Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Các thành phần của miễn dịch bẩm sinh (Kỳ 8) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.02 KB, 5 trang )

Các thành phần của miễn dịch
bẩm sinh
(Kỳ 8)

Các cytokine trong đáp ứng miễn dịch bẩm sinh có một số vai trò khác
nhau trong đề kháng của túc chủ. Như đã trình bầy ở phần trước của chương này,
TNF, IL-1 và các chemokine là các cytokine chính tham gia vào quá trình điều
động các bạch cầu trung tính và các tế bào mono đến các vị trí nhiễm trùng.
Với nồng động cao, TNF thúc đẩy quá trình tạo ra các cục máu đông gây
nghẽn mạch và giảm huyết áp do tác dụng phối hợp giữa giảm co bóp cơ tim và
giãn mạch.
Trong các trường hợp nhiễm vi khuẩn gram âm nặng và rải rác thì có thể
dẫn tới hội chứng sốc nhiễm khuẩn (septic shock) có thể gây tử vong. Đặc điểm
của hội chứng này là tụt huyết áp gây sốc, rối loạn đông máu rải rác nội mạch, và
rối loạn chuyển hoá.
Tất cả các biểu hiện lâm sàng và bệnh lý học của sốc nhiễm khuẩn đều là
hậu quả của tăng TNF do các đại thực bào chế tiết ra khi các LPS của vi khuẩn
bám vào các đại thực bào.
Khi đáp ứng với các LPS và nhiều loại vi sinh vật mà chúng ăn vào, các đại
thực bào còn chế tiết ra cả IL-12. IL-12 có tác dụng hoạt hoá tế bào NK và cuối
cùng lại cũng là hoạt hoá trở lại các đại thực bào như đã được trình bầy ở phần
trên.
Các tế bào NK chế tiết ra IFN-g có tác dụng như một cytokine hoạt hoá đại
thực bào cũng đã được trình bầy ở phần trên. Do các IFN-g còn được tạo ra bởi
các tế bào lympho T nên cytokine này được cho là có vai trò trong cả đáp ứng
miễn dịch bẩm sinh và đáp ứng miễn dịch thích ứng.
Trong nhiễm virus thì các đại thực bào và các tế bào khác bị nhiễm virus sẽ
sản sinh ra các cytokine thuộc nhóm các interferon (viết tắt là IFN) type I có tác
dụng ức chế không cho virus nhân lên và ngăn ngừa sự lan rộng của virus tới các
tế bào chưa bị nhiễm.
Một trong số các IFN type I là IFN-a đang được sử dụng trên lâm sàng để


điều trị các trường hợp viêm gan virus mạn tính.



Các protein huyết tương khác của miễn dịch bẩm sinh


Ngoài các protein của hệ thống bổ thể thì một số protein khác trong máu
cũng tham gia vào tạo nên sức đề kháng chống nhiễm trùng.
Các phân tử lectin gắn mannose (mannose-binding lectin – viết tắt là
MBL) :
Là một protein có khả năng nhận diện các carbohydrate của vi sinh vật và
có thể phủ lên các vi sinh vật ấy làm cho chúng dễ bị các tế bào làm nhiệm vụ thực
bào bắt giữ và ăn hoặc gây hoạt hoá bổ thể theo con đường lectin.
MBL là thành viên của họ các protein collectin là các protein có cấu trúc
tương tự như collagen và có chứa một lãnh vực gắn carbohydrate (lectin).
Các protein của hoạt dịch trong phổi cũng thuộc họ collectin và có tác dụng
tham gia bảo vệ đường hô hấp chống nhiễm trùng.
Protein phản ứng C (C-reactive protein – viết tắt là CRP) bám vào
phosphorylcholine trên các vi sinh vật và phủ lên các vi sinh vật để cho các đại
thực bào, là các tế bào có các thụ thể đặc hiệu, dễ tiếp cận các vi sinh vật và ăn
chúng.
Nồng độ các protein huyết tương này trong máu tăng lên nhanh chóng sau
khi có nhiễm trùng.
Đáp ứng bảo vệ này được gọi là đáp ứng pha cấp (acute phase response)
chống nhiễm trùng.
Các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh đối với các loại vi sinh vật khác nhau có
thể khác nhau và được điều chỉnh sao cho thích hợp nhất để loại bỏ các vi sinh vật
đó.
Các vi khuẩn ngoại bào và nấm thường bị ngăn chặn bởi các tế bào làm

nhiệm vụ thực bào và hệ thông bổ thể hoặc bởi các protein của pha cấp
Đề kháng chống các vi khuẩn nội bào và virus được thực hiện bởi các tế
bào làm nhiệm vụ thực bào và các tế bào NK cùng với các cytokine là những nhân
tố tham gia truyền đạt thông tin qua lại giữa các loại tế bào này.



×