Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tài liệu về đề cương kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.34 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế học đã trở thành một môn học mang tính phổ cập và được qui
định là một môn khoa học cơ sở đối với sinh viên ngành kinh tế ở tất cả các
trường đại học trong cả nước.
Kinh tế học vĩ mô là một nhánh của Kinh tế học, tập trung nghiên cứu các
hoạt động của nền kinh tế dưới góc độ tổng thể, đề cập đến các vấn đề kinh tế
diễn ra hàng ngày như : tăng trưởng kinh tế, lạm phát,thất nghiệp, cán cân thanh
toán, cùng các chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ Nhằm nâng cao chất
lượng của sinh viên khối ngành kinh tế trong các trường đại học, nâng cao khả
năng thực hành về các vấn đề của kinh tế vĩ mô trong chính sách vĩ mô của nhà
nước.Ngoài việc học những kiến thức cơ bản về kinh tế vĩ mô sinh viên các khối
ngành kinh tế cần làm những bài tập lớn của môn kinh tế vĩ mô.Việc làm bài tập
lớn sẽ giúp cho sinh viên hiểu thêm về tình hình kinh tế vĩ mô thực tế của nhà
nước ta hiện nay những điều mà sinh viên không được thấy trên sách vở.Qua đó
cũng là một lần các sinh viên tự kiểm tra, áp dụng những gì mình đã được học
vào phân tích các chính sách vĩ mô của nhà nước.
Với đề tài nghiên cứu : “Tìm hiểu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam từ sau thời kì đổi mới đến nay. Ảnh hưởng của việc gia
nhập WTO đối với nguồn đầu tư này”. Em hi vọng bước đầu đánh giá được
tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta từ năm 1987 đến nay.
Sự kiện Việt Nam ra nhập WTO vào năm 2006 đánh dấu bước phát triển trong
nền kinh tế nước ta và đem lại nhiều cơ hội ,thách thức mới. Như vậy, việc gia
nhập WTO ảnh hưởng như thế nào tới nguồn đầu tư này?
Qua bài tập lớn này giúp em hiểu sâu , rõ hơn về môn học kinh tế vĩ mô,
trang bị cho em một số kiến thức thực tế dựa trên những kiến thức lí thuyết đã
học trên giảng đường. Điều đó tạo nền tảng và cơ sở vững chắc kiến thức cho
các môn học sau này cũng như công việc trong tương lai. Bài tập lớn gồm 3
phần:
-Phần 1: Lời mở đầu
-Phần 2: Nội dung chính


-Phần 3: Kết luận
Bài tập lớn đước hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Kim Loan.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
1
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với đầu tư nước ngoài.
1. Giới thiệu về môn học, vị trí của môn học trong chương trình đại học.
a. Giới thiệu môn học:
-Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế
nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu
cầu của cá nhân và toàn xã hội
-Kinh tế học vĩ mô - một phân nghành của kinh tế học - nghiên cứu sự
vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong kinh tế học vĩ mô chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề. Thứ
nhất, chúng ta tìm cách nắm bắt phương thức hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, chúng ta tìm cách giải đáp câu hỏi là liệu chính phủ có thể làm điều gì
để cải thiện thành tựu chung của toàn bộ nền kinh tế. Tức là chúng ta quan tâm
đến cả giải thích và khuyến nghị về chính sách.
Giải thích liên quan đến nỗ lực để hiểu hành vi của nền kinh tế trên bốn
phương diện cơ bản: sản lượng và tăng trưởng kinh tế; việc làm và thất nghiệp; sự
biến động của mức giá chung; và thu nhập ròng nhận được từ thương mại và tài
chính quốc tế. Kinh tế học vĩ mô tìm cách giải thích điều gì quyết định đến các
biến số đó, tại sao chúng lại biến động theo thời gian và mối quan hệ giữa chúng.
Trong kinh tế học vĩ mô chúng ta tìm hiểu phương thức hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên chúng ta không thể xem xét mọi giao dịch cá
nhân trên tất cả các thị trường trong nền kinh tế. Trái lại cúng ta cần phải đơn
giản hóa, trừu tượng hóa thế giới hiện thực. Chúng ta sử dụng phương pháp trừu
tượng hóa để giảm bớt các chi tiết phức tạp của nền kinh tế, nhằm tập trung
phân tích những mối quan hệ kinh tế then chốt, qua đó dễ dàng phân tích, đánh

giá và dự báo hành vi của các biến số quan trọng. Quyết định nghiên cứu các
biến số tổng hợp, chứ không phải nghiên cứu các biến số đơn lẻ cũng là một sự
trừu tượng hóa. Đặc biệt trong những năm gần đây và dự đoán trong nhiều năm
tới, các mô hình kinh tế lượng vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong
các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện tại.
Một quốc gia, có thể có những lực chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng
buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị xã hội. Song sự lựa
chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang
tính khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến
thức và công cụ phân tích kinh tế đó. Ngày nay, những kiến thức và công cụ
phân tích này càng được hoàn thiện thêm để có thể mô tả chính xác hơn đời
sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
2
Phương pháp nghiên cứu:
Mỗi quốc gia có thể những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng buộc của
họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự lựa chọn
đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính
khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức
và công cụ phân tích kinh tế đó. Những kiến thức và công cụ phân tích này được
đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh
tế thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay, chúng càng được hoàn thiện thâm để
có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh
tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp, tức là
xem xét sự cân bằng đồng thời tất cả các thị trường hàng hóa và các nhân tố.
xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ của nền kinh tế,
từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng. Ngoài ra, kinh tế học vĩ
mô cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến như: tư duy trừu
tượng, phương pháp phân tích thống kê số lớn, mô hình hóa kinh tế, Đặc biệt
những năm gần đây và tương lai, các mô hình kinh tế lượng, kinh tế vĩ mô sẽ

chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
b. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học:
Kinh tế học vĩ mô là một trong những chủ đề quan trọng nhất đối với sinh
viên vì tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của sinh viên. Mức
việc làm và mức thất nghiệp chung sẽ quyết định khả năng tìm kiếm việc làm
sau của chúng ta sau khi tốt nghiệp, khả năng thay đổi công việc và khả năng
thăng tiến trong tương lai. Mức lạm phát sẽ ảnh hưởng đến lãi suất mà chúng ta
có thể nhận được từ khoản tiết kiệm của chúng ta trong tương lai.
Kinh tế vĩ mô sẽ giúp cung cấp cho chúng ta những nguyên lý cần thiết
để hiểu rõ tình hình kinh tế của đất nước, đánh giá các chính sách kinh tế mà
Chính phủ đang thực hiện và dự đoán các tác động của những chính sách đó tới
đời sống của chúng ta như thế nào?
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO,
trong đó tất cả hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển qua biên giới các quốc gia
Lần đầu tiên mọi người đều chơi theo một luật chơi chung “ Luật chơi của kinh
tế thị trường toàn cầu “ Đây là một thách thức rất lớn. Người thắng sẽ có lợi
nhuận ,thu nhập cao, thành đạt trong cuộc sống và kẻ thua cuộc sẽ tụt lại đằng
sau nhiều khi còn dẫn đến phá sản. Vì vậy , vị trí bộ môn kinh tế trong các
trường đại học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó trang bị cho sinh viên
những kiến thức cơ bản về kinh tế học, về kinh tế vi mô hay kinh tế vĩ mô. Nó
giúp cho sinh viên làm quen với các khái niệm kinh tế .
2.Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đên nay
Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đó bước vào thời kì xây dựng đất
nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, phải đến tháng 12 năm 1986, với Nghị
3
quyết Đại hội Đảng VI về thực hiện đường lối đổi mới kinh tế và chính sách mở,
nền kinh tế Việt Nam mới thực sự khởi sắc và bước đầu đạt được những thành
tựu kinh tế quan trọng. Sau hai mươi năm đổi mới, Việt Nam hiện đang sở hữu
một tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và liên tục, bền vững qua nhiều năm.

Chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện. Đất nước hiện có
quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, xây dựng mối quan hệ thương mại với hơn
150 nền kinh tế, có quan hệ đầu tư buôn bán sâu rộng với trên 30 nước và vùng
lãnh thổ… Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và ODA đổ vào Việt Nam trong
những năm qua với số lượng và chất lượng ngày càng lớn đã và đang tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp phần chuyển đổi
cơ cấu kinh tế Việt Nam ngày càng tập trung vào các ngành hàng có ưu thế trên
thương trường quốc tế. Cho đến nay đã có hơn 5000 dự án FDI với số vốn đăng
kí gần 100 tỷ USD được cấp giấy phép ở Việt Nam. Nhiều ngành công nghiệp
mới được phát triển nhanh chóng…
Trong hai thập niên qua, kể từ khi áp dụng những chính sách cải cách
kinh tế toàn diện với nội dung cốt lõi là tự do hoá, ổn định hoá, thay đổi thể chế,
chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa nền
kinh tế ra thế giới, Việt Nam đó đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về
tăng trưởng kinh tế. Từ chỗ hầu như không có tăng trưởng, thì ngay sau đổi mới,
trong giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi và phát triển, tuy
tốc độ chưa cao. Trong nửa đầu những năm 1990, nền kinh tế liên tục tăng tốc.
Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 (9,54%), tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam đó bị sút giảm và xuống mức đáy vào năm 1999 (1999:
4,77%), chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực.
Bắt đầu từ năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đó liên tục cao lên. Với
đà tăng trưởng bình quân hàng năm 7,3% như trong suốt giai đoạn từ năm 1990
đến nay, thì tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam sẽ gấp đôi sau khoảng 1
thập kỉ.
Hình 1: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2007
4
Năm 1986 1987
198
8
1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996

Tỉ lệ 2.8 3.6 6.49 4.9 5.1 5.8 8.7 8.1 8.8 9.54 9.3
Năm 1997 1998 199
9
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
2007
Tỉ lệ 8.2 5.8 4.8 6.8 6.9 7 7.3 7.7 7.5 8.2 8.5
Bảng 1: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2007
Ngay sau khi thực hiện Đổi mới, nước ta đó vấp phải một thách thức lớn: nền
kinh tế bị mất ổn định nghiêm trọng. Giá cả hàng hoá và dịch vụ bắt đầu tăng
tốc. Giai đoạn 1986 - 1988 là những năm lạm phát phi mó, tỉ lệ lạm phỏt tăng
lờn 3 con số (1986: 774,7%; 1987: 360,4%; 1988: 374,4%) với những hậu quả
khụn lường như: triệt tiờu động lực tiết kiệm và đầu tư, làm đình trệ sự phát
triển lực lượng sản xuất, thất nghiệp tăng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân
cư, đặc biệt là những người làm việc trong bộ máy nhà nước bị suy giảm nghiêm
trọng. Năm 1989, chương trỡnh ổn định mà nội dung chủ yếu là ỏp dụng chính
sách lãi suất thực dương, Việt Nam đó thành công trong việc chặn đứng sườn
lạm phát. Song, kết quả này đó không bền vững: lạm phát cao đó quay trở lại

trong hai năm sau đó và thâm hụt ngaan sách được duy trì ở mức thấp và đặc
biệt đó không tài trợ bằng phát hành tiền; việc cải cách kinh tế và chủ động hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đó đưa đến những thành cũng đáng
khích lệ: lạm phát được kiểm soát và kinh tế tăng trưởng cao. Tuy nhiên từ năm
1999, nước ta phải đối mặt với một thách thức mới: lạm phát quá thấp đi cùng
với đà tăng trưởng kinh tế chậm lại. Với chủ trương kích cầu kịp thời, nền kinh
tế nước ta dần dần khởi sắc với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Bước
sang năm 2004, lạm phát đột ngột tăng tốc trở thành mối quan tâm chung cho sự
phát triển kinh tế ở nước ta: chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,5%. Đây là mức tăng giá
cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỉ lệ lạm phát
vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra là 5%. Điều này hoàn toàn nằm ngoài dự kiến
của các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế và của mọi người dân.
5
Hình 2: Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Việt Nam, 1986 - 2007.

m
1986 1987 1988 198
9
199
0
199
1
199
2
199
3
199
4
199
5

1996
Tỉ lệ 774.
7
360.
4
374.
4
95.8 36 81.8 37.7 8.4 9.5 16.9 5.7
Năm 1997 1998 199
9
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
2007
Tỉ lệ 3.2 7.7 4.2 -1.7 -4 4 3.2 7.7 8 7 12.6
Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Việt Nam, 1986 - 2007
Đứng trước tình hình trên, Đảng, Nhà nước đó sớm đề ra mục tiêu kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng bền vững. Ngân
hàng Nhà nước đó đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ. Tăng dự trữ bắt buộc

từ 5 lờn 10% và sau đó đưa tiếp lên 11%. Khống chế tỷ lệ cho vay đầu tư chứng
khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, sau đó sửa thành 20% vốn điều
lệ theo hướng thắt chặt hơn. Khống chế tốc độ tăng dư nợ tín dụng cả năm
không vượt quá 30%. Sớm có biện pháp để đập tắt cơn sốt giỏ USD trờn thị
trường tự do; đưa biên độ giao dịch mua bán USD từ ± 1% lên ±2% Đặc biệt
đó hai lần đưa lãi suất cơ bản từ 8,75% lên 12% và từ 12% lên 14% Đẩy mạnh
xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu… Kết quả, tốc độ tăng giá tiêu dùng đó cóxu
hướng giảm trong vài tháng nay, tính bình quân hai tháng qua chỉ còn tăng
1,36%/tháng, thấp hơn lãi suất huy động tính theo kì hạn năm nay. Tính thanh
khoản của ngân hàng thương mại được cải thiện. Mặt bằng lãi suất có xu hướng
giảm để tạo điều kiện cho sản xuất, xuất khẩu. Nhập siêu giảm dần ở mức 1 tỷ
USD từ tháng 6; cán cân thanh toán tổng thể được đảm bảo. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng mạnh cả về vốn đăng kí và vốn thực…
6
3.Giới thiệu về FDI, nêu rõ vai trò và tầm quan trọng của FDI đối với nền
kinh tế Việt Nam.
a.Giới thiệu về FDI
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư
với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu
tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc
quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một
doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực
tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở phần, thu nhập
tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người
sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó

là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để
có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm
soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp
thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên
doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư
cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường
hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực
hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG nào đều sử
dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ
sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn
được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng
vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là
việc nhà đầu tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào
quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực
thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy
phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm
quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…).
Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
7
Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế
và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng

vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
Đầu tư nước ngoài mang đầy đủ những đặc trưng của đầu tư nói chung.
Tuy nhiên, nó có thêm một số đặc điểm quan trọng khác so với đầu tư nội địa:
- Chủ đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến các
khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán, Nói chung,
đây là các yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ đầu tư ở
nước ngoài.
- Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên
quan chủ yếu đến các khía cạnh về chính sách, pháp luật, hải quan và cước phí
vận chuyển.
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một
hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn
bổ xung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của
các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp, việc buôn bán
hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết
định đầu tư. Đến lượt mình, việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở
tại lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư nguyên liệu và khai thác tài
nguyên của nước chủ nhà.
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài
ngày càng phát triển mạnh mẽ hợp thành những dòng chính trong trào lưu có
tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu. Sự phát triển của đầu tư quốc tế gắn
liền với quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các quốc gia và sự phát triển của xu
hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Nhu cầu về vốn của các nước đang phát triển
và sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn làm cho
đầu tư nước ngoài diễn ra với quy mô ngày càng lớn, đa dạng và rộng khắp.
b.Tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế
*Vị trí:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng. Nó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và toàn diện hơn.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm

quản lý cho nước nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu
rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết và
quan trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới.
*ý nghĩa:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền
kinh tế của một nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra
công ăn việc làm cho người lao động.
8
* Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn
cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và
nước xuất khẩu đầu tư, thúc đẩy các nước này gia tăng liên kết, nhằm duy trì
nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nước mình. FDI có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. FDI đã đem lại một
hơi thở mới cho nền kinh tế thế giới, mở cửa cho sự toàn cầu hóa lan rộng khắp
thế giới.
-FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích
lũy nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ
thuật thế giới phát triển mạnh.
-Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã
chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận
đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại, những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội
ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt ( trình độ kỹ thuật, phương
pháp làm việc, kỷ luật lao động )

-Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy
tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có
hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
-Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không
chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách
nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp
tác với nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư cso điều kiện thâm nhập vào thị
trường thế giới. Như vậy, các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài
chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiện, bên cạnh những ưu điểm, FDI cũng có những hạn chế nhất
định. Đó là nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì
nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy
hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu
quả, tham nhũng, tài nguyên thiên nhiên bị khi thác quá mức và nạn ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng.
Chương 2: Đánh giá vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2004-2010
1. Tìm hiểu và phân tích số liệu về FDI, nêu rõ lợi ích của FDI đối với
nền kinh tế nước ta
a. Phân tích số liệu về FDI của Việt Nam giai đoạn 2004-2010
9
Năm 2004 được xem là năm thành công nhất của Việt Nam trong việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài trong 7 năm qua. Số dự án và vốn đầu tư tăng đáng
kể so với năm 2003 cũng như những năm trước đó. Những kết quả đạt được rất
đáng khích lệ và tạo ra những kỷ lục mà Việt Nam chưa từng đạt được trong
vòng 7 năm. Tổng vốn đầu tư cấp phép đạt trên 4 tỷ USD, nếu nói chính xác thì
4,1-4,2 tỷ USD. So với năm 2003, mức tăng trưởng về vốn mới năm 2004 đạt
35%. Đây là kỷ lục thứ nhất. Kỷ lục thứ hai chính là vốn thực hiện, số vốn này
đạt 2,85-2,9 tỷ USD so với năm 2003 là 2,6 tỷ. Điều này cho thấy niềm tin của

nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư Việt Nam và từ niềm tin đó họ
nhanh chóng triển khai những gì họ đã đăng ký, tức cam kết.
Năm 2005, Thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam cả năm sẽ đạt trên 5,8
tỷ USD vốn đăng ký, tăng 25% so với năm 2004 và cao hơn nhiều so với mục
tiêu ban đầu đề ra là 4,5 tỷ USD.
Đây là số liệu chính thức được Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Bích
Đạt thông báo tại Hội nghị giao ban về đầu tư nước ngoài diễn ra hôm
20/12/2005.
Cũng theo Bộ kế hoạch và đầu tư, trong năm 2005, các dự án FDI góp khoảng
3,3 tỷ USD vốn thực hiện để xây dựng nhà xưởng và sản xuất kinh doanh, với
khoảng 120 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2005.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt doanh thu khoảng 21 tỷ USD (trừ
dầu thô), trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 10,3 tỷ USD, tăng 26,6% so với năm
2004; nộp ngân sách Nhà nước đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước
và chiếm 12% tổng thu ngân sách của cả nước.
Trong năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 10,2 tỷ USD vốn đăng ký
mới, tăng 57% so với năm trước và đạt mức cao nhất từ khi ban hành Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến nay, vượt mức kỷ lục đã đạt được vào
năm 1996 là 8,6 tỷ USD. Trong tổng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đăng ký
năm 2006 có gần 8 tỷ USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2 tỷ
USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Như vậy, cả vốn đăng ký của các dự án mới và vốn đầu tư mở rộng sản xuất đều
tăng mạnh so với năm 2005, trong đó vốn đăng ký của các dự án mới tăng tới
77%. Cùng với việc gia tăng vốn đăng ký, vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng
đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Tiến độ giải ngân vốn ĐTNN trong
năm 2006 được đẩy nhanh, nhất là đối với các dự án tăng vốn đầu tư mở rộng
sản xuất. Tổng vốn ĐTNN thực hiện trong cả năm ước đạt trên 4,1 tỷ USD, tăng
24,2% so với năm 2005.
Hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã đánh dấu sự tăng trưởng
đột biến của dòng vốn đầu tư nước ngoài FDI cũng như sự gia tăng đóng góp

của khu vực kinh tế có vốn FDI vào phát triển kinh tế đất nước. Vốn FDI đăng
ký mới năm 2008, đạt 64 tỷ USD, lớn gấp 5 lần kết quả năm 2006 và 3 lần năm
10
2007. Tính riêng trong 2 năm 2007-2008, tổng vốn FDI đăng lý mới đạt 85 tỷ
USD, gấp hơn 2 lần tổng vốn FDI đăng ký của 19 năm trước cộng lại. Theo đó,
ngoài các dự án đã hết hạn hoặc giải thể trước hạn, tại Việt Nam đã có hơn
10.500 dự án FDI được cấp phép với tổng vốn trên 155 tỷ USD tự các nhà đầu
tư từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào việt Nam. Bước vào năm
2008, những diễn biến không thuận của tình hình kinh tế thế giới và những khó
khăn trong nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến khả năng phát
triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn thu hút được lượng lớn
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng số dự án FDI được cấp mới
vào Việt Nam cả năm 2008 là 1.171 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 60,217 tỷ
USD, tăng 222% so với năm 2007. Số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án
đăng ký tăng thêm 3,74 tỷ USD. Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn
đăng ký tăng thêm, tổng số vốn FDI năm 2008 lµ trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so
với năm 2007, và vốn giải ngân cũng đạt mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay
(11,5 tỷ USD) đã chứng tỏ sức hấp dẫn của Việt Nam với các nhà đầu tư trong
bối cảnh khó khăn của nền kinh tế do ảnh hưởng của cơn bão tài chính thế giới.
Vốn FDI thực hiện năm 2008, cũng đạt con số kỷ lục 11,5 tỷ USD, tăng
43% so với năm 2007 và gấp 2,8 lần so với năm 2006. Sự gia tăng của các dự án
mới cũng như vèn đăng ký và vèn giải ngân đã làm tăng quy mô của khu vực
kinh tế có vốn FDI. Hiện đã có trên 4.000 DN có vốn FDI đi vào hoạt động,
đóng góp hơn 40,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Năm 2008,
khu vực FDI đóng góp phần quan trọng vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP
của cả nước ở mức trên 6,25%.Luồng vốn FDI thu hút kỷ lục trong năm 2008 đã
chứng tỏ, ngay trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức tạp, không thuận, cả ở
bên ngoài và bên trong nền kinh tế, Việt Nam vẫn tiếp tục là điểm đến hứa hẹn
của FDI. Năm 2009, suy thoái kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh
tế nước ta, và tác động đến các nhà đầu tư. Dự báo, thu hút FDI sẽ là 30 tỷ USD.

Năm 2010, Đầu tư nước ngoài giải ngân từ tháng một-Tháng Chín đạt
hơn 8 tỷ USD, tăng 4,8 phần trăm so với cùng kỳ năm 2009 .Cơ quan Đầu tư
nước ngoàinói rằng: Chín tháng đầu năm nay Việt Nam đã nhìn thấy thành công
thu hút 12190000000$ Mỹ giá trị của đầu tư trực tiếp nước ngoài và cấp phép
720 dự án mới lên tới 11400000000 USD. Nhà chức trách đang làm việc hướng
tới một mục tiêu FDI từ 22 tỷ USD đến 25 tỷ USD vào cuối năm nay.
b. lợi ích của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
-FDI bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm
khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%
(Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm
11
2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%,
ước năm 2007 đạt trên 16%).

Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi
năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng
2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-
2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%,
dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng
gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5%
(nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%;
(iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng
10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng
3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.


-FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng
bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các
ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công
trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công
trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và
đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công
nghiệp phục vụ xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH),
tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua
các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm
2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5
năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ
thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và
2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc ) tỷ lệ
này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều
ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm
công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33%
hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản
lượng sợi, 25% hàng may mặc.
12

ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại,
đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.

- FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm
dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy
Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án
sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu
hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến,
được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.

- Tác động lan tỏa của FDI đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các
doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động
lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và
năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan
tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo
hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh
nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước
nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.


-FDI đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam,
mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng.
Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp
ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005,
thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình
quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã
nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời
kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu

13
-FDI góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao
hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực
ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước,
chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003
chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm
trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí,
84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may
mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn
cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng

đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất
khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước
hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
2. Thống kê số liệu về FDI từ năm 1987 đến nay, lập bảng và vẽ biểu đồ
về sự thay đổi của FDI
Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ.
Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ.Tuy
nhiên con số dăng kí đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng
vốn đăng ký lên đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều
nguyên nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền
kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa
được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi
hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng lao động dồi dào, giá nhân
công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao.
Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp
vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy dồn về các thị trường
mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90. Trong các thị trường này,
Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á
thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn
nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà
họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các
nước mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu
xuất khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á,
Việt Nam có được lợi thế từ các yếu tố này[1].
14
Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò quan trọng
trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã
có những đóng góp cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc

của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm
1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam đều từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực
sự tại quốc gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình,
các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước
ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu
mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của
các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn
đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước
ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi phồng.
Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn.
Trong 5 năm 2001 – 2005 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng
15,5% GDP. Giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu
thô) cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm trong năm 2001 – 2005 đạt trên 34
tỷ USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả
dầu thô tỷ lệ này là 56%. Riêng năm 2006, xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD tăng
30,1% so với năm trước.
FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm.
Hiện nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh,
máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, … . FDI cũng chiếm 60% sản lượng
thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế.
FDI cũng đã giúp Việt Nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường
quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của Việt nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng
kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam, cụ thể là 42% công
nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh
kiện.
Đóng góp của FDI cho Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 - 2005
là khoảng 3,67 tỷ đô-la Mỹ, với mức tăng nộp ngân sách năm sau cao hơn năm
trước, năm 2006 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 36,3% so với năm 2005.
Bình quân trong thời kỳ 2001 – 2006 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

đã tạo việc làm thêm cho khoảng 11 vạn việc làm mỗi năm đưa tổng số lao động
trực tiếp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tính đến cuối năm 2006
lên 1, 13 triệu người. Ngoài ra khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo
ra khoảng vài triệu lao động gián tiếp trong 6 năm qua.
15
Vốn Đầu tư nước ngoài (FDI) từ 1986- 2009
Biểu đồ thể hiện sự thay đổi của FDI qua các năm

Số dự án
Vốn đăng ký
(Triệu đô la
Mỹ)
(*)
Tổng số vốn
thực hiện
(Triệu đô la
Mỹ)
Tổng số 12575 194429.5 66945.5
1988 37 341.7
1989 67 525.5
1990 107 735.0
1991 152 1291.5 328.8
1992 196 2208.5 574.9
1993 274 3037.4 1017.5
1994 372 4188.4 2040.6
1995 415 6937.2 2556.0
1996 372 10164.1 2714.0
1997 349 5590.7 3115.0
1998 285 5099.9 2367.4
1999 327 2565.4 2334.9

2000 391 2838.9 2413.5
2001 555 3142.8 2450.5
2002 808 2998.8 2591.0
2003 791 3191.2 2650.0
2004 811 4547.6 2852.5
2005 970 6839.8 3308.8
2006 987 12004.0 4100.1
2007 1544 21347.8 8030.0
2008 1557 71726.0 11500.0
Sơ bộ 2009 1208 23107.3 10000.0
16
Phân theo hình thức đầu tư
(Tính từ ngày 22/10/2008-chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
§VT: %
Hình thức đầu tư Số dự án TVĐT Vốn điều lệ
100% vốn nước ngoài 77.60 57.55 59.43
Liên doanh 18.42 35.42 29.23
Hợp đồng hợp tác kinh doanh 2.33 3.17 8.06
Ct cổ phần 1.55 2.60 2.22
Hợp đồng BOT,BT,BTO 0.09 1.18 0.89
Công ty mẹ-con 0.01 0.08 0.17
Tổng số 100.00 100.00 100.00
Bảng 2. Cơ cấu FDI vào Việt Nam từ năm 1988- 2008 phân theo ngành
(tính từ ngày 22/10/2008-chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn điều lệ
I Công nghiệp 6340 84.846.166.474 29.516.774.539
CN dầu khí 47 14.475.341.815 4.656.341.815
CN nhẹ 2814 15.564.350.806 6.834.306.739
Cn nặng 2592 44.436.809.740 14.094.426.566
CN thực phẩm 345 4.142.811.871 1.854.296.924

Xây dựng 542 6.226.852.242 2.077.402.495
II Nông-lâm-ngư nghiệp 967 4.704.278.569 2.242.523.787
Nông –lâm nghiệp 832 4.243.278.540 1.983.938.567
Thủy sản 135 461.00.029 258.585.220
III Dịch vụ 2366 54.869.655.398 19.520.757.540
GTVT- Bưu điện 230 6.248.618.683 3.470.979.206
Khách sạn, du lịch 249 14.928.330.335 4.388.904.460
17
Tài chính-ngân hàng 68 1.032.777.080 991.354.447
Văn hóa,y tế, giáo dục 290 1.744.125.133 636.350.024
XD khu đô thị mới 12 8.096.930.438 2.818.213.939
XD văn phòng,căn hộ 178 18.034.782.066 5.395.764.982
XD KCX-KCN 36 1.754.096.067 558.735.597
Dịch vụ khác 1303 3.029.995.596 1.260.454.885
Tổng số 9673 144.420.100.441 51.280.055.866

3. Thống kê đầy đủ các nước đầu tư vào nước ta và phân tích số liệu
Tính đến cuối năm 2006, các nhà đầu tư nước ngoài từ hơn 70 quốc gia và
lục địa đã đầu tư vào Việt nam. Châu Á chiếm 60,8%, châu Âu chiếm 23%,
châu Mỹ chiếm 7%. Năm nước đầu tư lớn nhất đều là các nước châu Á – bao
gồm Xin-ga-po, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông và Hàn Quốc - chiếm hơn
59% tổng vốn đăng ký. Mười nhà đầu tư lớn nhất chiếm 80% tổng vốn đầu tư
vào Việt Nam.
Năm 1996, khi đầu tư đang hưng thịnh, các nhà đầu tư chính là Xin-ga-
po, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia này chiếm
tương ứng 32,5%, 14,3%, 9,6%, 9,5% và 7.7% trong tổng số 8,6 tỷ đô-la Mỹ
dòng FDI vào năm đó. Đáng lưu ý là trong nửa thập niên 90, rất nhiều công ty
đa quốc gia, cụ thể là các công ty của Mỹ, đã đầu tư vào Việt nam thông qua các
công ty con ở Xin-ga-po và Hồng Kông do có kênh cấm vận của Mỹ. Các con số
thống kê không phản ánh gốc rễ của nguồn vốn đầu tư.

Trong thời kỳ khủng hoảng châu Á, dòng đầu tư từ các nước Đông và
Nam Á, nhất là Xin-ga-po giảm mạnh. Đầu tư từ châu Âu và Nam Mỹ trong
tổng dòng FDI vào thể hiện một mô hình tăng trưởng. Cụ thể là Mỹ chuyển lên
vị trí thứ 4 năm 2002 nhưng vẫn đứng thứ 11 về vốn FDI. Mặc dù đây là một kết
quả đầy hứa hẹn, nó vẫn chưa đạt mức như mong đợi. Sau khi Hiệp định
Thương mại Việt-Mỹ được thông qua, các chính trị gia, các nhà kinh tế đã hy
vọng hoặc tiên đoán về một luồng FDI đáng kể từ các công ty Mỹ. Tuy nhiên,
điều đó vẫn chưa xảy ra.
Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách tự do đối với đầu tư nước ngoài
như việc luật doanh nghiệp mới đã xoá bỏ rào chắn đối với đầu tư tư nhân trong
nước, sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, và mở thị trường chứng khoán. Thêm vào
đó, Việt nam cam kết giảm thuế quan xuống dưới 5% cho hàng nhập khẩu từ các
nước châu Á theo AFTA, và tăng tiến trình đổi mới để chuẩn bị trở thành thành
viên của WTO.
Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ
18
USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Cayman Islands đứng thứ 2
với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%, đứng thứ 3 là Samoa với tổng
vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD
vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Trong 9 tháng đầu 2010, có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại
Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hà Lan với tổng vốn đầu tư đăng
ký là 2,2tỷ USD chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng
thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2 tỷ USD, chiếm 17% tổng vốn đầu tư tại
Việt Nam; Hoa Kỳ đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký là 1,87 tỷ USD, chiếm
15,3% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam
Thống kê các nước đầu tư vào Việt Nam 1988 – 2008
Số dự án
Vốn đăng ký

(Triệu đô la
Mỹ)
(*)

Tổng số 12575 194429,5
Trong đó:
Hàn Quốc 2560 26880,4
Đài Loan 2260 22618,8
Ma-lai-xi-a 395 17202,3
Nhật Bản 1247 17149,6
Xin-ga-po 870 16345,7
Hoa Kỳ 589 15403,1
Quần đảo Vigin thuộc Anh 495 15261,4
Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ)
740 8540
Quần đảo Cay men 44 6758,4
Thái Lan 284 6198,4
Ca-na-đa 120 4932
Bru-nây 95 4638,3
Pháp 347 3895,4
Hà Lan 144 3399,7
Xa-moa 80 3394,4
CHND Trung Hoa 810 2930,3
Vương quốc Anh 146 2782,5
Liên bang Nga 117 2321,7
Síp 6 2211,6
Ôx-trây-li-a 276 2070
Thụy Sỹ 85 1745,7
Lúc-xăm-bua 20 1017,2
CHLB Đức 157 904,3

Pa-na-ma 13 688,4
19
Tây Ấn thuộc AnhIndies 7 511,5
Bơ-mu-đa 9 442,6
Phi-li-pin 57 432,7
Thụy Điển 26 414,7
Ba-ha-ma 6 351,8
Đan Mạch 85 336,2
In-đô-nê-xi-a 31 327,8
I-ta-li-a 50 233,8
Ma-ri-ti-us 31 218,3
Ấn Độ 44 199,3
Quần đảo Cúc 3 141,9
Quần đảo Cha-nen 16 117,2
Tiểu VQ A-rập Thống nhất 1 112
Ba Lan 10 107,6
Niu-di-lân 26 93
Bỉ 38 87,3
Na Uy 25 86,3

4.Thống kê đầy đủ các ngành chủ yếu được đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú
trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các
lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục
các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm
90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi,
khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản
xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.

Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã
bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu
cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua
các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có
thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến
khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ
khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử
Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam
có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN
thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản
phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng
dệt may ) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất
20
khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động
trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự
có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon,
Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ
100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó
có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm
66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.

STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư(USD) Vốn thựchiện (USD)
1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303
2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314
3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865
4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260
5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027

Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769

b.TNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài
(1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh
doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất
khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO,
Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực
tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động
sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh
doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ),
du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).

TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã thực
hiện
(triệu USD)
1 Giao thông vận tải-Bưu
điện ( bao gồm cả dịch
vụ logicstics)
208 4.287 721
21
2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401
3 Xây dựng văn phòng,

căn hộ để bán và cho
thuê
153 9.262 1.892
4 Phát triển khu đô thị
mới
9 3.477 283
5 Kinh doanh hạ tầng
KCN-KCX
28 1.406 576
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo
dục
271 1.248 367
8 Dịch vụ khác (giám
định, tư vấn, trợ giúp
pháp lý, nghiên cứu thị
trường )
954 2.145 445
Tổng cộng 1.912 28.609 7.399

Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực
dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm
2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản,
xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.
c. ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã
được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay
do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực
này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như

mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn
hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD;
chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện,
(giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản,
thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong
đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát
bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm
24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến
thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9%
tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hồng Kông, ) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông
22
nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng
kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước
có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa
thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng
bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu
vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông
Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
STT Nông –lâm-
ngư nghiệp
Số dự án Vốn dăng kí
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)

1 Nông –lâm
nghiệp
803 4,014,833,499 1,856,710,521
2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132
Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653
5. cơ hội thu hút FDI khi gia nhập WTO
Việc trở thành thành viên của WTO đặt Việt Nam trước những vận hội và
thách thức mới , nhiều mặt đan xen với nhau. Tình hình này đòi hỏi phải nhận
diện rõ cơ hội và thách thức, chuyển hóa thách thức thành có hội và biến cơ hội
thành lợi ích phát triển. Một số cơ hội thu hút FDI khi Việt Nẩm nhập WTO:
* Tham gia sâu hơn vào phân công lao động quốc tế nhờ đó phát huy
được các lợi thế so sánh trong thu hút FDI
Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các dòng vốn FDI di chuyển
đến những nơi đầu tư có hiệu quả. Như vậy, các nước nếu biết khai thác tốt các
lợi thế so sánh của đất nước mình sẽ có thể tăng cường thu hút vốn FDI phục vụ
cho quá trình phát triển đất nước. So với những nước đang phát triển trên thế
giới Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh trong thu hút FDI, cụ thể là:
+Ổn định cao về chính trị, xã hội: Nhận thức được vai trò quan trọng của
việc ổn định chính trị, xã hội đối với sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và sự phát
triển của đất nước nói chung, trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã chủ trương từng bước cải cách chính trị, làm trong sạch đội ngũ Đảng,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Sự ổn định về chính trị và xã hội của Việt Nam
được thế giới đánh giá cao, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình chính trị, xã hội
ở nhiều khu vực trên thế giới đang bất ổn vì nạn khủng bố, vì chiến tranh
+Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục: Trong giai đoạn 1990-
1995, GDP của Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ năm sau cao hơn năm
23
trước và tốc độ tăng GDP đạt đỉnh cao năm 1995. Sau đó tốc độ tăng GDP có
giảm nhưng vẫn ở mức cao trong hai năm 1996, 1997. Năm 1998- 1999, do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, GDP không đạt được tốc độ

tăng trưởng cao như những năm trước. Tính riêng trong 10 năm từ 1991 đến
2000, GDP đã tăng gấp 2,07 lần. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ mức không đáng
kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ năm 2000 đến năm 2003, tốc độ tăng
GDP đã hồi phục. WB và ADB đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam năm 2003 cao nhất Đông Nam Á, thứ nhì châu Á (sau Trung Quốc).
+Đạt được nhiều thành tựu đối ngoại: Từ chỗ bị bao vây, cấm vận trong
bối cảnh khủng hoảng đầy khó khăn của CNXH, Việt Nam đã mở rộng quan hệ
với các nước trên khắp năm châu. Hiện Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 165
nước và có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và lãnh thổ. Quan hệ giữa Việt
Nam và các nước láng giềng ngày càng thêm gắn bó, quan hệ Việt Nam – EU
được thắt chặt, Việt Nam đã nối lại quan hệ với Nga, gia nhập ASEAN, trở
thành thành viên APEC, ASEM và WTO.
+Nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động: Châu Á - Thái Bình
Dương là khu vực tuy đang gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn được đánh giá là khu
vực phát triển năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển kinh tế cao hơn các
khu vực khác. Nhiều nước trong khu vực đã phục hồi sau khủng hoảng tài chính
– tiền tệ và vượt qua được những ảnh hưởng xấu của sự kiện 11 tháng 9 năm
2001 ở Mỹ. Các TNC của Mỹ và EU vẫn duy trì ý định tiếp tục đầu tư vào khu
vực này.
+Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ : Việt Nam có số người trong độ tuổi lao
động khá đông, con số này của năm 2004 là hơn 43 triệu người. Nguồn nhân lực
của Việt Nam được đánh giá là trẻ, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Lương công
nhân và kỹ sư Việt Nam có lợi thế so sánh hơn hẳn so với các nước trong khu
vực (chỉ bằng 60-70% của Thái Lan và Trung Quốc; bằng 18% của Singapore
và bằng 3-5% của Nhật Bản.
+Có lợi thế về một số loại chi phí đầu tư: Ở Việt Nam, tuy chi phí thuê
đất của các dự án FDI cao hơn nhiều so với các dự án trong nước, nhưng Việt
Nam vẫn có lợi thế cạnh tranh về chi phí thuê đất so với các nước trong khu vực.
Chi phí viễn thông ở Việt Nam cũng đã thấp hơn mức trung bình của các nước
trong khu vực. Giá nước cho kinh doanh và sử dụng thông thường của Việt Nam

cũng thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
* Động lực để tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách về FDI
Một số nhà đầu tư nước ngoài có nêu ra những nhân tố không thuận lợi cho
FDI vào Việt Nam là tệ quan liêu, luật pháp, chính sách còn có các quy định
không rõ ràng hay thay đổi, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật chưa cao.
Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán
thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Gia nhập WTO chúng ta phải có
các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định của WTO. Vì vậy,
chúng ta có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật và pháp lệnh. Trong toàn bộ
24
các luật và pháp lệnh mà chúng ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới là 25
luật và pháp lệnh, chúng ta đã làm xong. Vậy, khi trở thành thành viên của
WTO, Việt Nam là nước có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh.
Để đổi mới kinh tế, cải cách hành chính,Việt Nam phải xây mới và sửa
đổi 100 luật. Hoạt động trên sẽ giúp Việt Nam ngày càng hoàn thiện môi trường
pháp lý và chính sách FDI. Từ đó góp phần củng cố và nâng cao lòng tin của các
nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường FDI tại Việt Nam, mở ra cơ hội mới
để Việt Nam thu hút FDI với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước trên
thế giới ngày càng trở nên gay gắt và môi trường FDI tại Việt Nam còn một số
hạn chế.
* Động lực mạnh mẽ của phát triển nguồn nhân lực
Tham gia WTO tạo điều kiện thuận lợi hơn cho di chuyển vốn và công nghệ vào
nước ta, do đó thu hút vốn đầu tư tăng lên, tạo ra khả năng phát triển nhanh các
khu công nghiệp, các doanh nghiệp FDI. Vốn trong khu vực FDI tăng lên, sản
xuất kinh doanh khu vực này sẽ mở rộng, trở thành khu vực thu hút nhiều lao
động chuyên môn, kỹ thuật trên thị trường lao động. Vì vậy, tham gia WTO có
tác động thúc đẩy phát triển thị trường đào tạo, dạy nghề và dịch vụ cung ứng
lao động chuyên môn, đáp ứng cầu lao động kỹ năng ngày càng tăng của khu
vực FDI.

Trở thành thành viên của WTO tạo ra khả năng di chuyển dễ dàng hơn
của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, do đó có tác động thúc
đẩy phát triển xuất khẩu lao động. Đặc biệt là nước ta có cơ hội hơn trong mở
rộng thị trường xuất khẩu lao động kỹ thuật sang các nước thành viên WTO
như: Mỹ, Canada, các nước châu Âu Xuất khẩu lao động chuyên môn, kỹ
thuật sẽ có tác động tích cực đối với kích thích đào tạo nhân lực trên thị trường
lao động, các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn lao động của thị trường lao động
của các nước phát triển, là động lực mạnh mẽ của phát triển nguồn nhân lực
nước ta.
Gia nhập vào WTO đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao
năng lực cạnh tranh và giá cả hàng hoá và dịch vụ cả ở thị trường trong và ngoài
nước. Do đó, các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp để giảm chi phí sản
xuất và nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ. Để giảm chi phí sản xuất doanh
nghiệp buộc phải xúc tiến đồng bộ nhiều biện pháp như: đầu tư máy móc thiết bị
có năng suất cao, hoàn thiện tổ chức sản xuất, quản lý và tổ chức lao động, sử
dụng nguyên vật liệu mới Ngoài ra, chi phí lao động với tư cách là một loại
chi phí đầu vào, có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hàng hoá và
dịch vụ, do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư vào nguồn nhân lực để nâng
cao chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu mới.
Tham gia WTO có vai trò quan trọng trong thúc đẩy đào tao và sự nỗ lực
vươn lên của giới doanh nhân vì họ là người trực tiếp chỉ huy, đàm phán và
quyết định xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, là người trực tiếp kinh doanh với các
25

×