Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phải bổ sung kẽm trong điều trị tiêu chảy doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.27 KB, 6 trang )

Phải bổ sung kẽm trong
điều trị tiêu chảy


Kẽm đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch cho trẻ


Kẽm có tác dụng phục hồi biểu mô ruột, giảm độ
nặng của tình trạng tiêu chảy. Vì thế điều trị tiêu
chảy phải bổ sung kẽm. Ngoài ra, trẻ bị tiêu chảy
nên bổ sung oresol có độ thẩm thấu thấp sẽ hiệu
quả hơn dùng oresol trước đây.

Đó là khuyến cáo mới nhất trong hướng dẫn về xử trí
tiêu chảy ở trẻ em mà Bộ Y tế vừa ban hành, công bố
rộng rãi ở tất cả các tuyến bệnh viện để hướng dẫn
bác sĩ thực hiện theo những điểm mới này, giúp
người bệnh tiêu chảy nhanh hồi phục hơn.


Theo Bộ Y tế, kẽm là một vi chất rất quan trọng cho
sức khoẻ và sự phát triển của trẻ em. Kẽm cũng có
vai trò rất quan trọng cho hệ thống miễn dịch của trẻ.
Hơn nữa, nó có tác dụng tốt trong việc hồi phục biểu
mô ruột, vì thế, việc bổ sung kẽm trong tiêu chảy ở trẻ
em là rất cần thiết. Các nghiên cứu đều đã chứng
minh, khi bệnh nhân bị tiêu chảy mà được bổ sung
kẽm sẽ làm giảm thời gian tiêu chảy, giảm số lượng
phân, giảm mức độ nặng và giảm thời gian mắc bệnh
so với những người bị tiêu chảy mà không dùng kẽm.
Chưa kể, việc dùng kẽm trong dự phòng, bổ sung đủ


kẽm cũng làm giảm tỷ lệ tiêu chảy. Vì thế, việc điều trị
tiêu chảy cho người bệnh sẽ bắt buộc phải bổ sung
kẽm.

Điểm mới thứ hai trong hướng dẫn này, đó là cần cho
bệnh nhân sử dụng oresol có độ thẩm thấu thấp sẽ
hiệu quả hơn so với oresol cũ trước đây. Dung dịch
oresol (mới) có nồng độ natrichlorid 2,6g/l; glucose
13,5g/l và có tổng độ thẩm thấu (245mOsm/l), trong
khi đó dung dịch oresol (cũ) có nồng độ natrichlorid
3,5g/l; glucose (20g/l) và tổng độ thẩm thấu
(311mOsm/l). Do oresol mới có nồng độ thẩm thấu
thấp sẽ làm giảm số lần đi ngoài, giảm số lượng phân
và giảm được tình trạng nôn. Còn oresol cũ trước đây
có độ thẩm thấu cao so với huyết tương nên có thể
gây tăng natri máu, đồng thời gia tăng khối lượng
phân thải ra, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.



Đặc biệt, Bộ Y tế khuyến cáo để phòng tiêu chảy trẻ
em, trẻ nên được uống vắc xin Rotavirus theo đúng
độ tuổi hướng dẫn. Vì Rotavirus là tác nhân gây tiêu
chảy cấp nặng thường gặp nhất và là nguyên nhân
hàng đầu gây tiêu chảy cấp nhập viện ở trẻ nhỏ trên
thế giới cũng như tại Việt Nam. Các bà mẹ có con
dưới 6 tháng tuổi nên đưa trẻ đi uống vắc xin để ngăn
ngừa trẻ khỏi sự tấn công của Rotavirus. Phác đồ
chủng ngừa bao gồm 2 liều vắc xin uống, sử dụng
cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 6 tháng tuổi, khoảng cách

tối thiểu giữa 2 liều vắc xin là 1 tháng.

Sụt giảm gần 25% tỉ lệ sử dụng muối iốt

Năm 2005 tỉ lệ phủ muối iốt toàn quốc đạt hơn 93%
nhưng đến năm 2008-2009 chỉ còn 69,5%. Đặc biệt
tại Hà Nội tỷ lệ sử này giảm xuống còn 25%.

Tình trạng thiếu i-ốt ở thai phụ cũng ở mức báo động.
Theo TS Nguyễn Văn Tiến, Giám đốc Bệnh viện Nội
tiết TƯ, thiếu hụt i-ốt ở người mẹ khi mang thai có thể
gây ảnh hưởng tới sự phát triển của thai nhi, dễ sinh
ra những đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ, thậm chí đần
độn hoặc mang khuyết tật. Vì thế, việc bổ sung iốt
cho trẻ em ngay từ khi mang thai trong bụng mẹ là
một tiền đề rất tốt cho việc phòng chống rối loạn thiếu
iốt cho trẻ em.

Đó là những con số đáng báo động được đưa ra tại lễ
mít tinh hưởng ứng “Ngày toàn dân mua và sử dụng
muối i-ốt” diễn ra ngày 1/11, do Bộ Y tế và Tổ chức
Liên hợp quốc tại VN đã tổ chức.

Theo TS.Lương Ngọc Khuê, Phó Cục trưởng Cục
khám chữa bệnh, chỉ sau 3 năm kết thúc dự án mục
tiêu quốc gia phòng chống biếu cổ (PCBC), tình hình
thiếu hụt i-ốt có xu hướng quay trở lại. Số người bị
bướu cổ và những ảnh hưởng của căn bệnh này
đang tăng mạnh mẽ, mà nguyên chính là Chương
trình phòng chống bướu cổ và việc sử dụng muối i-ốt

đang bị lãng quên ở nhiều địa phương.

Vì thế, hiện Bệnh viện Nội tiết đang phối hợp với các
cơ quan chức năng nghiên cứu đưa i-ốt vào nhiều
loại sản phẩm như : bột canh, nước mắm, nước
tương để người dân có thể sử dụng hàng ngày, giảm
tình trạng thiếu hụt i-ốt gây ảnh hưởng xấu tới sức
khoẻ, đặc biệt là nguy cơ để căn bệnh bướu cổ trở lại
và gia tăng mạnh.

×