Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Làm tn để việc bồi dưỡng hs giỏi có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.97 KB, 11 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 1
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Nhận định hiện trạng.
Theo tôi được biết việc học Tiếng Anh ở các trường THCS trong các
năm qua có nhiều tiến bộ, số lượng học sinh tham gia các kỳ thi giỏi cấp
huyện ngày càng gia tăng, thế nhưng trên thực tế vẫn còn có rất nhiều học
sinh có học lực giỏi môn Tiếng Anh, các em rất ham mê học môn này nhưng
khi tham gia các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh ở các lớp cuối cấp các
em đều không đạt kết quả cao.
Phải chăng kết quả đó cũng có một phần trách nhiệm của chúng ta -
những người trực tiếp giảng dạy bộ môn này .
1.2. Lý do chọn đề tài.
Xuất phát từ hiện trạng trên, nhằm cùng các bạn đồng nghiệp chia sẻ
những nỗi băn khoăn, trăn trở “Làm thế nào để việc bồi dưỡng học sinh
giỏi có hiệu quả”.
Tôi xin phép được trình bày cùng các bạn đồng nghiệp một số việc mà
tôi đã thực hiện trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi trong các năm qua, đó
cũng là lý do tôi chọn đề tài này.
1.3. Mục đích đề tài.
Nhằm góp phần nhân rộng số lượng học sinh giỏi môn Tiếng Anh cấp
THCS ra nhiều trường hơn chứ không tập trung ở một số trường, giảm bớt
sự thiệt thòi đối với học sinh vùng sâu, vùng xa trong lãnh vực học Tiếng
Anh.
1.4. Giới hạn đề tài.
Áp dụng đối với giáo viên dạy Tiếng Anh bậc THCS đang đảm nhận
nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi khối lớp 9.
2. NỘI DUNG.
2.1. Thực trạng vấn đề:
Trong nhiều năm qua có rất nhiều anh chị giáo viên đưa học sinh của
mình đi tham gia các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, kết quả thì không mấy
khả quan mặc dù thầy dạy rất nhiệt tình, học sinh học tập rất tích cực, phải


chăng đó là do bản thân người thầy chưa thật sự có những phương pháp phù
hợp trong việc bồi dưỡng học sinh của mình.
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 2
2.2. Lý luận đề tài.
Việc giảng dạy cho học sinh nắm được chương trình có lẽ bất kỳ giáo
viên nào cũng có thể thực hiện được nhưng việc bồi dưỡng học sinh giỏi
không phải giáo viên nào cũng đảm nhận được, theo tôi một giáo viên dạy
học sinh giỏi muốn có hiệu quả thì cần đảm bảo được các nhu cầu cần phải
có như sau:
- Trình độ chuyên môn: Đây là tiêu chuẩn hàng đầu và có tính chất
quyết định trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi lẽ muốn học trò
giỏi trước tiên người thầy phải giỏi, nguồn kiến thức ấy được ví như ‘thức
ăn” mà các em học sinh cần, do vậy để các em ăn được no thì người thầy cần
cung cấp đủ “thức ăn”, tránh trường hợp trò còn muốn ăn mà thầy thì hết
nguồn cung cấp.
- Tinh thần trách nhiệm: Để việc bồi dưỡng học sinh giỏi có kết quả,
người dạy phải có trách nhiệm đối với thành tích học tập của học sinh mình,
trách nhiệm đối với sự tin tưởng của cấp lãnh đạo và đồng nghiệp, phải đặt
trách nhiệm lên hàng đầu và có tấm lòng hy sinh, không tính toán, luôn xem
thành tích của học sinh là niềm vui trong việc giảng dạy của mình.
- Uy tín: Việc học bồi dưỡng học sinh giỏi là phần học thêm của các
em, do vậy để các em nhiệt tình theo học người thầy phải tạo được lòng tin
nơi các em, cho các em thấy được việc học BDHS giỏi là quyền lợi, là vinh
dự của các em, và được theo học người thầy ấy là niềm tự hào của chúng.
Muốn được như thế người thầy phải có được uy tín đối với học sinh. Uy tín
của người thầy không những chỉ thể hiện ở lãnh vực chuyên môn mà theo tôi
uy tín ấy phải được thể hiện ở lãnh vực đạo đức nữa.
- Thời gian: Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là việc dạy ngoài chương
trình chính khoá, do đó vấn đề thời gian cũng là một yêu cầu rất quan trọng,
nếu người giáo viên không có đủ thời gian thì việc giảng cũng không thể

đảm bảo kết quả khả quan được.
2.3. Thực nghiệm
Để việc bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, theo tôi quá trình đó
được thực hiện qua sáu giai đoạn .
1/ Chọn học sinh.
2/ Chọn tài liệu.
3/ Lên thời khoá biểu
4/ Cung cấp kiến thức.
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 3
5/ Hướng dẫn cách làm bài
6/ Kiểm tra kiến thức + Rút kinh nghiệm.
2.4. Nội dung thực nghiệm.
2.4.1. Chọn học sinh:
Thông qua giáo viên bộ môn, chọn học sinh ngay từ lớp đầu cấp
(lớp 6), số lượng khoảng từ 10 đến 15 học sinh cho một khối.
Trước khi tham gia kỳ thi (lớp 9) ta khảo sát chọn ra 5 học sinh đi thi.
2.4.2. Chọn tài liệu:
- Đa dạng hóa các dạng bài tập từ cơ bản đến nâng cao thuộc khối
THCS của các nhà xuất bản như: NXB Tổng hợp TP. HCM, NXB GD, NXB
ĐHQG TP. HCM… giáo trình streamline, Headway, New concept…
- Tham khảo các đề thi học sinh giỏi của các năm học trước, sưu tầm
tài liệu trên báo, tạp chí, Internet…
- Nói chung tài liệu thì rất đa dạng, để chuẩn bị tốt cho bài giảng của
mình người dạy phải luôn luôn tự trao dồi.
2.4.3. Lên thời khóa biểu:
Lên thời khoá biểu hợp lý, tạo điều kiện cho các em có thể theo học
lâu dài.
* Đối với học sinh khối 6, 7, 8: Từ 2 đến 4 tiết/tuần
* Đối với học sinh khối 9: Từ 4 đến 6 tiết/tuần
Nên dành thời gian cho học sinh tự học ở nhà.

2.4.4. Cung cấp kiến thức:
Rèn luyện theo bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết.
2.4.4.1. Luyện nghe (Listening):
Tham khảo các bài tập trong tài liệu, chúng ta có thể thiết kế lại hoặc
giữ nguyên sau đó soạn ra yêu cầu đề bài, cho học sinh thực hành, chúng ta
có thể dùng băng, đĩa hoặc giáo viên tự đọc cho học sinh nghe.
+ Các dạng bài tập cần luyện:
* Nghe để trả lời đúng, sai (say True or False).
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 4
* Nghe để chọn câu trả lời hay nhất (Choose the best option A, B, C,
or D).
* Nghe để điền từ (Gap fill).
Để học sinh hứng thú luyện tập, chúng ta nên tham khảo nhiều loại
hình bài nghe, kể cả bài hát, cần giải thích kỹ các từ mới, cấu trúc mới có
xuất hiện trong nội dung bài nghe.
2.4.4.2. Luyện đọc hiểu (Reading comprehension):
Nội dung những bài đọc hiểu cần đa dạng hóa các chủ đề: Thể thao, y
học, giáo dục, danh nhân, cuộc sống đời thường…Chủ đề càng đa dạng thì
vốn từ của học sinh càng phong phú. Chúng ta nên chuẩn bị bài tập và phát
tới tay học sinh, học sinh phải chuẩn bị kỹ bài tập ở nhà trước khi đến lớp,
cần phát huy tối đa tính độc lập của học sinh.
2.4.4.3. Luyện viết (writing):
Đây là dạng bài tương đối khó đối với đa số học sinh, để học sinh có
thể viết tốt chúng ta nên từng bước hướng dẫn học sinh thông qua các dạng
bài tập từ dể đến khó.Theo tôi chúng ta nên chia phần luyện viết thành hai
dạng bài tập:
 Luyện viết câu: Gồm bài tập xây dựng câu (sentence building
exercises) và bài tập biến đổi câu (sentence transforming exercises).
 Để làm bài tập xây dựng câu tốt, chúng ta cần lưu ý học sinh
các yêu cầu sau:

- Thông qua những từ gợi ý( promts, cues, suggested words)
xác định cấu trúc sắp được dùng
- Thì nào sẽ được dùng .( Which tense will be used?).
- Chú ý đến trật tự từ trong câu( không thay đổi).
EX
1
: Although/she/ only twenty/, have/ experience/ care/ children.
Đối với câu này các em phải xác định được rằng đây là câu có mệnh
đề trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ (adverb clause of concession), có
although thì không có “but”.
Although she is only twenty years old, she has lots of experience
in caring for children.
 Đối với dạng bài tập biến đổi câu (sentence transforming
exercises): Chúng ta cần ôn lại tất cả các cấu trúc ngữ pháp cho các
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 5
em như: Passive voice, too…, enough…, although, in spite of, despite,
because, because of, so….that, such…that, If clause, relative clause,
No matter, indirect speech…
Đối với từng cấu trúc nên cho học sinh thực hành nhiều lần.
Ví dụ: Khi muốn biến đổi câu có cấu trúc “Although” sang câu có cấu
trúc “In spite of” thì học sinh phải hiểu được rằng: Although + clause còn
In spite of + phrase :
Ex: Although he had a good salary, he was unhappy in his job.
In spite of his good salary, he was unhappy in his job.
 Luyện viết luận: (Composition)
Có ba dạng bài luận cần luyện tập cho học sinh như sau:
* Viết một đoạn văn (a passage).
*Viết thơ(a letter).
*Viết một đoạn đối thoại (a dialogue).
Để bài viết có chất lượng, chúng ta cần lưu ý học sinh phân tích đúng

yêu cầu đề bài như bài viết thuộc loại hình nào, hoàn cảnh, sự việc của bài
viết xãy ra lúc nào ở quá khứ, hiện tại hay tương lai. Từ đó các em có thể
dùng thì thích hợp.
Điều quan trọng không kém khi luyện loại bài tập này là chúng ta cần
hướng dẫn các em cách tìm ra ý tưởng xoay quanh chủ đề của đề bài, lập
dàn ý, cách xây dựng bố cục một bài luận, bài viết phải đảm bảo đủ ba phần:
Mở bài, thân bài, và kết luận.
*Mở bài: (Introduction) Phải nêu được câu chủ đề (topic sentence)
*Thân bài: (Body) Nêu chi tiết, sự việc của chủ đề.
*Kết luận: (Conclution) Tóm lại những gì đã trình bày.
2.4.4.4. Luyện kỹ năng nói:
Đối với kỹ năng này chủ yếu học sinh trả lời trực tiếp với chúng ta
thông qua các bài tập, chúng ta sửa lỗi cho các em về ý tưởng, ngữ pháp
cũng như phát âm…Kỹ năng này hổ trợ cho ba kỹ năng trên.Nếu các em nói
tốt thì các em sẽ nghe tốt và viết tốt.
Đối với loại bài tập này giáo viên cần đưa ra những chủ đề gần gũi
với cuộc sống đời thường, học sinh có thể nói tự do, giáo viên lắng nghe và
sửa lỗi về cách dùng từ, ngữ pháp cho học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 6
2.4.5. Hướng dẫn cách làm bài:
Đây là việc làm cũng rất quan trọng mà chúng ta – những người trực
tiếp dạy bồi dưỡng không thể bỏ qua nó, bởi lẽ nếu chúng ta dạy nhiệt tình,
nội dung bài giảng rất phong phú, học sinh học tập rất tốt, thế nhưng khi đi
thi các em không biết cách làm bài, thì kết quả cũng không thể theo như
mong muốn.
Theo tôi chúng ta nên hướng dẫn học sinh khi nhận được đề thi nên
dành từ một đến hai phút để đọc đề, xác định yêu cầu đề bài, cố gắng hiểu
đúng những yêu cầu đề bài, câu nào dể làm trước, câu nào khó làm sau.
- Đối với phần nghe (Listening):
Đọc lướt nhanh nội dung được phát ra, tập trung vào các dữ liệu có

thể gặp trong bài nghe như: năm, tháng, tên đia điểm, tên người, số lượng…
Các em phải đoán được chủ đề sắp được đọc và đoán câu trả lời. Khi nghe
băng, đĩa phải hết sức tập trung.
- Đối phần đọc hiểu (Reading comprehension):
Đọc yêu cầu đề bài, tập trung làm bài, đây là dạng bài tập đọc để hiểu
nội dung nên học sinh không cần thiết phải biết toàn bộ từ trong bài đọc mà
các em chỉ cần nắm được khoảng 80% từ vựng trong bài đọc đó là được, chủ
yếu các em đọc để hiểu được nội dung bài đọc đó.
- Đối với phần viết (Writing):
Đọc yêu cầu đề, xác đinh cấu trúc, xác định loại hình bài.
Trong phần viết luận nên lưu ý các em viết đúng loại hình bài
(format), bởi nếu viết sai loại hình thì bài không có điểm, chú ý về số lượng
từ qui định, chỉ nên viết chênh lệch trên, dưới 20 từ.
* Điều mà chúng ta cần lưu ý học sinh khi làm bài nữa là phải phân
phối thời gian sao cho hợp lý, theo tôi thì bài viết được dành 1/3 thời gian/
tổng thời gian qui định của đề thi để làm.
2.4.6. Kiểm tra kiến thức + Rút kinh nghiệm:
Đây là giai đoạn cũng rất quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học
sinh giỏi, bởi lẽ nếu ta chỉ dạy mà không kiểm tra thì ta sẽ không thể biết
được sự tiếp thu kiến thức của học sinh đạt đến mức độ nào.
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 7
Việc rút kinh nghiệm sau mỗi bài kiểm tra thật sự rất cần thiết, từ
những lần rút kinh nghiệm học sinh có thể nhận ra mình còn yếu ở phần nào
để có thể khắc phục.
Để thực hiện khâu này chúng ta có thể chuẩn bị các bài tập theo dạng
các đề thi ở các năm học trước cho các em thực hành, có qui định thời gian
làm bài, có chấm điểm, có khen thưởng nếu các em làm bài tốt, nhưng nếu
các em làm bài chưa tốt thì ta không nên quở trách mà chỉ nên động viên các
em cố gắng hơn lần sau, bởi lẽ việc học này là phần học các em phấn đấu
thêm ngoài nhiệm vụ học tập trên lớp, do đó nếu chúng ta không khéo thu

hút, các em sẽ dể dàng từ chối theo học với chúng ta.
Chúng ta nên đem đến cho học sinh sự hứng thú đối với môn học lẫn
người dạy, như vậy việc giảng dạy của chúng ta mới có thuận lợi.
2.5. KẾT QUẢ:
Tôi bắt đầu dạy bồi dưỡng học sinh giỏi từ năm học 1994-1995 cho
đến nay hầu như năm nào tôi cũng có học sinh đạt giỏi cấp huyện; cấp tỉnh
tôi chỉ đạt được bảy học sinh.
Sau đây là kết quả mà tôi đã đạt được ở những năm gần nhất.
Năm học
Số lượng học sinh giỏi huyện Số lượng học sinh giỏi tỉnh
hạng 3 hạng 5 hạng 6 hạng 8 KK Giải 3 Giải KK
2004-2005 01 02 01
2005-2006 01 01
2006-2007 01 02 01 02
3. KẾT LUẬN:
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, có lẽ tất cả chúng ta đều mong học
sinh của mình học giỏi. Thế nhưng việc bồi dưỡng học sinh giỏi quả thật
không phải là công việc dễ dàng, nhưng tôi tin rằng với tấm lòng yêu nghề
mến trẻ, chịu khó, ham học hỏi, tất cả chúng ta đều có thể làm được, bởi lẽ
trong mỗi chúng ta chắc hãy còn nhớ lời dạy của Bác Hồ:
“Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển,
quyết chí ắt làm nên”.
Trên đây là một số việc mà tôi đã thực hiện được trong những năm
qua. Tôi mong rằng nó có thể cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp về
những phương pháp dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, nhằm góp phần làm cho
danh hiệu học sinh giỏi Tiếng Anh cấp huyện, cấp tỉnh không chỉ được nhìn
thấy ở các trường thuộc thành phố, thị xã, thị trấn, mà danh hiệu ấy phải
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 8
được nhìn thấy ngày càng nhiều ở những trường thuộc vùng nông thôn,
nhằm giúp các em ở mọi nơi, không phân biệt ở thành phố hay vùng sâu,

vùng xa, đều có thể học giỏi và đạt thành tích cao trong việc học Tiếng Anh,
bởi lẽ Tiếng Anh đóng một vai trò rất quan trọng trong thời kỳ hội nhập của
nước ta hiện nay.
4. ĐỀ NGHỊ:
- Đối với giáo viên:
Tất cả chúng ta cần quan tâm hơn nữa đối với học sinh có học lực giỏi
môn Tiếng Anh, kịp thời phát hiện những “hạt giống tốt” để có kế hoạch bồi
dưỡng. Chúng ta không ngừng trao dồi chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm
với đồng nghiệp để ngày càng có được những phương pháp phù hợp hơn
trong việc bồi dưỡng học sinh của mình.
- Đối với lãnh đạo:
Để góp phần làm cho việc dạy giỏi, học giỏi trở thành một trong
những hoạt động mủi nhọn trong sự nghiệp giáo dục của chúng ta:
Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa, có chế độ khen thưởng
xứng đáng đối với các giáo viên thuộc các đơn vị điều kiện còn khó khăn mà
có học sinh đạt giỏi huyện, tỉnh…Có thể xem đó là một trong những thành
tích nổi bậc để xét nâng lương trước thời hạn. Bởi lẽ một giáo viên có học
sinh đạt giỏi cấp huyện, tỉnh thì quả thật rất xứng đáng được nhận danh hiệu
là giáo viên dạy giỏi, bởi thành tích ấy chứng minh được trình độ chuyên
môn và khả năng sư phạm của họ, hơn nữa sự đầu tư để có học sinh giỏi rõ
ràng khó khăn hơn, lâu dài hơn so với quá trình phấn đấu để được công nhận
là giáo viên giỏi (chỉ qua vài tuần chuẩn bị và 2 tiết dạy thi).
Điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều có thể nhìn thấy được là để có được
học sinh giỏi, giáo viên phải phấn đấu cả một quá trình từ 3 hay 4 năm có
khi còn lâu hơn nữa./.

Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Nguyễn Bá. 20 Bài kiểm tra trắc nghiệm Tiếng Anh 9 – Nhà xuất bản
Đại Học Quốc Gia Hà Nội;

[2] Trịnh Can. Bài tập thực hành Tiếng Anh 9 – Nhà xuất bản Đại Học Sư
Phạm TP. Hồ Chí Minh;
3] Nguyễn Thị Minh Hương. Bài tập Tiếng Anh nâng cao 9 – Nhà xuất bản
Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh;
[4] Vũ Thị Lợi. Bài tập trắc nghiệm Tiếng Anh 9 – Nhà xuất bản Giáo Dục;
[5] Nguyễn Nam Nguyên. Bài tập Tiếng Anh 9 – Nhà xuất bản Đại Học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh;
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 10
MỤC LỤC
1. MỞ ĐÂU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 1
 Nhận định hiên trạng ………………………… Trang 1
 Lý do chọn đề tài……………………………… Trang 1
 Mục đích chọn đề tài………………………… Trang 1
 Giới hạn đề tài………………………………… Trang 1
2. NỘI DUNG . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 1
 Thực trạng vấn để……………………………… Trang1
 Lý luận đề tài……………………………………Trang1
 Thực nghiệm…………………………………… Trang2
 Nội dung thực nghiệm………………………… Trang 2
 Chọn học sinh………………………… Trang 2
 Chọn tài liệu ……………………………Trang 2
 Lên thời khoá biểu …………………… Trang 3
 Cung cấp kiến thức …………………… Trang 3
 Luyện nghe ……………………. Trang 3
 Luyện đọc hiểu …………………. Trang3
 Luyện viết ……………………… Trang4
 Luyện kỹ năng nói …………… Trang5
 Hướng dẫn cách làm bài … Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm - Trang 11
α Đối với phần nghe …………Trang 5

α Đối với phần đọc hiểu …… Trang 5
α Đối với phần viết ………… Trang 6
 Kiểm tra kiến thức và rút kinh nghiệm Trang 6
3. KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 7
4. ĐỀ NGHỊ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 7
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… Trang 9
6. MỤC LỤC ……………………………………………. Trang 10


×