhau quyết định? Yếu tố nào sẽ miêu tả dòng chảy chính của
các thông điệp giữa hệ thống và tác nhân, và những thực thể nào trong hệ thống
được sử dụng hoặc là bị thay đổi?

 Dòng chảy thay thế trong một Use Case: Một Use Case có thể có những dòng thực
thi thay thế tùy thuộc vào điều kiện. Hãy nhắc đến các yếu tố này, nhưng chú ý
đừng miêu tả chúng quá chi tiết đến mức độ chúng có thể “che khuất“ dòng chảy
chính của các hoạt động trong trường hợp căn bản. Những động tác xử lý lỗi đặc
biệt sẽ được miêu tả thành các Use Case khác.
 Use Case sẽ kết thúc với một giá trị đối với tác nhân như thế nào: Hãy miêu tả khi
nào Use Case được coi là đã kết thúc, và loại giá trị mà nó cung cấp đến tác nhân.
Hãy nhớ rằng lời miêu tả này sẽ xác định những gì được thực thi có liên quan đến tác
nhân bên ngoài, chứ không phải những sự việc được thực hiện bên trong hệ thống. Văn bản
phải rõ ràng, nhất quán, khiến cho khách hàng có thể dễ dàng hiểu và thẩm tra chúng (để rồi
đồng ý rằng nó đại diện cho những gì mà anh/cô ta muốn từ phía hệ thống). Tránh dùng
những câu văn phức tạp, khó diễn giải và dễ hiểu lầm.



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 146
Một Use Case cũng có thể được miêu tả qua một biểu đồ hoạt động. Biểu đồ hoạt động
này chỉ ra chuỗi các hành động, thứ tự của chúng, các quyết định chọn lựa để xác định xem
hành động nào sau đó sẽ được thực hiện.
Để bổ sung cho lời miêu tả một Use Case, người ta thường đưa ra một loạt các cảnh kịch
cụ thể để minh họa điều gì sẽ xảy ra một khi Use Case này được thực thể hóa. Lời miêu tả
cảnh kịch minh họa một trường hợp đặc biệt, khi cả tác nhân lẫn Use Case đều được coi là
một thực thể cụ thể. Khách hàng có thể dễ dàng hiểu hơn toàn bộ một Use Case phức tạp
nếu có những cảnh kịch được miêu tả thực tiễn hơn, minh họa lại lối ứng xử và phương thức
hoạt động của hệ thống. Nhưng xin nhớ rằng, một lời miêu tả cảnh kịch chỉ là một sự bổ sung
chứ không phải là ứng cử viên để thay thế cho lời miêu tả Use Case.
Sau khi các Use Case đã được miêu tả, một hoạt động và một công việc đặc biệt cần phải

thực hiện là thẩm tra xem các mối quan hệ (đã đề cập tới trong phần 2.7) có được nhận diện
không. Trước khi tất cả các Use Case được miêu tả, nhà phát triển chưa thể có được những
kiến thức hoàn tất và tổng thể để xác định các mối quan hệ thích hợp, thử nghiệm làm theo
phương thức đó có thể sẽ dẫn đến một tình huống nguy hiểm. Trong thời gian thực hiện công
việc này, hãy trả lời các câu hỏi sau:
 Tất cả các tác nhân liên quan đến một Use Case có mối liên kết giao tiếp với Use
Case đó không?
 Có tồn tại những sự tương tự giữa một loạt các tác nhân minh họa một vai trò
chung và nhóm này liệu có thể được miêu tả là một lớp tác nhân căn bản?
 Có tồn tại những sự tương tự giữa một loạt các Use Case, minh họa một dòng
chảy hành động chung? Nếu có, liệu điều này có thể được miêu tả là một mối quan
hệ sử dụng đến với một Use Case khác?
 Có tồn tại những trường hợp đặc biệt của một Use Case có thể được miêu tả là
một mối quan hệ mở rộng?
 Có tồn tại một tác nhân nào hay một Use Case nào không có mối liên kết giao tiếp?
Nếu có, chắc chắn ở đây đã có chuyện lầm lạc, sai trái: Tại sao lại xuất hiện tác
nhân này?
 Có lời yêu cầu nào về chức năng đã được xác định, nhưng lại không được bất kỳ
một Use Case nào xử lý? Nếu thế, hãy tạo một Use Case cho yêu cầu đó.
Văn bản miêu tả một Use Case đơn giản:
Ví dụ Use Case "Cung Cấp Thông Tin Về Một Tài Khoản Tại Nhà Băng ABC”: Sau khi
phân tích hệ thống, ta nhận thấy cần có một Use Case để in lên màn hình của nhân viên nhà
băng tất cả những chi tiết về một tài khoản của một khách hàng.
Đặc tả Use Case: Chi tiết tài khoản: // tên Use Case
Số Use Case: UCSEC35
Miêu tả ngắn: // miêu tả ngắn gọn Use Case
Use Case "chi tiết tài khoản" cho phép nhân viên nhà băng xem các chi tiết của một tài
khoản mà anh ta định tìm hiểu.
Dòng chảy các sự kiện: // dòng logic chung




Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 147
Nhân viên chọn Chi Tiết Tài Khoản trên menu. Một con đường khác để chỉ ra các thông tin
chi tiết của tài khoản là gọi từ Màn Hình Tóm Tắt Thông Tin Về Tài Khoản (xem Use Case số
UCSEC99).
Dòng hành động chính: // dòng logic chi tiết.
Mỗi khách hàng sẽ có một số định danh gọi là CustomerId. Một khách hàng có thể có
nhiều tài khoản. Sau khi nhân viên nhập CustomerId vào hệ thống, màn hình phải in ra tất cả
những tài khoản thuộc về khách hàng này và thuộc về nhà băng ABC, rải rác tại tất cả các chi
nhánh. Khi chọn tiếp loại tài khoản và số tài khoản, các chi tiết của tài khoản mong muốn sẽ
được in ra.
Loại tài khoản tiết kiệm: Nếu loại tài khoản được chọn là tài khoản tiết kiệm, thì theo Use
Case số UCSEC45, các chi tiết sau đây sẽ được in ra: Mức tiền hiện có. Các tờ sec chưa
thanh toán. Lượng tiền tín dụng được phép. Lượng tiền lãi cho tới ngày hôm nay. Lượng tiền
tối thiểu cần phải có trong tài khoản
Loại tài khoản đầu tư: Nếu loại tài khoản được chọn là loại đầu tư, thì theo Use Case số
UCSEC46, các chi tiết sau đây sẽ được in ra: Hạn đầu tư. Số tiền đầu tư. Ngày đầu tư.
Lượng tiền cuối hạn. Ngày cuối hạn. Tỷ lệ lời
Dòng hành động thay thế: // chuỗi logic thay thế
Không tìm thấy chi tiết: Khi chọn một số tài khoản không thích hợp (không có tài khoản
tương ứng) dù vì lý do chức năng hay kỹ thuật, theo Use Case số UCSEC12, hệ thống sẽ
đưa ra một màn hình báo lỗi.
Điều kiện thoát: // Use Case kết thúc như thế nào?
Nút Thoát: Khi chọn nút thoát, người sử dụng sẽ quay trở lại màn hình chính. Nút Xem
Thêm: Khi chọn nút này, người sử dụng sẽ được yêu cầu chọn loại tài khoản từ một danh
sách đổ xuống. Nút Xem Giao Dịch: Khi chọn nút này, người sử dụng sẽ được chuyển sang

màn hình "Giao dịch" và theo Use Case số UCSEC91, màn hình sẽ chỉ ra những giao dịch đã
xảy ra đối với tài khoản, bên cạnh những chi tiết chính của tài khoản. Nút Yêu Cầu In Kết
Quả: Khi chọn phần thực đơn này, kết quả giao dịch theo Use Case số UCSEC70 sẽ được in
ra ở một máy in địa phương nối trực tiếp với máy tính của nhân viên.
Các yêu cầu đặc biệt: // các yêu cầu đặc biệt
Theo Use Case số UCSEC110, hệ thống có khả năng in lên màn hình bằng những ngôn
ngữ khác. Chức năng này sẽ được kích hoạt khi người sử dụng chọn mục Ngoại Ngữ trên
menu.
Điều kiện trước đó: // điều xảy ra trước khi Use Case được thực hiện
Bảo an: Người sử dụng (nhân viên tiếp khách) được cung cấp một số định danh riêng biệt
để truy nhập vào hệ thống. Dịch chuyển: Người sử dụng chỉ đến được màn hình Chi Tiết Tài
Khoản sau khi đã truy nhập thành công và Identify thành công.
Điều kiện sau đó: // điều gì xảy ra sau khi Use Case được thực hiện?
Hệ thống sẽ không lưu trữ lại bất kỳ một thông tin nào liên quan tới khách hàng lên đĩa
cứng cục bộ.
16.9- Thử Use Case



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 148
Một trong các mục đích chính của Use Case là thử nghiệm (testing). Có hai loại thử
nghiệm khác nhau được thực hiện ở đây: kiểm tra (verification) và phê duyệt xác nhận
(validation). Kiểm tra đảm bảo là hệ thống đã được phát triển đúng đắn và phù hợp với các
đặc tả đã được tạo ra. Phê duyệt xác nhận đảm bảo rằng hệ thống sẽ được phát triển chính
là thứ mà khách hàng hoặc người sử dụng cuối thật sự cần đến.
Công việc phê duyệt xác nhận được thực hiện kề trước giai đoạn phát triển. Ngay khi
một mô hình Use Case được hoàn tất (hay thậm chí có thể đang trong giai đoạn phát triển),

mô hình này phải được trình bày và thảo luận với khách hàng cũng như người sử dụng. Họ
cần phải xác nhận rằng mô hình này là đúng đắn, hoàn tất và thỏa mãn sự mong đợi của họ
đối với hệ thống; đặc biệt là phương cách mà hệ thống cung cấp chức năng cho họ. Để làm
điều đó, nhà phát triển phải đảm bảo rằng khách hàng thật sự hiểu được mô hình và ý nghĩa
của chúng, để tránh trường hợp tạo ra những thứ không thể chấp nhận nổi. Trong giai đoạn
này, rõ ràng là các câu hỏi và các ý tưởng sẽ xuất hiện và chúng cần phải được bổ sung
thêm vào mô hình Use Case trước khi đến giai đoạn phê duyệt chung cuộc. Giai đoạn xác
nhận cũng có thể được thực hiện trong thời kỳ thử nghiệm hệ thống, nhưng điểm yếu của
phương thức làm này là nếu hệ thống không thỏa mãn những yêu cầu cụ thể của người sử
dụng thì toàn bộ dự án rất có thể sẽ phải làm lại từ đầu.
Kiểm tra hệ thống là để đảm bảo nó hoạt động đúng như đặc tả. Điều này không thể
được thực hiện trước khi đã có những thành phần của hệ thống được tạo ra. Chỉ sau đó
người ta mới có thể thử xem hệ thống có hoạt động đúng như đặc tả mà người sử dụng đã
đưa ra, rằng các Use Case thực hiện đúng theo như những lời đã miêu tả trong mô hình,
rằng chúng hoạt động theo đúng phương thức đã được miêu tả trong văn bản miêu tả Use
Case.
Đi bộ dọc Use Case: Một trong những kỹ thuật hữu dụng được dùng trong cả giai đoạn
định nghĩa lẫn thử nghiệm Use Case gọi là "Đi Bộ Dọc Use Case”. Theo kỹ thuật này, nhiều
người khác nhau trong nhóm làm mô hình sẽ đóng vai các tác nhân cũng như hệ thống trong
một Use Case cụ thể. Người đảm nhận vai tác nhân sẽ bắt đầu bằng việc nói ra tác nhân làm
gì với hệ thống. Kết quả của công việc này là hệ thống sẽ khởi chạy một Use Case cụ thể
được bắt đầu từ hành động trên. Người đóng vai hệ thống sau đó sẽ nói anh ta làm gì khi
Use Case được thực hiện. Nhà phát triển đứng ngoài trò chơi diễn kịch sẽ ghi chép và tìm
cách phát hiện ra các điểm yếu trong các Use Case được miêu tả bằng các diễn viên. Trong
trường hợp đặc thù, bạn sẽ tìm thấy rằng có một vài chuỗi hành động bổ sung không được
miêu tả cũng như một vài hành động không được miêu tả với đầy đủ chi tiết.
Các "diễn viên" càng hiểu thấu đáo khía cạnh sử dụng của hệ thống bao nhiêu thì công
việc thử Use Case sẽ càng hiệu quả bấy nhiêu. Việc thay đổi các diễn viên để đóng những
vai trò khác nhau sẽ dẫn tới những thay đổi trong miêu tả và hướng nhìn, cung cấp dữ liệu
đầu vào cho các nhà tạo mô hình để họ biết được làm cách nào có thể đưa ra những lời miêu

tả Use Case rõ ràng hơn, minh bạch hơn, và chỉ ra những điểm còn thiếu. Một khi vai trò của
tất cả các tác nhân đã được diễn và thực thi, và tất cả các Use Case đã được thực thi theo
kiểu này, đó là thời điểm mà người ta nói một quá trình thử nghiệm của mô hình Use Case đã
hoàn tất.
16.10- Thực hiện các Use Case
Use Case là những lời miêu tả độc lập với sự thực thi các chức năng của hệ thống. Điều
đó có nghĩa là Use Case sẽ được thực hiện (thực thể hóa) trong hệ thống, vậy nên trách



Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 149
nhiệm để thực thi các hành động được miêu tả trong tài liệu Use Case đều được phân bổ về
cho các đối tượng cộng tác thực thi chức năng đó.
Các nguyên tắc của UML cho việc thực hiện các Use Case là: Một Use Case sẽ được
thực hiện trong một sự cộng tác (collaboration): Một sự cộng tác chỉ ra một giải pháp (phụ
thuộc vào sự thực thi nội bộ) của một Use Case sử dụng các khái niệm lớp/đối tượng và mối
quan hệ giữa chúng đối với nhau (gọi là ngữ cảnh – context của sự cộng tác) cũng như sự
tương tác giữa chúng để đạt tới chức năng mong muốn (gọi là chuỗi tương tác của sự cộng
tác). Kí hiệu cho sự cộng tác là một hình ellipse có chứa tên của sự cộng tác đó.
Sự cộng tác được trình bày trong UML qua một loạt các biểu đồ chỉ ra cả ngữ cảnh lẫn
chuỗi tương tác giữa các thành phần tham gia: thành phần tham gia trong một sự cộng tác là
một loạt các lớp (và trong một thực thể cộng tác: các đối tượng). Các biểu đồ sử dụng ở đây
là biểu đồ cộng tác, biểu đồ chuỗi và biểu đồ hoạt động. Cần phải sử dụng loại biểu đồ nào
để tạo ra một bức tranh bao quát về sự cộng tác là quyết định tùy thuộc vào từng trường hợp
cụ thể. Trong một vài trường hợp, chỉ một biểu đồ cộng tác đã có thể là đủ; nhưng trong các
trường hợp khác, người ta nhất thiết cần tới sự kết hợp của nhiều loại biểu đồ khác nhau.
Một cảnh kịch (Scenario) là một thực thể (instance) của một Use Case hay là một sự cộng

tác: một cảnh kịch là một chuỗi thực thi cụ thể (một dòng chảy cụ thể của các sự kiện) trình
bày một sự thực thể hóa của một Use Case (tức là một lần sử dụng hệ thống). Khi một cảnh
kịch được quan sát trong tư cách một Use Case, người ta chỉ miêu tả những ứng xử bên
ngoài hướng về phía tác nhân. Khi quan sát một cảnh kịch trong tư cách là một thực thể của
sự cộng tác, người ta sẽ miêu tả cả sự thực thi nội tại (các dòng lệnh code) của các lớp tham
gia ở đây, thuật toán cũng như thủ tục của chúng cùng sự giao tiếp giữa chúng với nhau.
Tác vụ thực hiện một Use Case là chuyển các bước và hành động khác nhau trong lời
miêu tả Use Case thành lớp, thủ tục trong những lớp này cũng như quan hệ giữa chúng với
nhau. Nó được miêu tả là động tác phân bổ trách nhiệm của mỗi bước đi trong Use Case vào
các lớp tham gia sự cộng tác thực hiện Use Case đó. Tại giai đoạn này, người ta phải tìm ra
một giải pháp cung cấp những hành vi hướng ngoại đã được xác định của Use Case; nó
được miêu tả trong những thuật ngữ của một sự cộng tác nội bộ trong hệ thống.
Mỗi bước hành động trong Use Case sẽ được chuyển thành thủ tục (operation) trong các
lớp tham gia. Một bước trong Use Case sẽ được chuyển thành một loạt các thủ tục tại nhiều
lớp; rất hiếm khi xảy ra ánh xạ 1-1 giữa các hành động trong Use Case và các thủ tục được
thực thi trong tương tác giữa các đối tượng của các lớp tham gia. Cũng xin nhớ rằng một lớp
có thể tham gia nhiều Use Case khác nhau và trách nhiệm cao nhất của lớp nằm chính trong
việc kết tập tất cả các vai trò mà lớp này đảm nhận trong các Use Case khác nhau.
Mối quan hệ giữa một Use Case và sự thực thi nó theo khái niệm cộng tác được chỉ ra
hoặc qua một mối quan hệ nâng cao (refinement relationship) – biểu thị bằng đoạn thẳng
chấm chấm với mũi tên - - - -> hay một hyperlink ngầm trong một công cụ nào đó. Một
hyperlink trong một công cụ sẽ tạo điều kiện chuyển từ việc quan sát một Use Case trong một
biểu đồ Use Case sang ngay sự cộng tác thực thi Use Case đó. Các hyperlink cũng được sử
dụng để chuyển từ Use Case này sang một cảnh kịch (thường là một mô hình động – biểu đồ
hoạt động, biểu đồ chuỗi hay biểu đồ cộng tác) miêu tả một sự thực hiện cụ thể nào đó của
Use Case.
Phân bổ trách nhiệm cho các lớp một cách thành công là một tác vụ đòi hỏi kinh nghiệm.
Cũng giống như mọi công đoạn hướng đối tượng khác, công việc này mang tính vòng lặp
(iterative). Nhà phát triển thử nghiệm với nhiều sự phân bổ trách nhiệm khác nhau và dần




Giáo trình: Phân tích thiết kế hệ thống Giảng viên: Lê Đắc Nhường

G
Trang 150
dần nâng cấp chúng trong giải pháp của mình cho tới khi tạo ra được một mô hình thực hiện
chức năng đó, đồng thời lại đủ mức độ năng động để cho phép tiến hành các sự thay đổi
trong tương lai.
Jacobson sử dụng phương pháp định nghĩa ba loại đối tượng căn bản (có nghĩa là ba loại
lớp): các đối tượng biên (boundary objects) , đối tượng chỉ huy (control objects) và đối tượng
thực thể (entity objects). Đối với mỗi Use Case, các lọai đối tượng này được sử dụng để miêu
tả một sự cộng tác thực thi Use Case. Trách nhiệm của các loại đối tượng kể trên như sau:
Đối tượng thực thể: loại đối tượng này đại diện cho các thực thể của bài toán nằm trong
phạm vi mà hệ thống xử lý. Thường chúng mang tính thụ động, theo khái niệm là chúng
không tự gây nên các tương tác đối với chúng. Trong một hệ thống thông tin, các đối tượng
thực thể thường mang tính trường tồn (persistent) và được lưu trữ trong một hệ ngân hàng
dữ liệu. Các đối tượng thực thể thường tham gia vào nhiều Use Case khác nhau.
Đối tượng biên: loại đối tượng này nằm gần đường ranh giới của hệ thống (mặc dù vẫn
nằm bên trong hệ thống). Chúng tương tác với các tác nhân nằm bên ngoài hệ thống và nhận
thông điệp cũng như gửi thông điệp đến các loại đối tượng khác nằm bên trong hệ thống.
Đối tượng chỉ huy: loại đối tượng này chỉ huy sự tương tác giữa các nhóm đối tượng.
Một đối tượng như thế có thể đóng vai trò "bộ phận điều khiển” cho toàn bộ một Use Case
hoàn tất, hay nó có thể thực thi một chuỗi hành động chung của nhiều Use Case. Thường thì
một đối tượng như vậy chỉ tồn tại trong quá trình thực thi Use Case.
Ba loại đối tượng này có ba kí hiệu khác nhau và có thể được sử dụng khi vẽ các loại biểu
đồ miêu tả cộng tác hoặc biểu đồ lớp. Sau khi đã định nghĩa nhiều loại đối tượng khác nhau
và xác nhận các cộng tác, người ta có thể để công đi tìm sự tương tự giữa chúng để một số
lớp có thể được sử dụng trong một loạt các Use Case khác nhau. Sử dụng các Use Case
theo phương thức này ta có thể tạo nên nền tảng cho việc phân tích và thiết kế hệ thống; qui

trình phát triển được Ivar Jacobson gọi là "Qui Trình Phát Triển Theo Use Case" (Use case –
driven). Nhìn chung có nhiều phương pháp khác nhau để phân bổ trách nhiệm từ Use Case
về cho các lớp. Có phương pháp đề nghị đầu tiên phải tiến hành phân tích phạm vi bài toán,
chỉ ra tất cả các lớp thực thể với mối quan hệ của chúng với nhau. Sau đó nhà phát triển sẽ
phân tích từng Use Case và phân bổ trách nhiệm cho các lớp trong mô hình phân tích nhiều
khi sẽ thay đổi chúng hoặc bổ sung thêm các lớp mới. Một phương pháp khác lại đề nghị là
nên lấy các Use Case làm nền tảng để tìm các lớp, làm sao trong quá trình phân bổ trách
nhiệm thì mô hình phân tích của phạm vi bài toán sẽ từng bước từng bước được thiết lập.
Một điểm quan trọng cần phải nhắc lại là công việc ở đây mang tính vòng lặp. Khi phân bổ
trách nhiệm cho các lớp, ta có thể phát hiện ra sự thiếu đồng bộ hoặc lỗi trong các biểu đồ
lớp và qua đó, dẫn đến việc sửa chữa trong biểu đồ lớp. Những lớp mới sẽ được nhận dạng
và tìm ra nhằm mục đích hỗ trợ cho các Use Case. Trong một số trường hợp, thậm chí có thể
xảy ra chuyện phải thay đổi hoặc sửa chữa cả biểu đồ Use Case vì khi hiểu hệ thống một
cách sâu sắc hơn, nhà phát triển sẽ nhận ra rằng có một Use Case nào đó đã không được
miêu tả chính xác và đúng đắn. Các Use Case giúp chúng ta tập trung vào khía cạnh chức
năng của hệ thống, làm sao phải đảm bảo cho nó được miêu tả chính xác và được xây dựng
chính xác trong hệ thống. Một trong những vấn đề xảy ra với nhiều phương pháp hướng đối
tượng mà không sử dụng đến khái niệm Use Case là chúng tập trung quá nhiều vào cấu trúc
tĩnh của các lớp và các đối tượng (nhiều khi người ta gọi là phương pháp mô hình hóa khái
niệm – conceptual modeling) nhưng lại bỏ qua các khía cạnh chức năng và khía cạnh động
của hệ thống.

×