Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Chân dung cuộc sống (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.52 MB, 149 trang )

Chân dung cuộc sống
10 thành phố giàu nhất thế giới
Danh sách những thành phố giàu có nhất thế giới vừa được công bố hôm qua, với sự dẫn đầu của New York.
Top 10 này do hãng bất động sản Anh Knight Frank và Ngân hàng Mỹ Citi Bank đưa ra, Xinhua cho hay. Các tiêu chí
để đánh giá bao gồm: độ sống động về kinh tế, ảnh hưởng chính trị, khả năng nghiên cứu và mức sống của cư dân.
Châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á chiếm trọn danh sách này, các nơi khác trên thế giới không có cơ hội chen chân.

New York chiếm vị trí đầu bảng về tổng thể. Tính riêng các tiêu chí, thành phố này nhất về kinh tế và
khả năng nghiên cứu, nhưng mức sống đứng thứ 8.

London, trung tâm tài chính của thế giới, chiếm vị trí thứ nhì trong bảng xếp hạng.

Kinh đô ánh sáng Paris của Pháp xếp thứ ba.

Thành phố giàu nhất châu Á là Tokyo, đứng thứ tư trên thế giới.

Tiếp theo là Los Angeles của Mỹ.

Thủ đô Brussels của Bỉ đứng thứ 6. Thành phố này là trung tâm chính trị của châu Âu, nơi có trụ sở
của Liên minh.

Một thành phố nữa của châu Á là Singapore cũng góp mặt trong top 10 đô thị giàu có nhất. Quốc đảo
sư tử nhận vị trí thứ 7.

Berlin đứng thứ 8 trong bảng tổng sắp, nhưng dẫn đầu về mức sống của cư dân.

Thủ đô Trung Quốc - Bắc Kinh - đứng thứ 9.

Cuối cùng trong top 10 là Toronto của Canada.
Theo vnexpress
Iceland không lạnh lẽo


Hòn đảo Đại Tây Dương này là láng giềng châu Âu gần nhất của Mỹ. Iceland không quá khắc nghiệt vào mùa đông
như cái tên “lạnh lẽo” của nó. Hầu hết người dân Iceland đều nói tiếng Anh trôi chảy và rất thân thiện. Thậm chí, sổ
danh bạ điện thoại ở đây còn liệt kê tên mọi người theo tên gọi chứ không phải họ.

Thủ đô như một “ngôi làng” hiện đại
Hầu như mọi du khách tới Iceland đều dành thời gian dừng chân tại thủ đô Reykjavik. Thành phố nằm ở phía cực
Bắc của thế giới này có đầy đủ những nét đặc trưng của Iceland như mặt trời nửa đêm mùa hè hoặc phong cảnh như
mặt trăng vào mùa đông. Tên gọi Reykjavik có nghĩa là Vịnh đầy khói, được những người mới đến đây đặt dựa trên
những làn hơi từ các suối nước nóng bốc lên. Ngày nay, những suối nước nóng này được sử dụng làm ấm những
ngôi nhà và tạo nên những bể bơi tự nhiên khắp nơi, là một trong những yếu tố khiến không khí ở Iceland đặc biệt
trong lành hơn những nơi khác.

Reykjavik là thành phố mà bạn luôn cảm thấy an toàn khi đi trên phố. Với nhà cửa đủ màu sắc và những khu trung
tâm thuận tiện đi lại, bạn sẽ có cảm giác như đang ở một ngôi làng lớn hơn là ở nơi phố thị. Tuy nhiên, “ngôi làng”
này lại có nhiều nét văn hóa đặc sắc, có những nhà hàng sang trọng, nhiều cửa hàng hấp dẫn cho việc mua sắm và
những tiện nghi sinh hoạt, dịch vụ của một thành phố tầm cỡ thế giới. Đây là điều không lạ vì đất nước này vốn được
xếp vào hàng có mức sống cao trên thế giới.
Cách tốt nhất để tìm hiểu thành phố là đi dạo vòng quanh. Trung tâm thành phố rất gọn ghẽ với những con đường ưu
tiên xe đạp và hệ thống xe bus sẽ giúp du khách đi lại dễ dàng. Hãy cho thiên nga và vịt ăn trong hồ Tjörnin bên cạnh
Hội đồng thành phố. Hãy đi thang máy lên tầng cao nhất của nhà thờ Hallgrimskirkja để có cái nhìn bao quát toàn
cảnh thành phố hoặc đi dạo quanh những khu phố nhộn nhịp như Thingholt và Vesturbaer.

Thậm chí trong thành phố, du khách có thể tìm thấy những khu bảo tồn thiên nhiên, câu lạc bộ golf và khu cưỡi ngựa.
Có cả một dòng sông toàn cá hồi trong phạm vi thành phố. Các tour đi xem cá voi và sở thú ở thung lũng Laugar
cũng là điểm đến ưa thích của du khách.

Reykjavik là trung tâm văn hóa của Iceland, nới đây đủ sức thỏa mãn những du khách yêu thích nghệ thuật với rất
nhiều viện bảo tàng, triển lãm, nhà hát, dàn nhạc, rạp chiếu phim Với dân số chỉ 300,000 người, mà quá nửa sống
ở quanh thủ đô Reykjavik, người Iceland vẫn còn sử dụng ngôn ngữ của nguời Viking xưa, loại ngôn ngữ cùng hệ
thống với tiếng Na-Uy, Đan Mạch và Thụy Điển. Tuy nhiên hiện nay, hầu hết người Iceland đều nói tiếng Anh trôi

chảy. Ngoài dân bản địa, người Iceland còn có một bộ phận dân từ các nước Scandinavia khác, Đông Âu và Đông
Nam Á nhập cư.
Nếu bạn thích nghệ thuật, bạn tha hồ lựa chọn những nhà hát kịch, opera và dàn nhạc hoặc những hoạt động âm
nhạc khác. Dạo quanh thành phố bạn rất dễ bắt gặp những phòng triển lãm tranh hay những bảo tàng thú vị. Các
festival như Reykjavik Arts Festival hay Airwaves Music festival diễn ra vào mùa xuân và thu, là dịp giao lưu văn hóa
trong vùng rất nhộn nhịp. Mùa hè, Iceland có đến 24 giờ nắng một ngày, tạo cơ hội cho du khách tham gia các tour
đánh golf lúc nửa đêm. Mùa hè cũng là mùa du lịch nên các bảo tàng sẽ mở cửa lâu hơn và phòng khách sạn cũng
khó tìm hơn.

Reykjavik còn là thiên đường mua sắm cho những du khách thích tìm các thứ mới lạ. Từ những khu mua sắm lớn
cho tới con đường Laugavegur trải dài 1 dặm dành riêng cho những hoạt động mua bán ngoài trời, du khách tha hồ
chọn lựa và tìm hiểu những trang phục cũng như trang sức mang hơi thở châu Âu và vùng Đại Tây Dương. Điểm đặc
biệt khi mua sắm ở Iceland là chính sách miễn thuế cho du khách và các bảng giá đều đã có tính thuế trên đó.
Ngoài thủ đô Reykjavik, Iceland còn có những thành phố và thị trấn nhỏ khác như Kopavogur, Hafnarfjordur và
Mosfellsbaer với những nét riêng rất đáng tham quan.
Thiên nhiên tuyệt vời
Chỉ cần 15 phút đi xe từ thành phố là bạn đã có thể tận hưởng những vùng đồi, thác nước, suối nước nóng và những
khu bảo tồn chim hoang dã.
Iceland là một hòn đảo rộng 40,000 dặm vuông, tương đương bang Ohio của Mỹ. Nơi cao nhất của Iceland là đỉnh
Hvannadalshnjukur cao 6,500 feet. Iceland có những sông băng lớn nhất châu Âu, 11% diện tích Iceland là sông
băng. Đường bờ biển có rải rác những vịnh hẹp và những thung lũng xanh màu mỡ. Iceland có hơn 10,000 thác
nước và suối nước nóng thì không đếm xuể.
Đảo này có nhiều vùng không bị ảnh hưởng bởi sinh hoạt của con người, vẫn còn hoang sơ với những vùng đá
nham thạch phủ rêu và núi cao không bóng cây. Khung cảnh giống bề mặt mặt trăng ở đây từng là nơi luyện tập của
các phi hành gia NASA truớc khi họ thực hiện chuyến thám hiểm mặt trăng đầu tiên. Đây cũng là nơi hoàn hảo cho
du khách thử nghiệm cảm giác ở một thế giới khác.

Nằm ngay vùng trung Đại Tây Dương, Iceland là điểm nóng của những hoạt động núi lửa từ xa xưa. 30 núi lửa đã
hoạt động trong vòng 2 thế kỷ trước và các suối nước nóng cung cấp cho đất nước này một hệ thống sưởi ấm rẻ tiền
mà không ô nhiễm. Các con sông ở Iceland được tận dụng làm năng lượng thủy điện. Du khách tới thăm Iceland sẽ

có dịp thưởng thức những suối nước nóng tự nhiên ngoài trời rất đúng kiểu Iceland.
Những du khách thích hoạt động mạo hiểm sẽ rất hứng thú với những dòng sông băng ngoằn ngoèo, thích hợp để
chèo thuyền vượt thác. Những vùng nước rộng hơn là nơi để bạn thử tài chèo thuyền kayak. Các cano lướt sóng
luôn sẵn sàng để du khách tự do thám hiểm những khu vịnh đẹp. Du khách còn có thể tham gia những chuyến ra
khơi của ngư dân để thử một lần thả và kéo lưới.

Gần 11% diện tích Iceland là sông băng nên du khách không được khuyến khích tự tham quan sông băng mà nên đi
cùng với đoàn có hướng dẫn viên để đảm bảo an toàn. Những phương tiện giao thông đưa đón du khách bao gồm
bus, taxi, xe kéo tuyết và cả những xe jeep chuyên dụng. Điểm bắt đầu tham quan những dòng sông băng là thị trấn
Hofn ở Đông Nam với khu Vatnajokull. Những dòng sông băng đẹp khác có thể kể là Snaefellsjokull ở bán đảo
Snaefellsnes, Myrdalsjokull ở bờ biển phía Nam và Langjokull phía Tây, dòng sông băng gần thủ đô nhất.
Những người thích tận hưởng thời gian một mình cũng sẽ tìm thấy những hoạt động rất gần gũi với thiên nhiên. Đạp
xe vòng quanh Iceland là một thử thách hấp dẫn rất nhiều người tham gia. Ngoài ra, leo núi và đi bộ cũng là một hoạt
động thú vị. Ở Reykjavik còn có xe bus chở du khách tới chân núi Esja, nơi bắt đầu chuyến leo núi lên xuống hết 3
tiếng rất hấp dẫn. Chỉ cần thư giãn với suối nước nóng sau những chuyến vận động, bạn sẽ thấy rất hứng thú.
Ẩm thực đa văn hóa
Ẩm thực ở Reykjavik là sự kết hợp giữa nguồn nguyên liệu tươi ngon và sự đa dạng văn hóa. Có hơn 170 nhà hàng
ở thủ đô, nơi những đầu bếp tài hoa của Iceland tha hồ biến hóa với nguồn nguyên liệu dồi dào và tươi ngon của địa
phương.

Ẩm thực Iceland vốn nổi tiếng với món cá và thịt cừu, khoai tây và các loại rau củ. Nền ẩm thực đặc trưng này cũng
những đã dần thay đổi, biến hóa để trở thành một trung tâm ẩm thực rất đa dạng. Đến Iceland, bạn nên thử món
hangikjot (thịt cừu xông khói làm thành sandwich), skyr (một loại yogurt giàu protein), puffin hoặc hardfiskur (cá khô
giàu protein). Những người thích ngọt có thể thử thêm nước cam thảo với chocolate, snudur (bánh ngọt phủ kem
lạnh) hay jolaol (nước soda cam với mạch nha).
Nền văn hóa cà phê cũng rất được ưa chuộng ở Iceland. Du khách có thể thưởng thức tách cà phê expresso quen
thuộc trong một khung cảnh hoàn toàn mới lạ, với rất nhiều loại bánh ngọt và thức ăn nhẹ. Rất nhiều cửa hàng cà
phê có wifi miễn phí, refill (thêm vào ly) miễn phí và rất nhiều loại sách báo, tạp chí.
Theo 24h
Khám phá Israel

Israel, xứ sở của kinh Thánh và là quê hương lịch sử của người Do Thái, nằm ở khu vực Trung Đông, dọc
theo bờ Đông của Địa Trung Hải, là một phần của cầu lục địa nối ba châu lục: châu Á, châu Phi và châu Âu.
Thưởng thức những bản hạc cầm vào buổi tối ở các khu phố cổ
Chính nơi đây, người Do Thái đã phát triển một nền văn hoá và tôn giáo đặc trưng của mình khoảng 4.000 năm
trước. Trong cuộc hành trình đến với miền đất lịch sử hình thành những dòng tôn giáo lớn nhất nhân loại là Do Thái
giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, thành phố Jerusalem của đất nước Israel vẫn luôn hấp dẫn du khách đến từ khắp nơi trên
thế giới.
Mái vòm màu vàng đặc trưng ở Jerusalem
Gọi Jerusalem là trái tim của thế giới quả thật không sai. Vùng đất này có thể coi là thánh địa thiêng liêng với hơn 1/3
dân số trên toàn thế giới. Khoảng 91% dân số Israel sống tại các trung tâm thành thị. Số khác tập trung tại các địa
danh cổ nổi tiếng và mang tên gốc như Jerusalem, Be’er Sheva, Nazareth, Ashkelon, Akko, Safed và Tiberias.
Đến Israel có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết những khu nhà ở thành thị được xây dựng chủ yếu bằng đá, bêtông
khối, vữa stucco với kiểu dáng rất đa dạng. Hầu hết các khu dân cư thường tách biệt hẳn với các khu công nghiệp và
thương mại, với những công viên rộng rãi thoáng đãng và một loạt các sân chơi nằm trong giới hạn của thành phố.
Hàng ngàn năm qua, các tín đồ Kitô giáo trên thế giới cũng coi Jerusalem là nơi hình thành tôn giáo của họ, bởi đây
chính là nơi chứng kiến những giây phút cuối cùng và phục sinh của Chúa Jesus. Jerusalem được coi là thành phố
linh thiêng thứ ba, sau thánh địa Mecca và Medina.
Đá và vữa stucco là nguyên liệu đặc trưng ở các ngôi nhà
Đến Israel mọi người không thể bỏ qua trong hành trình khám phá thành cổ Jerusalem, đặc biệt là “Bức tường than
khóc” - di tích còn sót lại phía Tây của đền thánh Jerusalem sau khi ngôi đền bị tấn công và tiêu huỷ bởi quân La Mã
vào năm 70 sau Công nguyên. Đây là nơi vô cùng đặc biệt bởi người ta có thể chứng kiến các tín đồ của mọi tôn giáo
cùng cầu nguyện và hôn lên “Bức tường than khóc” trong một bầu không khí thiêng liêng và trầm mặc trước ngôi đền
thánh đã sụp đổ. Nơi đó, hiện tại nghiêng mình trước quá khứ…
Thăm cây ôliu và giếng nước ngọt 2.000 năm tuổi, tham quan cảnh đẹp trên lưng lạc đà với giá 3 USD cũng là những
trải nghiệm khó quên. Đến Israel ngắm nhìn những mái vòm và những ngôi nhà đá vôi ở Jerusalem vàng rực lấp lánh
trong hoàng hôn mới hiểu được vì sao mảnh đất này có sức thu hút kỳ lạ đến thế. Hàng trăm ngàn người đã đến
thăm Jerusalem để được sống, được nếm trải cảm xúc vô tận từ vùng đất huyền thoại, linh thiêng và huyền bí cổ
xưa
Theo sgtt
Sắc màu Thổ Nhĩ Kỳ

Được mệnh danh là “quốc gia nằm ở ngã tư của các nền văn minh”, sự giao thoa văn hoá đã khiến Thổ Nhĩ
Kỳ trở thành một điểm đến du lịch độc đáo.
Nằm ở phía Đông Địa Trung Hải với diện tích trải dài ở cả châu Âu và châu Á, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia giàu có về các
giá trị lịch sử, văn hóa, tự nhiên và ẩm thực. Thành phố Istanbul với những ngôi nhà vòm mang phong cách cổ của
đạo Hồi thường là điểm dừng chân đầu tiên của du khách.
Istanbul có số lượng di tích lịch sử vô cùng phong phú: hệ thống kênh đào và hồ nước ngầm từ thời La Mã, quảng
trường Hippodrome, đài tưởng niệm Ai Cập, đài tưởng niệm Constantine & Serpentine Columns, nhà thờ Hồi giáo
Blue Mosque của đế chế Ottoman, cung điện Topkapi, bảo tàng dân tộc Anatolian…. Ban đêm, thành phố rực sáng
ánh đèn, những tấm thảm dệt từ sợi kilin đủ sắc màu được bày bán trong các shop dọc hai bên đường càng làm cho
không gian thêm phần rực rỡ.
Khu chợ đêm rực rỡ sắc màu
Đến Thổ Nhĩ Kỳ, bạn đừng bỏ lỡ chuyến phiêu lưu thăm thành phố ngầm Cappadocia, nơi những khối núi đá vôi
mềm được người xưa đào sâu xuống làm nơi trú ngụ. Địa chỉ này đã được Unesco công nhận là Di sản thiên nhiên
thế giới năm 1985. Ở Cappadocia còn có nhiều hoạt động dã ngoại được ưa thích như: đi khinh khí cầu ngắm toàn
cảnh vùng núi Cappadocia, đi bộ, cưỡi ngựa, xe đạp, xe máy để khám phá các thành phố ngầm dưới lòng đất.
Khinh khí cầu ở Cappadocia
Thành phố Pamukkale nằm ở tỉnh Denizli cũng là một điểm đến hấp dẫn. Nơi đây có những suối nước nóng có hàm
lượng khoáng cao chảy qua các gờ cao nguyên, hình thành một chuỗi những thác nước, những nhũ đá hấp dẫn dẫn.
Những suối nước nóng này khiến từ thế kỷ thứ II, người La Mã đã xây dựng nơi đây thành khu vực chuyên nghỉ
dưỡng, chăm sóc sức khoẻ.
Phong cảnh Pamukkale
Cách thị trấn Izmir của Thổ Nhĩ Kỳ 50 km về phía Nam là đền thờ nữ thần Artemis - một trong bảy kỳ quan cổ đại nổi
tiếng của nhân loại, nằm trong thành phố cổ nhất của đế chế La Mã - Ephesus. Đền Artemis, do kiến trúc sư người
Hy Lạp Chersipron thiết kế, xây dựng vào khoảng năm 550 trước công nguyên, là nơi thờ Ephesus Artemis - nữ thần
sinh sản.
Đây là công trình kiến trúc đầu tiên trong lịch sử được xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch dài 115m, rộng 55m, bao
gồm 127 cột đá. Bên cạnh đó, thành phố cổ kính Pergamon với cụm thắng cảnh Acropolis gồm: đền thờ nữ thần
Athena, đền thờ thần Zeus, thành Troy… cũng là điểm đến không thể bỏ qua.
Theo PNO
Italia - Nơi khởi nguồn của nền văn hóa châu Âu - Phần 1

Nằm ở phía Nam của châu Âu, Không chỉ nổi tiếng là Kinh đô thời trang, đất nước Italia với những công trình
kiến trúc mang dáng dấp của một vương quốc La Mã cổ xưa và huyền thoại, từ lâu đã là điểm đến mơ ước
của nhiều du khách.
Văn hóa Italia được thể hiện qua những di tích, những thắng cảnh tuyệt vời có rất nhiều trên đất nước này, như đấu
trường Coloseum, như đài phun nước Trevi, như Vatican, như giáo đường Duomo, như rất nhiều quảng trường hiện
diện trên khắp các thành phố, thị trấn Italia…. Tìm hiểu văn hóa Italia, chúng ta sẽ thấy một đất nước với một chiều
dài lịch sử và một nền văn hoá đồ sộ, cổ kính và lâu đời "có một không hai".
Italia là vùng đất của những huyền thoại, của vẻ đẹp kiến trúc - lịch sử - văn hóa vang danh một thời. Trải nghiệm và
thích thú, chính là cảm giác không thể nào quên khi du khách đã từng một lần đặt chân đến vùng đất xinh đẹp và cổ
kính này.
Italia - Cái nôi của nền văn minh Châu âu
Italia từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh
ra phong trào Phục hưng Italia. Thủ đô Roma của Italia từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung
tâm của Giáo hội Công giáo La Mã.
Có người cho rằng, người Italia đã sáng lập ra du lịch từ thế kỷ XVI, nhưng chắc chắn không một quốc gia nào trên
thế giới có thể để lại cho nhân loại nhiều biểu tượng văn hóa, ngành công nghiệp ôtô hàng đầu, kiến trúc, thời trang,
các vở opera kinh điển, hội họa, điêu khắc và ẩm thực.
Mãi đến năm 1861, Italia mới trở thành một nước thống nhất từ nhiều lãnh thổ tự trị. Điều này đã hình thành nên các
truyền thống và tập tục đặc trưng từng vùng, làm nên bản sắc văn hóa Italia ngày nay. Ngược lại với sự cô lập chính
trị và xã hội của các vùng này, Italia vẫn có những đóng góp đáng kể vào di sản văn hóa và lịch sử của châu Âu và
thế giới. Hiện nay, Italia được coi là nơi lưu giữ nhiều công trình di sản văn hóa thế giới bậc nhất.
Văn hóa của Italia tiết lộ trong các di tích cổ và tàn tích lịch sử, phản ánh tinh thần giác ngộ và sang trọng
Kể từ khi ra đời, đất nước đã đóng góp đủ vào sự tiến bộ của nền văn hóa thế giới. Những người Italia, chuyên gia
và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực văn hóa như văn học, âm nhạc, kiến trúc và điêu khắc là các tác giả của kiệt tác
trong các lĩnh vực tương ứng. Mặc dù tất cả những khác biệt khu vực và địa hình, di sản văn hóa của Italia là điều
mà các cherish Italia và tự hào về, và họ cảm thấy đặc quyền này để bàn giao di sản văn hóa phong phú cho tới thế
hệ tới.
Sự mở rộng của Văn hóa của Italia đã bắt đầu chủ yếu trong thời Phục hưng đó bắt đầu một cuộc cách mạng toàn
diện trong lĩnh vực văn hóa khác nhau trên toàn cầu. Hiệu quả của thời Phục Hưng ở châu Âu đã được trực tiếp cảm
thấy trên bán đảo Italia. Kết quả là, thời kỳ này đã chứng kiến một số thay đổi mạnh mẽ, vô cùng ảnh hưởng đến trí

tưởng tượng, sáng tạo, hàng tồn kho và trí tuệ của con người nói chung. Chuyển đổi đột ngột này, nhưng rõ ràng đã
được hấp thu trực tiếp của dân Italia và tiết lộ trong các tác phẩm nghệ thuật sau này.
Điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật, khoa học, ngôn ngữ, văn học, thể thao, triết lItalia và âm nhạc được mua một chiều
hướng mới trong các mặt văn hóa mới này và trỗi dậy ngoạn. Tác phẩm nổi tiếng đã được sản xuất bởi cá tính ưu
việt của Italia. Trong lĩnh vực văn học, một số kiệt tác như "The Divine Comedy" được viết bởi Dante Alighieri. Một
hình thức mới của phong cách thơ được gọi là "Sonnet" tiến hóa do thời Phục Hưng. Sonnet như là một hình thức
nổi bật của phong cách văn học đã được giới thiệu của nhà thơ nổi tiếng Italia, Petrarch và sau đó theo sau
Shakespeare. Nhà triết học của thanh danh như Niccolò Machiavelli với tạo đời đời của ông, "The Prince" đề xuất
phương pháp mới của cầm quyền đất nước và dẫn đầu chính phủ. Machiavelli của việc thay đổi các chính trị Nhận
định hiện hành và sửa đổi các quan điểm thiên vị đến một mức độ lớn. Tên của Michelangelo (người sáng tạo của
David, Pietà và Môi-se), Leonardo da Vinci (họa sĩ của Monalisa), Titian và Raphael là inseparably liên kết với tác
phẩm điêu khắc Italia và tranh vẽ.
Trong khi đó, tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là lúc chiều cao của nó với sự đóng góp bao la Galileo
Galilei trong thiên văn học. Các nhà vật lItalia nổi tiếng, Fermi nghiên cứu LItalia thuyết lượng tử, trong khi những vấn
đề liên quan đến pin điện đã được đưa chăm sóc bởi Volta. Như nhà toán học Lagrange và Fabonacci, người đoạt
giải Nobel như Marconi (phát minh ra đài phát thanh) và Antonio Mencci đóng góp vô cùng hướng tới sự phát triển
văn hoá của Italia trong độ tuổi này.
Italia - Đa dạng các loại hình văn học nghệ thuật
Một loạt các trào lưu nghệ thuật và trí thức lan rộng khắp châu Âu bắt nguồn từ Italia, bao gồm Thời Phục hưng và
Thời Ba-rốc, cùng với những nghệ sĩ đã đi vào huyền thoại như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello,
Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello.
Văn học Italia có truyền thống nổi tiếng lâu đời về tính chất sáng tạo mới mẻ và tính độc đáo. Truyền thống La tinh
được các học giả lưu giữ, ngay cả sau khi đế chế La Mã phương Tây suy vong. Nền văn học Italia thể hiện một quá
trình thay đổi lớn qua sự phát triển của thời kỳ phục hưng và đã được thể hiện qua những tác phẩm của Aligheiri
Dante, Petrarch, và Boccaccio. Các tác phẩm Divine của Dante, Sonnets của Petrarch đến tác phẩm Decamerone
của Laura và Boccaccio đều là những tác phẩm tiêu biểu đối với các nhà văn trong thời phục hưng sau này.
Ngôn ngữ Italia hiện đại xuất phát chủ yếu từ phương ngữ của vùng Firenze và một trong những người có công xây
dựng tiếng Italia chính là Dante Alighieri, tác giả của tác phẩm danh tiếng "Divina Comedia" (Thần khúc), được coi là
một trong những tuyên ngôn văn chương đầu tiên xuất hiện ở châu Âu và thời Trung đại.
Ngoài ra, một cách biểu đạt văn chương mới, thể loại sonnet, cũng được sáng tạo ra từ Italia, qua các tác giả văn

học nổi tiếng như: Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto, và Petrarch. Ngoài
ra không thể không kể đến những triết gia điển hình như: Bruno, Ficino, Machiavelli, và Vico.
Tác giả văn học hiện đại đoạt giải Nobel là nhà thơ Giosuè Carducci vào năm 1906, Grazia Deledda năm 1926,
Salvatore Quasimodo năm 1959 và nhà viết kịch sân khấu Dario Fo năm 1997.
Giai đoạn văn học của Italy lớn nhất là trong thế kỷ 14 Ba nhà văn quan trọng nhất là Dante, Petrarca và Boccaccio.
Dante nổi tiếng với các Divine Comedy, đó là thực sự về Thiên đàng và địa ngục! Trong thực tế, mô tả của ông về cả
Heaven và Hell rất nhiều liên kết với các khái niệm hiện đại của Petrarca làm việc hơn là triết học, được gọi là 'cha đẻ
của nhân văn " Như một nhà thơ, ông hoàn thiện các Sonnet. Boccaccio đã viết một số tác phẩm vượt thời gian và'
ông Decameron 'có thể được hưởng ngay cả của người đọc hiện đại.
Từ âm nhạc dân gian tới âm nhạc cổ điển, âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Italia. Là nơi sinh của
opera, và ngôn ngữ của Italia đã cung cấp từ vựng âm nhạc, thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ
điển. Vào cuối thế kỷ XVI, các nhạc sĩ và thi sĩ thời Phục hưng ở Florence bắt dầu đưa thơ vào nhạc.
Những vở opera đầu tiên được sang tác vào đầu thế kỷ XVII tại Roma, Venice và Napoli. Khi sự yêu chuộng opera
lan ra khắp nước, mỗi thành phố đã phát triển một phong cách opera của riêng mình. Nhà soạn nhạc Claudio
Monteverdi, được coi là cha đẻ của opera hiện đại, là người đứng đầu trong số những nhà soạn nhạc thuộc trường
phái Venice. Nhiều tác phẩm của ông được trình diễn trong nhá hát opera công cộng đầu tiên của Italia tại Venice
năm 1637.
Chẳng mấy chốc, các nhạc sĩ hàng đầu châu Âu như Frideric Handel đã tới Italia để nghiên cứu opera. Vào cuối thế
kỷ XVII, Alessandro Scalatti đã sang tác gần 100 bản opera và làm cho Napoli trở thành trung tâm của opera. Trong
thế kỷ XVIII, phần kịch bản của opera trở nện quan trọng hơn, và những khúc nhạc cũng phức tạp hơn. Nhà hát
opera nổi tiếng nhất châu Âu, La Scala, được khánh thành tại Milan năm 1778, và thậm chí cả Mozart vĩ đại cũng bắt
đầu soạn những vở opera để trình diễn ở đây.
Thế kỷ XIX là thời kỳ âm nhạc thịnh vượng nhất tại Italia. Gioachino Antonio Rossini sang tác vở opera hài hước kinh
điển Người thợ cạo thành Seville năm 1816. Giuseppe Verdi, được coi là nhà soạn nhạc tài năng nhất Italia, đã soạn
26 vở opera, trong đó có các vở Rigoletto (1851), Il Trovatore (1853), La Traviata (1853) và Aida (1871). Vở Aida
được sáng tác ở Ai Cập, được trình diễn với những con lạc đà và voi thật trên sân khấu. Những vở opera của Verdi
nổi tiếng bởi cốt truyện xúc động và các nhân vật chân thực. Một số vở opera của ông được rút ra từ những tác phẩm
của Shakespeare và Victor Hugo, và các chủ đề của ông thường gắn với đấu tranh chống áp bức. Gia Puccini cũng
là một nhà soạn nhạc tầm cỡ của thời kỳ này. Các vở La Boheme (1869) và Madame Butterfly (1904) của ông ngày
nay vẫn còn được khán giả yêu thích bởi cốt truyện lãng mạn, xúc động và những giai điệu mượt mà.

Opera của Italia nguyên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Với việc mở cửa nhà hát opera công cộng tại Venice, nó
trở thành nguồn giải trí của mọi người. Vào đêm khai mạc một vở diễn mới, đám đông khan giả lèn chặt nhà hát. Mọi
người bàn luận về vở opera mới sau khi xem. Vào thế kỷ XIX, đi xem opera trở thành một sinh hoạt xã hội chủ yếu
của người Italia. Thậm chí ngày nay, khán giả opera Italia vẫn thích bàn luận về opera hay những vấn đề khác trong
buổi diễn; vài người theo dõi sát những diễn biến trên sân khấu, số người khác thì bình phẩm với người xung quanh.
Là nơi sản sinh ra dòng nhạc opera, Italia đã xây dựng nền tảng vững chắc cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các
nhạc cụ cổ điển như dương cầm và viôlông được sáng tạo ra từ Italia và nhiều thể loại nhạc cổ điển như giao hưởng,
côngxectô và xô nát cũng đã xuất hiện từ thế kỷ 16,17 trong nền âm nhạc nước này. Những nhà soạn nhạc tài ba
của Italia trong thời kì Phục hưng là: Palestrina và Giusseppe Verdi, các nhà soạn nhạc Ba-rốc như: Alessandro
Scarlatti và Vivaldi, các nhà soạn nhạc cổ điển như Rossini và Paganini, nhà soạn nhạc lãng mạn như Verdi và
Puccini. Hai nhà soạn nhạc Berio và Nono cũng có góp quan trọng vào nền âm nhạc hiện đại với sự phát triển của
nhạc điện tử thử nghiệm.
Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn
gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Italia (như symphony, concerto và sonata). Một số nhà
soạn nhạc Italia nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio
Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò
Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe Verdi và Giacomo Puccini. Các nhà soạn
nhạc Italia hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể
nghiệm và âm nhạc điện tử.
Italia tự hào có một thời gian dài phong cách kiến trúc khác nhau, từ cổ điển La Mã và Hy Lạp, Gothic, Phục Hưng,
Baroque, Neo-Classical, Art Nouveau để hiện đại. Kiến trúc Italiabắt đầu với Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại và Etruscan,
khi cả hai nền văn minh được xây dựng đền thờ, basilicae, cột, các diễn đàn, cung điện, aqueducts, tường và phòng
tắm công cộng. Sau khi các nền văn minh cổ điển, tiếng Italia phát triển một kiến trúc nổi tiếng Gothic đặc biệt là
hướng tới thế kỷ 12. Thành phố như Venice, Vicenza, Florence, Siena, Assisi và Pisa chủ yếu là bị ảnh hưởng bởi
thời kỳ kiến trúc Gothic và Roman. Sau đó, trong thế kỷ 15 và 16, Italia đã trở thành nơi sinh của Phục hưng với
Florence và Rome là trung tâm chính của nó. Sau đó, Italia đã trở thành một trung tâm chính của châu Âu cho
baroque, với đa dạng phong cách kiến trúc baroque mới nổi, đặc biệt là ở Sicily. Sau đó, trong tân thế kỷ 18 và 19-tòa
nhà theo phong cách cổ điển bắt đầu xuất hiện tại Rome, Milan, Torino và tất cả xung quanh Italy. Hiện nay, kiến trúc
và thiết kế ở Italia được coi là đẳng cấp thế giới và rất nổi tiếng với Milan là thủ đô của đất nước. Nhiều kiến trúc sư
người Italia hiện đại, như Renzo Piano, nổi tiếng trên toàn thế giới.

Nghệ thuật và viện bảo tàng ở Italia giành được danh tiếng của nó trên toàn thế giới. Các viện bảo tàng Italia như
một bộ sưu tập độc đáo của nghệ thuật và văn hóa mà nó có đúng được gọi là fide bona mở không khí nghệ thuật
thư viện. Các bộ sưu tập của nghệ thuật và viện bảo tàng là những kho báu của Italia. Theo nguồn tin của UNESCO,
Italia có hơn một nửa số bộ sưu tập của thế giới về nghệ thuật và viện bảo tàng. Italia bao gồm nghệ thuật của nhà
thờ, nhà thờ, tu viện pariches, convents, thánh đường, lâu đài và biệt thự.
Venice ở Italia có một số viện bảo tàng ngoài trời tuyệt vời. Venice của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại và Bảo tàng
Nghệ thuật phương Đông nổi tiếng với những bức tranh đẹp của nó. Các Bảo tàng Peggy Guggenheim và Bảo tàng
Correr nổi tiếng về bức tranh nghệ thuật. Các Peggy Guggenheim Museum từng là nơi ở của những người Mỹ
heiress Peggy Guggenheim. Bảo tàng có một số bức tranh đẹp của Picasso, Chagall, Mondrian, Kandinski và Đại
Italia.
Các thư viện Accademia của Venice nổi tiếng với những bức tranh của các lần thứ 14 và thế kỷ thứ 15. Bộ sưu tập
này có bức tranh của Titian, Tintoetto và Canaletto Arsenale Bảo tàng. Có mô hình Serenissima Tàu và các mô hình
khác trong lịch sử hải quân.
Bảo tàng Correr ở Venice lần đầu tiên bắt đầu năm 1830 với sự tài trợ của các bộ sưu tập nghệ thuật của Teodoro
Correr. Các bức tranh của Carpaccio đã giành được danh tiếng cho bảo tàng này Bức tranh của những con người
trẻ tuổi và hai nữ Venezia rất đáng xem. Còn bảo tàng nghệ thuật của Grande Scuola di San Rocco có một số bộ sưu
tập tuyệt vời của bức tranh của Tintoretto.
Cùng với điện ảnh Pháp, điện ảnh Italia là một trong những nền điện ảnh lâu đời nhất thế giới và là trụ cột của ngành
công nghiệp điện ảnh châu Âu. Italia và Pháp cũng là hai quốc gia dẫn đầu về số Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay
nhất, vượt xa các nền điện ảnh lớn khác.
Chỉ vài tháng sau khi Anh em Lumière phát minh ra kỹ thuật điện ảnh, nền nghệ thuật mới này đã xuất hiện ở Roma,
Italia khi Giáo hoàng Leo XIII được ghi hình trong thời gian vài giây trong khi đang cầu nguyện.
Công nghiệp điện ảnh Italia được thực sự hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908 với 3 hãng phim
lớn, Cines ở Roma, Ambrosio ở Turino và Itala Film. Các hãng phim khác cũng nhanh chóng được thành lập tại
Milano và Napoli. Chỉ trong thời gian ngắn, các công ty này đã nhanh chóng sản xuất được những bộ phim có chất
lượng và thực hiện việc xuất khẩu phim ra bên ngoài nước Italia. Sở trường thời bấy giờ của điện ảnh nước này là
các bộ phim lịch sử với tác phẩm đầu tiên là La presa di Roma, 20 settembre 1870 được đạo diễn Filoteo Alberini
thực hiện năm 1905. Các bộ phim tiếp theo nói về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Bạo chúa Nero, Julius
Caesar và Cleopatra được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim của Arturo Ambrosio, Gli ultimi giorni di Pompei
(Ngày cuối cùng của Pompei, 1908) nổi tiếng tới mức chỉ sau đó 5 năm nó đã được làm lại một phiên bản khác do

Mario Caserini đạo diễn. Các nữ diễn viên điện ảnh ngôi sao (tiếng Italia: diva) đầu tiên của công nghiệp điện ảnh
Italia có thể kể tới Lyda Borelli, Francesca Bertini và Pina Menichelli, trong đó Francesca Bertini có lẽ là một trong
những diễn viên đầu tiên xuất hiện trên bán khỏa thân trong một bộ phim.
Trong khi điện ảnh Italia đang phát triển rực rỡ thì chính quyền Phát xít Italia bắt đầu tăng cường kiểm soạt các loại
hình nghệ thuật phổ biến, bao gồm cả điện ảnh. Dưới sự ủng hộ của Benito Mussolini, một khu vực lớn ở phía Tây
Nam Roma đã được dành riêng để xây dựng một khu phố điện ảnh (ex novo) cực lớn lấy tên là Cinecittà. Khu phố
này được quy hoạch để có tất cả những cơ sở cần thiết cho một bộ điện ảnh, bao gồm các rạp phim, các khu trường
quay, khu kĩ thuật và thậm chí là một trường dạy quay phim cho các nghệ sĩ trẻ. Cùng lúc này, Vittorio Mussolini, con
trai của nhà độc tài cũng đứng ra thành lập một công ty sản xuất phim quốc gia để tạo điều kiện hoạt động cho tất cả
các tài năng điện ảnh, từ đạo diễn, nhà biên kịch đến diễn viên. Kết quả của những chính sách khuyến khích điện
ảnh này là sự ra đời của một thế hệ đạo diễn cực kì tài năng gắn với Cinecittà trong đó phải kể tới Roberto Rossellini,
Federico Fellini và Michelangelo Antonioni.
Theo cinet
Italia - Nơi khởi nguồn của nền văn hóa châu Âu - Phần 2
Italia là đất nước có vẻ đẹp rạng rỡ. Người Italia ăn mừng Giáng sinh và năm mới bằng cách trang hoàng
tráng lệ. Hàng năm có hàng trăm lễ hội được tổ chức ở gần như tất cả các thị trấn ở Italia. Lễ kỷ niệm, lễ hội,
và những bữa tiệc bên đường phố là một phần trong cuộc sống của người Italia.
Italia cũng là quốc gia tổ chức đăng cai một số những sự kiện quốc tế quan trọng như liên hoan phim, khiêu vũ và
nghệ thuật.
Các lễ hội tươi sáng và đầy màu sắc tại Italia diễn ra quanh năm, thu hút một số lượng đáng kể các khách du lịch.
Thậm chí, họ cũng tham gia sâu trong nhiều màu sắc của không khí lễ hội. Lễ hội là một cách để phù hợp với văn
hóa Italia.
Lễ Giáng sinh
Đối với người theo đạo Thiên Chúa, Lễ phục sinh là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm cùng với
Ngày Chúa giáng sinh (24/12). Lễ phục sinh thường diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4 hằng năm nhằm tưởng niệm sự
kiện Chúa Jesus sống lại sau khi bị đóng đinh trên thập giá.
Gia đình quây quần bên nhau trong đêm Giáng sinh
Ở Italia, gia đình quây quần bên nhau là chuyện thường diễn ra, nhưng tụ họp gia đình có một ý nghĩa rất đặc biệt
trong mùa Giáng sinh và Phục sinh. Các cửa hiệu được trang hoàng bằng những dây đèn, các nhóm "mục đồng"
chơi kèn túi, những người bán dạo bán những bịch hạt rẻ rang nóng hổi.

Trong nhà, các gia đình làm những mô hình Chúa Giáng sinh thu nhỏ bày ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.
Các hình người ăn mặc theo trang phục truyền thống Italia và khung cảnh cũng mang vẻ Italia hơn là ở Bethlehem,
nơi Chúa Jesus ra đời. Cho dù gia đình có nghèo đến mấy đi nữa, thì mô hình này cũng có thể được làm từ những
chất liệu rẻ tiền như giấy, đất sét và đá.
Mô hình Chúa giáng sinh thu nhỏ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách
Giống như nhiều nước phương Tây, người Italia ngày nay thường kỷ niệm lễ Giáng sinh bằng cách dựng một cây
thông trong nhà. Họ cũng đốt một khúc củi Noel được gọi là "ceppo" mỗi đêm và những đứa trẻ theo truyền thống
được nhận những món quà vào ngày Giáng sinh và ngày 6 tháng Giêng, ngày Lễ Hiển linh. Lần tặng quà thứ hai
được coi là của ông tiên nhân hậu Befana. Tất nhiên, những món quà đẹp chỉ dành cho những đứa trẻ ngoan, còn
những đứa hư chỉ được nhận than và tro.
Cả gia đình ở Italia tụ tập vào ngày Giáng sinh, thường bắt đầu bữa tiệc bằng món bột nhào thập cẩm ăn với nước
dùng, tiếp đó là món gà Tây hay gà trống thiến béo ngậy và kết thúc là món tráng miệng truyến thống của địa
phương. Người Italia thích ăn món bành xốp panettone trong lễ Giáng sinh. Món panettone đặc trung được làm từ
nho khô và các loại hoa quả tẩm đường, nhưng mỗi địa phương có một cách làm riêng. Một số được phủ một lớp
Chocolate, số khác là hạnh nhân rang.
Lễ hội ném cam
Lễ hội Ivrea là một trong những lễ hội truyền thống nổi tiếng nhất ở đất nước hình chiếc ủng. Lễ hội, diễn ra từ ngày 2
đến mùng 5 tháng 2 hàng năm, độc đáo và thú vị, giống như một trận chiến thực thụ. Toàn bộ chiến binh lâm trận
đều chiến đấu hăng say. Vũ khí của họ chính là những quả cam chín đỏ. Lễ hội ném cam này tái hiện một cuộc chiến
có thật vào năm 1194, khi cô con gái tên Violetta của ông chủ cối xay đứng lên chống lại một tên bá tước hung bạo,
dẫn đến cuộc nổi dậy. Người dân vùng Ivrea và các khách du lịch trong và ngoài đất nước hình chiếc ủng tham gia lễ
hội một cách say mê không chỉ vì không khí náo nhiệt vui vẻ mà còn chính vì ý nghĩa lịch sử đó.
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, người tham gia chìm đắm trong hương vị những trái cam chín đỏ trong hàng ngàn
thùng gỗ pha lẫn mùi rượu vang đỏ "Vin brulé" hăng hăng. Mọi người đi san sát bên nhau đổ về mọi hướng. Người
chơi hội cũng có thể cưỡi ngựa lội trên thảm cam có khi dày đến hơn 20cm. Tiếng ngựa phi nước kiệu kéo theo các
chiến binh của tên bạo chúa đội mũ và mặc áo giáp sắt, tiếng hô hào của những người nổi dậy và cả tiếng hò reo khi
ông chủ cối xay trên xe ngựa chạy ngang qua tung hoa mimosa màu vàng và kẹo vào đám đông.
Ấn tượng về lễ hội càng trở nên sắc nét hơn bởi vô vàn chiếc mũ màu đỏ khắp mọi nơi. Violetta và đám đông đội mũ
dài màu đỏ tươi là biểu tượng của sự tự do. Vì vậy, người tham gia lễ hội không bị ném cam vào người khi đội chiếc
mũ màu đỏ đó. Dẫu vậy, họ vẫn khó có thể tránh khỏi những trái cam, dù không bị ném trực tiếp.

Thế nhưng, để thực sự tham gia vào lễ hội và vui hết mình, người chơi cần phải bỏ mũ và nhảy vào vùng chiến. Họ
có thể đóng vai giới quý tộc, đại điện cho những kẻ hung bạo ngồi trên những chiếc xe tải, đụng độ với người dân địa
phương cũng như du khách của thành phố có từ thời Trung cổ này.
Cảnh kỳ thú nhất của lễ hội ném cam là lúc đi qua đoạn cầu cổ. Các đường phố nhỏ hẹp chất đầy cam nát cao đến
nỗi thỉnh thoảng người ta phải dùng xe cán tuyết để dọn đường. Chỉ có duy nhất một tấm lưới nhỏ che chắn giữa
vùng chiến sự, nếu muốn đi qua nó thì phải căn thời gian chuẩn, nếu không thì có thể sẽ bị dính rất nhiều “đạn cam”.
Trước đây, cam được phép ném qua cả cửa sổ dẫu người dự lễ hội có đội mũ đỏ hay không nhưng do việc này có
thể gây nguy hiểm nên ngày nay, người tham gia chỉ được ném cam từ mặt đất vào xe ngựa hoặc xe tải và ngược
lại.
Giống với các cuộc chiến thực sự, lễ hội ném cam này cũng không tránh khỏi cảnh thương tích. Mỗi dịp lễ hội, có tới
hàng trăm nghìn người đổ về Ivrea và có tới cả trăm người bị thương. Thế nhưng, đây không phải là cuộc chiến,
không phải bạo lực, mà là dịp mà người ta có thể giải tỏa căng thẳng, bạo lực trong lòng để sống vui vẻ hơn.
Lễ hội đua thuyền St. Ranieri tại Pisa, Italia
Pisa, Italia là nơi tổ chức cuộc đua thuyền St. Ranieri vào ngày 17/6 hằng năm. Đây là hoạt động bày tỏ lòng biết ơn
với các vị thần đã bao bọc và chở che cho Pisa.
Cuộc đua thuyền St. Ranieri diễn ra trên sông Arno. Các tay đua sẽ phải vượt qua quãng đường 1500 mét, với 4
thuyền đua có màu khác nhau và phải đi qua 4 quận của thành phố.
Mỗi một thuyền tham gia đua phải có 8 người chèo thuyền, trong đó có một người lái thuyền và một người chèo
chính (người này sẽ phụ trách việc cầm lá cờ chiến thắng khi kết thúc đường đua).
Đội chiến thắng sẽ nhận các loại phần thưởng khác nhau, thường là những con vật thật đặc biệt.
Có người nhận được một con bò đực, có người lại được một con cừu, một con lợn. Tuy nhiên, những người thua
cuộc cũng nhận được phần thưởng là một con gà trống hoặc một con ngỗng non. Lễ hội này được bắt nguồn từ thế
kỉ thứ XII khi những cuộc tranh chấp giữa những người sống dưới nước và trên bờ diễn ra thường xuyên.
Những căn nhà dọc hai bên bờ sông Arno sẽ thay đổi để phù hợp với cuộc đua thuyền cũng như những gì mà người
ta tin là thần hộ mệnh của Pisa vào ngày 16/06 - trước khi cuộc đua diễn ra 1 ngày. Những tòa nhà, những cây cầu
và lan can dọc theo bờ sông được thắp sáng bằng khoảng 70.000 ngọn nến lớn nhỏ khác nhau. Trong khi đó có
hàng nghìn chiếc phao được quẳng khắp dòng sông.
Những cây nến được thắp khắp các lan can và trên cửa sổ của những căn nhà quay mặt ra sông, trên những mái
nhà cao nhất và các ban công có thiết kế lạ mắt. Hàng nghìn người tới tham dự đều cảm thấy ngạc nhiên với công
trình xếp nến này của ban tổ chức.

4 chiếc thuyền đua được sơn và trang trí bằng 4 màu khác nhau. Mỗi chiếc là biểu tượng đặc trưng của một sự kiện
lịch sử có liên quan đến các quận của thành phố Pisa.
Phần phía Nam của thành phố là quận Saint Martin với màu trắng và đỏ, quận Saint Anthony với màu màu trắng và
xanh lá. Phía bắc là 2 quận Saint Mary với màu trắng và xanh dương, quận Saint Francis chọn màu trắng và màu
vàng.
Cuộc đua thuyền quan trọng sẽ diễn ra vào ngày 17/06. Khi đó, những tay đua phải chèo một mạch không nghỉ qua
sông Arno với quãng đường là 1.500 mét, bắt đầu với hướng ngược dòng sông và kết thúc tại Palazzo Medici. Có hai
con đường để đi tới đích và người chèo chính phải định hướng cho toàn bộ đội đua của mình về đích nhanh nhất.
Chèo thuyền theo dòng nước ngược có thể làm cho các tay đua phải nỗ lực nhiều hơn và cũng nhanh mất sức hơn.
Ở những khúc cua, cuộc đua càng trở nên khốc liệt vì vậy, cơ hội thắng cuộc sẽ thuộc về đội nào khéo léo nhất.
Chiến thắng thuộc về đội có người chèo chính giật được ngọn cờ có tên là “paliotto”. Ba “paliotto” được đặt ở 3 nơi
khác nhau. Trong đó có một lá cờ xanh dương, một là màu trắng và cuối cùng là cờ đỏ. Một cặp ngỗng non sẽ là giải
thưởng cho tay chèo thuyền nào lấy được cả 3 ngọn cờ.
Việc giành những lá cờ này bắt nguồn từ lịch sử khi những thủy thủ Ý phải đấu tranh để giành lấy ngọn cờ từ tay binh
lính hải quân Thổ Nhĩ Kì và nó được giữ ở Pisa cho đến ngày nay.
Lễ hội này được tổ chức lần đầu tiên St. Ranieri vào năm 1718 nhưng nó không được chấp nhận cho đến tận năm
1737, lễ hội đua thuyền mới được tiếp tục tổ chức. St. Ranieri trở thành hoạt động văn hóa thường niên từ năm 1935.
Lễ hội đua ngựa Palio - Italia
Thành phố Siena, Italia là nơi diễn ra một trong những ngày hội ấn tượng và được mong chờ nhất hành tinh - ngày
hội đua ngựa Palio.
Bắt đầu từ năm 1644, ngày hội đua ngựa Palio được tổ chức hàng năm vào 2/7 và 16/8 giữa các quận của thành phố
Siena nhằm tôn vinh Đức Mẹ đồng trinh. Cả thành phố có tất cả 17 quận nhưng sẽ chỉ có 10 quận được tham gia

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×