BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: MINH BẠCH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ SỰ
TRUYỀN DẪN CỦA LÃI SUẤT BÁN LẺ
MONEYTARY POLICY TRANSPARENCY AND PASS –THROUGHT
OF RETAIL INTEREST RATES
GVHD
GVHD
: PGS. TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
: PGS. TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
Nhóm
Nhóm
: 5
: 5
Lớp
Lớp
: CAO HỌC -TCDN Đêm 1 K20
: CAO HỌC -TCDN Đêm 1 K20
Tp.Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2012
DANH SÁCH NHÓM 5 LỚP TCDN ĐÊM 1 KHÓA 20
STT HỌ TÊN
NGÀY
SINH
KÝ TÊN
1
Nguyễn Thị Ngọc Châu 13/12/1986
2
Nguyễn Thị Thu Hương 08/04/1987
3
Nguyễn Xuân Hải 20/09/1981
4
Trịnh Đức Hiệp 07/10/1980
5
Đặng Thị Kiều 08/07/1984
6
Nguyễn Ngọc Hoàng Lan 08/09/1985
7
Nguyễn Đình Nam 24/12/1968
8
Trần Thị Ngọc 01/06/1987
MỤC LỤC
1.TỔNG QUAN 1
1.1 Giới thiệu nghiên cứu : 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu: 2
1.3 Cơ sở khoa học và thực tiễn: 2
2.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI NEW ZEALAND 4
3. SỰ CỨNG NHẮC TRONG ĐIỀU CHỈNH QUY TRÌNH LÃI
SUẤT 6
4. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG: 10
5. DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 15
5.1 Dữ liệu 15
5.2 Kiểm định thuộc tính biến tĩnh và tính đồng liên kết 17
5.3 Sự chuyển dịch và thay đổi cấu trúc dài hạn 19
5.4. Luân chuyển ngắn hạn và tốc độ điều chỉnh : 24
5.5. Độ điều chỉnh không cân đối : 25
6. KẾT LUẬN: 27
7. Ý KIẾN CỦA NHÓM: 28
8. PHỤ LỤC 28
8.1.Chi phí thực đơn : 28
8.2. Phương pháp bình phương bé nhất : 29
8.3. Frisch–Waugh–Lovell (FWL) 30
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
1. TỔNG QUAN
1.1 Giới thiệu nghiên cứu :
Chính sách tiền tệ là công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế vĩ mô của hầu hết
các nước công nghiệp hóa. Để thắt chặt/nới lỏng chính sách tiền tệ, ngân hàng
trung ương hoặc cơ quan có thẩm quyền sẽ tăng/giảm lãi suất cơ bản. Các ngân
hàng và các tổ chức tài chính sẽ theo đó tăng/giảm lãi suất cho vay và lãi suất
huy động tương ứng. Đối mặt với chi phí vốn cao hơn/thấp hơn, người tiêu dùng
và các công ty sẽ phải điều chỉnh mức tiêu dùng và chi tiêu của họ cho phù hợp,
do đó sẽ ảnh hưởng đến tổng sản lượng và lạm phát. Như vậy, hiệu quả của chính
sách tiền tệ phụ thuộc vào tốc độ và mức độ mà các định chế tài chính chuyển thể
những thay đổi trong lãi suất cơ bản đến khách hàng.
Tuy đã có nhiều học thuyết nghiên cứu về sự truyền dẫn của chính sách tiền tệ
nhưng cho đến gần đây quá trình chuyển thể từ lãi suất cơ bản đến lãi suất ngân
hàng bán lẻ vẫn chưa được khám phá đầy đủ. Hầu hết các học thuyết về chính
sách truyền tải tiền tệ đã giả định tính truyền dẫn là ngay lập tức và hoàn toàn từ
sự thay đổi lãi suất cơ bản sang sự thay đổi lãi suất ngân hàng bán lẻ (ví dụ,
Bernanke và Gerler năm 1995; Kashyap và Stein, 2000; Astunbas et al, 2002).
Các nghiên cứu gần đây cho rằng sự truyền dẩn có thể không đầy đủ và vận tốc
điều chỉnh có thể chậm lại. Các định chế tài chính và sản phẩm tài chính khác
nhau thì có mức độ truyền dẩn và điều chỉnh khác nhau. Hơn nữa, một số nghiên
cứu cũng cho thấy tốc độ điều chỉnh khác nhau phụ thuộc vào lãi suất nằm ở
dưới hay trên mức cân bằng dài hạn. ( Chong et al, 2005; Kleimeier và Sander,
2005).
Minh bạch chính sách tiền tệ là minh bạch thông tin thị trường tiền tệ, tín dụng.
Cụ thể :
- Minh bạch chủ trương , quyết định điều hành chính sách tiền tệ của ngân
hàng nhà nước
- Tốc độ tăng trưởng và số dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
- Tỷ lệ nợ xấu trong tăng trưởng dư nợ tín dụng
- Diễn biến lãi suất huy động và cho vay VNĐ, ngoại tệ
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 1
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
- Các mức lãi suất do ngân hàng nhà nước qui định
- Ở Việt Nam qui định minh bạch chính sách tiền tệ được thể hiện trong
thông tư 35/2011/TT-NHNN.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu này xem xét mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất bán lẻ
khi tỷ lệ lãi suất cơ bản thay đổi ở New Zealand. Cụ thể các vấn đề được phân
tích như sau:
Thứ nhất, chúng tôi xem xét mức độ truyền dẫn dài hạn từ lãi suất cơ bản và lãi
suất liên ngân hàng sang lãi suất bán lẻ (như lãi suất huy động và lãi suất cho
vay; bao gồm cả lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất thế chấp của các kỳ hạn khác
nhau).
Thứ hai, chúng tôi kiểm tra sự truyền dẫn ngắn hạn và tốc độ điều chỉnh của lãi
suất bán lẻ và kiểm tra tốc độ điều chỉnh là đối xứng hoặc không đối xứng.
Cuối cùng, chúng tôi kiểm tra xem liệu thay đổi trong thủ tục điều hành chính
sách tiền tệ và tăng tính minh bạch trong chính sách (vốn là kết quả của việc áp
dụng lãi suất liên ngân hàng qua đêm (OCR) trong năm 1999) có ảnh hưởng nào
khác về tính truyền dẩn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất ở New Zealand không?.
1.3 Cơ sở khoa học và thực tiễn:
Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu vấn đề trên tại trường hợp nghiên cứu điển
hình là NewZealand.
Có 3 lý do chọn NewZealand là trường hợp nghiên cứu điển hình trong bài
nghiên cứu này:
• Thứ nhất, New Zealand là nước đầu tiên áp dụng chế độ có mục tiêu lạm
phát rõ ràng với tính toán cụ thể và quy định minh bạch. Những quy tắc này
đã trở thành mô hình nguyên mẫu cho các khuôn khổ chính sách được các
nước OECD và gần đây có một số nước đang phát triển thông qua.
• Thứ hai, không giống như hầu hết các nước khác, New Zealand đã có thay
đổi lớn trong cơ chế kiểm soát tiền tệ trong thời gian này ra khỏi mục tiêu số
lượng (giải quyết số dư tiền mặt) và hướng tới mục tiêu giá (lãi suất) dựa trên
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 2
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
thiết lập OCR. Mặc dù theo một trong hai chế độ chính sách truyền tải tiền tệ
đó thì cũng hoạt động chủ yếu qua lãi suất. Vấn đề đặt ra là xác định ở phạm
vi nào sẽ có sự thay đổi về mức độ và tốc độ điều chỉnh của sự truyền dẫn
thấu (từ các công cụ chính sách tới lãi suất bán lẻ) và ứng dụng là mức độ
hiệu quả của cơ cấu kiểm soát tiền tệ. Chúng tôi cho rằng dưới chế độ giá, vai
trò của lãi suất trong cơ chế truyền dẫn sẽ trở nên minh bạch hơn. Quyết toán
số dư tiền mặt không giống như lãi suất (và tỷ giá hối đoái), nó không có mối
quan hệ ổn định với thu nhập danh nghĩa hoặc lạm phát và thường dẫn đến
biến động lãi suất cao hơn đáng kể so với mục tiêu lãi suất. Còn trong chính
sách mục tiêu số lượng, có lợi thế về điều hành nhất định khi có sức đệm lớn
hơn so với khả năng lạm phát theo mức lãi suất mục tiêu. Điều này cũng tạo
phản ứng nhanh chóng quan tâm đến tốc độ trong thời kỳ lạm phát cao hoặc
thay đổi (xem Spencer, năm 1992).
• Lý do thứ ba liên quan đến việc New Zealand là một trong những nước nợ
nhiều nhất các quốc gia OECD và khu vực hộ gia đình có tỷ lệ tiết kiệm âm.
Ngành ngân hàng dựa vào nguồn vay nước ngoài là chủ yếu và quan trọng
hơn, đó là hiệu quả của chính sách tiền tệ khi có rò rỉ trong hệ thống. Theo số
liệu thống kê chính thức của Ngân hàng dự trữ New Zealand, tháng 3 năm
2005, nợ nước ngoài khu vự tư nhân là NZ $ 149 tỷ, hoặc 101% GDP của
New Zealand gấp 8,8 lần so với nợ nước ngoài của Chính phủ (NZ $ 17 tỷ,
hoặc 12% GDP).Trong khi khu vực kinh doanh đã tăng gửi tiết kiệm (vì lợi
nhuận cao) thì gửi tiết kiệm của hộ gia đình suy giảm đều. Khu vực hộ gia
đình ở New Zealand có tỷ lệ tiết kiệm thấp nhất trong số các nước OECD.
Theo thống kê, hộ gia đình trung bình ở New Zealand không dư ra bất kỳ
khoản nào từ thu nhập hiện tại nhưng thay vào đó quá chi khoảng 12% thu
nhập bình quân hằng năm. Nợ thế chấp dân cư chiếm 90% tổng số nợ của hộ
gia đình, chiếm 50% tổng danh mục cho vay tài chính của các công ty. Hậu
quả của sự thiếu hụt tiết kiệm địa phương, các ngân hàng New Zealand ngày
càng vay vốn bán buôn từ thị trường nước ngoài để đáp ứng nhu cầu đối với
các khoản thế chấp có thể có một số tác động đến mối quan hệ giữa OCR và
lãi suất thế chấp cố định.Phát hiện của chúng tôi cho thấy sự truyền dẫn trong
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 3
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
dài hạn của lãi suất thị trường với mức lãi suất bán lẻ khác nhau cũng khác
nhau giữa các sản phẩm tài chính. Một số lãi suất hiển thị sự chuyển giao đầy
đủ trong khi những tỉ lệ khác thì không. Việc truyền dẫn trong ngắn hạn và
việc điều chỉnh tốc độ cũng khác nhau giữa các sản phẩm. Chúng tôi không
tìm thấy bằng chứng cho rằng các ngân hàng ở New Zealand điều chỉnh mức
giá (lãi suất) của họ (bao gồm các mức lãi suất tiền vay và tiền gửi) tăng lên
chậm hơn so với khi họ điều chỉnh xuống. Việc ra mắt OCR đã làm tăng
truyền dẫn dài hạn của các mức lãi suất tiền gửi cố định và thả nổi, nhưng lại
không có tác động nào đến các mức lãi suất khác.
2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI NEW ZEALAND
Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) (ngân hàng trung ương New Zealand),
chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ một cách độc lập nhằm đạt sự ổn
định giá được quy định trong Hiệp định các mục tiêu chính sách (PTA). PTA là
một hợp đồng mang tính cộng đồng và cụ thể được đàm phán giữa Thống đốc
Ngân hàng Dự trữ và Bộ trưởng Bộ Tài chính đại diện từ phía Chính phủ. Nó là
một phần quan trọng của khuôn khổ chính sách tiền tệ như được quy định trong
Luật Ngân hàng Dự trữ năm 1989. PTA hiện nay được ký kết vào tháng 9 năm
2002, yêu cầu Ngân hàng Dự trữ giữ lạm phát ở mức được đo bằng sự gia tăng
hàng năm của chỉ số giá tiêu dùng trung bình từ 1 đến 3% trong trung hạn.
Trong các PTA 1990 và 1993, việc bình ổn giá cả được xác định bằng 0 đến 2%
lạm phát trong thời gian một năm. Mức mục tiêu đã được mở rộng đến 0-3%
trong PTA tháng 12 năm 1996. Bởi vì lạm phát đã thực sự vượt qua phạm vi mục
tiêu trong 2 năm gần đây tại điểm đó và không bao giờ dưới 1%, nên mức mục
tiêu mới về bản chất đã không thể hiện cho một thay đổi chủ yếu. Tuy nhiên, khó
khăn nhằm giữ lạm phát nằm trong mức mục tiêu đã buộc Ngân hàng Dự trữ tại
thời điểm đó tạo nên một sự thay đổi chính yếu trong xây dựng chính sách.
Trước đây, Ngân hàng đã thiết lập chính sách để tránh chệch ra ngoài mức mục
tiêu cho một năm kế tiếp. Điều đó đã tạo ra rằng việc đánh giá chủ yếu dựa trên
mức độ truyền dẫn trực tiếp từ những mức giá nước ngoài thông qua các tỉ giá
hối đoái tác động vào lạm phát ( tham khảo Huang, Margaritis và Mayes, 2001).
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 4
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Điều này tác động đến việc thiết lập các mức tỷ giá hối đoái như là một mục tiêu
trung gian. Sau đó, Ngân hàng hướng đến đưa lạm phát vào giữa các phạm vi
mục tiêu cho 6 đến 8 quý tới. Sự khác biệt trong việc tiếp thu một nhận thức
chính sách lâu dài hơn và việc hướng đến vị trí giữa phạm vi thể hiện một sự thay
đổi lớn trong đường lối chính sách này đã được lập ra.
Từ 07/1997 đến 03/1999, RBNZ đã sử dụng một chỉ số trạng thái của chính sách
tiền tệ (MCI) như một công cụ truyền đạt những yêu cầu chính sách tiền tệ của
mình.
Kể từ tháng 03/ 1999, RBNZ đã thay đổi công cụ cơ bản của chính sách từ việc
quản lý lượng tiền mặt vay qua đêm đến thiết lập lãi suất (OCR).Lãi suất này
được xem xét lại tám lần một năm.
Không giống như hầu hết các quốc gia, New Zealand đã không thiết lập một mức
lãi suất như thế từ trước cho đến năm 1999. Thay vào đó, RBNZ tác dộng đến
điều kiện thị trường bằng cách xác định lãi suất chiết khấu ngân hàng 90 ngày
vốn gắn chặt với việc bình ổn giá - ban đầu là sự kết hợp với một phạm vi cho tỷ
giá hối đoái và từ cuối năm 1996 trong điều khoản chỉ số trạng thái của chính
sách tiền tệ được kết hợp cả hai trong một phương pháp đơn.
Mặc dù nó đạt được bất kỳ mức lãi suất thị trường nào đưa ra bằng cách sử dụng
kiểm soát số lượng trên thị trường qua đêm – nó thiết lập một mục tiêu tiền mặt
cho các hoạt động thị trường hàng ngày – Ngân hàng thường không phải sử dụng
những công cụ nêu trên để đạt được điều kiện thị trường mà họ mong muốn. Sự
kết hợp các mối đe dọa rằng họ có thể hành động và những báo cáo giải trình
những gì được yêu cầu kết hợp lại chính là phương tiện đã đủ đầy để đạt các mục
tiêu chính sách.
Do đó, ngân hàng thiết lập chính sách thông qua những gì thường được mô tả là
“Những hoạt động mở miệng "(Guthrie và Wright, 2000). Thông thường các báo
cáo chính sách tiền tệ hàng quý là phương tiện được sử dụng nhưng trong giữa
những quý đó nếu có những cú sốc hay là thị trường đã đi quá xa thì chính phủ
hay các thành viên cấp cao của ngân hàng đưa ra bản báo cáo vắn tắt nói về
những gì Ngân hàng muốn. Những thay đổi bất ngờ hiếm khi xảy ra và thường
các thiết lập của Ngân hàng sẽ thay đổi chuyển động thị trường. Bằng sự thay đổi
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 5
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
là thiết lập OCR, Ngân hàng đã tiếp nhận mức lãi suất tiền mặt truyền thống hơn
là vì mục tiêu số lượng.
Hệ thống OCR đơn giản hơn và có thể được hiều dễ dàng. Nó hoạt động như sau:
khi một OCR được công bố, Ngân hàng Dự trữ chuẩn bị trả cho các tổ chức tài
chính dưới OCR một mức lãi suất 0,25 % điểm cho lượng tiền gửi của họ tại
Ngân hàng dự trữ và cũng chuẩn bị một khoản tiền mặt cho vay qua đêm đối với
ngân hàng để chống lại bảo hiểm tốt tại mức lãi suất 0.25% trên mức OCR
0.25% điểm . Quan trọng hơn, không có giới hạn về số lượng tiền mặt sẵn sàng
thêm vào hoặc lấy ra tại mức trên và dưới OCR 0.25% điểm. Khi ngân hàng
trung ương hoạt động như một người tạo lập thị trường trong thị trường tiền tệ
ngắn hạn mà không có bất kỳ giới hạn nào với lượng tiền giao dịch, không có
ngân hàng thương mại nào có thể đưa ra các khoản vay ngắn hạn tại một lãi suất
cao hơn đáng kể so với OCR. Trong một hệ thống tài chính cạnh tranh, các ngân
hàng khác sẽ cắt giảm khoản vay từ ngân hàng xuống mà thay vào đó vay từ
Ngân hàng Dự trữ. Tương tự, một tổ chức tài chính không thích cho vay ngắn
hạn ở mức lãi suất thấp hơn nhiều so với OCR vì nó có thể cho Ngân hàng dự trữ
vay ở mức OCR mà không có bất kì rủi ro tín dụng nào.
Bằng cách cho vay hoặc đi vay tiền qua đêm với số lượng không giới hạn, Ngân
hàng dự trữ có thể để duy trì tỷ lệ lãi suất liên ngân hàng ngắn hạn ở mức OCR
của Ngân hàng. Bằng thiết lập OCR, Ngân hàng Dự trữ có thể ảnh hưởng đáng
kể đến các loại lãi suất ngắn hạn, như tỉ lệ chiết khấu 90 ngày, thế chấp thả nổi
… OCR cũng có thể ảnh hưởng đến lãi suất bán lẻ khác mà được quản lý bởi các
ngân hàng thương mại và các loại các tổ chức tài chính khác.
Kết quả là, những thay đổi trong OCR sẽ ảnh hưởng đến mức độ tổng thể của
hoạt động kinh tế trong nước và cả lạm phát. Tuy nhiên, quá trình này cần có thời
gian với nhịp điều chỉnh tốc độ của tiến trình thay đổi theo các sản phẩm và theo
thời gian.
3. SỰ CỨNG NHẮC TRONG ĐIỀU CHỈNH QUY TRÌNH LÃI SUẤT
Khi xảy ra những thay đổi trong lãi suất chính sách tiền tệ hoặc lãi suất thị trường
tiền tệ bechmark, việc điều chỉnh lãi suất bán lẻ của các tổ chức tài chính là
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 6
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
không tự phát và tính truyền dẫn (pass-through) có thể không đầy đủ .Trong
những tài liệu khoa học của Tổ chức công nghiệp, hiện tượng tương tự trong thị
trường hàng hóa được gọi là độ cứng giá hay giá dính hay giá cả bất biến. Sự
cứng nhắc (kìm hãm biến động) trong quá trình điều chỉnh tỷ lệ lãi suất là do một
số yếu tố, bao gồm:
• Chi phí Thực đơn/Báo giá cố định,
• Chi phí chuyển đổi cao,
• Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
• Thông tin bất đối xứng.
Theo giả thuyết chi phí thực đơn, các ngân hàng không muốn thay đổi lãi suất
của họ nếu những thay đổi của lãi suất cơ bản rất nhỏ hoặc/và mang tính nhất
thời (Dutta et al.,1999).Vì chi phí điều chỉnh có liên quan đến thay đổi lãi suất
bán lẻ cho khách hàng , các ngân hàng có thể chậm rãi đáp ứng sự thay đổi nhất
thời trong chính sách tỷ giá tiền tệ, nhưng lại thay đổi nhanh chóng trước sự thay
đổi trường cửu của chính sách lãi suất.
Theo giả thuyết chi phí chuyển đổi, khi có chi phí chuyển đổi cao, khách hàng
không có khả năng chuyển đổi các sản phẩm tài chính và / hoặc các tổ chức tài
chính để tìm kiếm tài trợ hoặc đầu tư tốt hơn hay thời hạn đầu tư hợp lý hơn
(xem Heffernan, 1997). Khách hàng cần phải dành nhiều thời gian và công sức
để tìm ra ngân có đề nghị tốt nhất và có thể thấy quá bất tiện và / hoặc quá tốn
kém để chuyển đổi ngân hàng. Ví dụ, trong trường hợp thanh toán trước các
khoản cho vay và thu hồi sớm của tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng, một số
ngân hàng có thể tính một khoản phí để làm cho nó tốn kém để ngăn bớt khách
hàng thực hiện những tùy chọn đó. Lãi suất cứng nhắc có thể trực tiếp giúp các
ngân hàng có thêm cơ hội khai thác vào tính ỳ của người tiêu dùng trong việc
chuyển đổi sản phẩm và / hoặc các tổ chức tài chính. Nếu các ngân hàng có thể
định giá chọn lọc sản phẩm của họ để khai thác tính ỳ của khách hàng, thì lãi suất
tiền gửi được dự kiến sẽ trở lên thêm cứng , nhưng lại giảm độ cứng nhắc xuống
với các khoản vay. Nói cách khác, các ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất huy
động lên chậm hơn và điều chỉnh xuống lãi suất cho vay của họ chậm hơn. Điều
này sẽ dẫn đến sự bất đối xứng ở tốc độ điều chỉnh lãi suất.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 7
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Theo giả thuyết cạnh tranh không hoàn hảo, vì sự thông đồng sắp xếp giá giữa
các ngân hàng, điều chỉnh lãi suất ở các thị trường không cạnh tranh có thể là bất
đối xứng, nghĩa là lãi suất huy động dự kiến sẽ trở lên cứng nhắc, trong khi lãi
suất cho vay được dự kiến sẽ bớt cứng nhắc (xem Hannan vàBerger,năm 1991,
Neuman và Sharpe, 1992).
Cuối cùng, theo giả thuyết thông tin bất đối xứng, các ngân hàng phải đối mặt
với cả hai lựa chọn bất lợi và các vấn đề rủi ro đạo đức khi họ được yêu cầu tăng
lãi suất cho vay để đáp ứng với tăng lãi suất thị trường (xem Stiglitz và Weiss,
1981). Sự hiện diện của chi phí môi giới làm cho nhiều ngân hàng muốn tăng lãi
suất cho vay đáng kể trong một khoảng thời gian ngắn. Lãi suất cho vay cao hơn
làm cho khách hàng vay thanh toán các khoản nợ khó khăn hơn, dẫn đến các
khoản vay có vấn đề và vỡ nợ. Các ngân hàng sẽ ngại tăng lãi suất vay trừ khi tỉ
lệ lợi nhuận của họ đang chịu áp lực và lãi suất thị trường dự kiến sẽ duy trì ở
mức cao. Thay vào đó, các ngân hàng có nhiều khả năng là hạn chế số lượng tín
dụng mở rộng cho khách hàng vay khi đang chịu một áp lực lên lãi suất cho vay.
Kết quả là, lãi suất cho vay được dự kiến sẽ trở lên cứng nhắc theo mô hình
thông tin bất đối xứng.
Sự kết hợp của các yếu tố trên có thể đóng một vai trò khác nhau trong quá trình
điều chỉnh lãi suất bán lẻ ngắn hạn và dài hạn. Ví dụ, chi phí thực đơn và chuyển
đổi có nhiều khả năng là yếu tố chính ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh ngắn hạn
trong khi cạnh tranh không hoàn hảo và thông tin bất đối xứng có nhiều khả
năng là yếu tố chính ảnh hưởng đến việc truyền dẫn (Pass-through) dài hạn
(xem Bondt, 2002).
Vì vậy nó trở thành một vấn đề kinh nghiệm thực tế cho việc lãi suất huy động và
lãi suất cho vay trở lên cứng nhắc nhiều hơn hoặc ít hơn. Hơn nữa, sự cứng nhắc
về lãi suất bán lẻ có khả năng khác biệt giữa các sản phẩm tài chính khác nhau.Ví
dụ, sự khác biệt đó có thể được ghi nhận giữa sự khác biệt của lãi suất cho vay so
với lãi suất tiền gửi, lãi suất thế chấp thả nổi so với lãi suất thế chấp cố định, lãi
suất ngắn hạn so với lãi suất dài hạn, tùy thuộc vào mức độ tương đối của tính ỳ
của khách hàng hoặc ảnh hưởng của chi phí chuyển đổi. Ví dụ tính ỳ của khách
hàng có thể khác nhau khi tham gia tiền gửi tiết kiệm so với tiền gửi có kỳ hạn.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 8
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Hannan và Berger (1991) và Neuman và Sharpe(1992) là người đầu tiên
nghiên cứu tính cứng nhắc của lãi suất huy động.Trong khi giả định sự đầy đủ và
ngay lập tức tính truyền dẫn của lãi suất cho vay bán lẻ, họ tìm hiểu tác động của
sức mạnh thị trường trong thị trường tiền gửi trên độ cứng nhắc của lãi suất huy
động tại Hoa Kỳ. Họ phát hiện ra điều chỉnh bất đối xứng trong lãi suất huy
động, tức là, các ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động theo hướng lên với tốc
độ chậm hơn so với họ điều chỉnh xuống dưới và do đó đóng góp vào sức mạnh
ngân hàng trong thị trường tiền gửi.
Cottarelli và Kourelis (1994) là người đầu tiên nghiên cứu tính hấp thụ/thông
qua của lãi suất cho vay bán lẻ. Họ sử dụng một Mô hình Auto regressive
distributed lag (ADL) (Tự động phân bổ trễ), họ kiểm tra mức phản ứng thị
trường của lãi suất cho vay ở cả các nước phát triển và đang phát triển khi thay
đổi lãi suất thị trường. Họ nhận thấy rằng mức truyền dẫn của lãi suất có sự
khác biệt giữa tất cả các quốc gia và rằng độ độ cứng nhắc của lãi suất cho vay
có thể được giảm bởi một số yếu tố: sự tồn tại của một thị trường đối với những
công cụ có thể thanh toán bằng tiền (chứng khoán, hối phiếu, ngân phiếu )
ngắn hạn, thị trường tiền tệ có lãi suất biến động ở mức độ thấp, và rào cản xâm
nhập / cạnh tranh tương đối yếu.
Paisley (1994) và Heffernan (1997) xem xét mối quan hệ giữa lãi suất thị
trường và mức lãi suất bán lẻ ở Anh.Trong khi Paisley (1994) đã không tìm thấy
đầy đủ thông tin về mức truyền dẫn của lãi suất thế chấp cho các tổ chức xây
dựng xã hội của Anh, Heffernan (1997) tìm thấy đầy đủ về mức truyền dẫn của
tái trả nợ thế chấp nhưng không có thông tin đầy đủ của mức truyền dẫn cho các
tài khoản hiện tại và tài khoản tiết kiệm của các ngân hàng Anh và các tổ chức
xây dựng xã hội. Hofmannvà Mizen (2004) đã nghiên cứu 13 sản phẩm tiền gửi
và các sản phẩm thế chấp của các cá nhân các tổ chức tài chính Anh bằng cách sử
dụng một mô hình phi tuyến tính và tìm thấy hoàn toàn mức độ truyền dẫn lãi
suất huy động nhưng còn thiếu lãi suất thế chấp cầm cố.
Mojon (2000) đã nghiên cứu tác động ngắn hạn lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi trong 5 quốc gia thuộc khối liên minh châu âu ( Bỉ, Đức, Pháp, Hà Lan, và
Tây Ban Nha)Giả định có đầy đủ tác động trong dài hạn. Ông ta thấy rằng lãi
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 9
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
suất bán lẻ biến đổi chậm chạp trong thi trường tiền tệ, lãi suất dài hạn thì thay
đổi chậm hơn so với lãi suất ngắn hạn, có một bất cân xứng trong mức độ của tác
động. Tác động của lãi suất cho vay thì cao hơn khi lãi suất thị trường tăng, và
giảm khi lãi suất suất thị trường giảm.
Bondt (2002) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa trái phiếu chính phủ và lãi suất
tiền gửi và cho vay. Ông thấy rằng tác động là hoàn hảo cho hầu hết các khoản
lãi suất cho vay, nhưng nó không hoàn hảo trong tác động của cả lãi suất tiền
gửi và cho vay .
Kleimeier và Sanderr (2005) nghiên cứu tác động trong khu vực ngân hàng bán
lẻ ở châu âu và thấy rằng lãi suất cho vay thay đổi nhanh hơn khi thị trường tiền
tệ được dự đoán là tăng trưởng.
Chong và các cộng sự (2005) kiểm tra lãi suất huy động của những kỳ hạn khác
nhau và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại và công ty tài chính ở
Singapore và phát hiện rằng cấu trúc tài chính điều chỉnh lãi suât tăng chậm hơn
là điều chỉnh xuống. họ cũng đã chứng minh rằng tốc độ điều chỉnh cũng sẽ khác
nhau giữa các sản phẩm tài chính và giữa các ngân hàng hay các công ty tài
chính. Họ không tìm thấy tác động hoàn hảo này về lãi suất tiền gửi.
4. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG:
Trong phần nghiên cứu ngày, chúng tôi nghiên cứu cả tác động dài hạn và tác
động ngắn hạn của chính sách lãi suất tiền tệ tới lãi suất tiền gửi của các sản
phẩm bán lẽ cũng như tốc độ điều chỉnh ngắn hạn và dài hạn
Mối quan hệ dài hạn của lãi suất tiền gửi bán lẻ và lãi suất cơ bản là:
Yt : lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay
X1 : Chính sách tương thích hay lãi suất thị trường
E1: sai số
α0 và α1 là các thông số dài hạn
Các dãy số của lãi suất tiền gửi được dự kiến là được tích hợp .
Các biến và sai số : ở trạng thái tĩnh
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 10
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Trong nghiên cứu của Rousseas (1985), α0 đo lường Markup còn α1 đo lường
mức độ truyền dẫn trong dài hạn
Sự truyền dẫn trong dài hạn là hoàn toàn nếu α1 thống kê không khác 1
Chúng ta ước lượng phương trình (1) sử dụng phương pháp Phillips – Loretan
(1991). Phương pháp này phù hợp cho ước lượng trong mối quan hệ dài hạn liên
quan đến các biến tích hợp ở đó tính động đóng một vai trò quan trọng trong
DGP(Date generation process) của Yt, đó là chuẩn của phương trình sau
Chúng ta có thể ước lượng phương trình (1a) bằng cách sử dụng phương pháp
phương trình đơn, và thêm biến thích hợp vào phương trình,thì tính chất tiệm cận
của ước lượng và phân phối có thể dễ dàng xác định được.Những tính chất này lệ
thuộc hoàn toàn vào mối tương quan giữa biến u1t và u2t, được giả định ở trạng
thái tĩnh.
Nếu ma trận phương sai-hiệp phương sai ut là khối đường chéo và ut cũng là
phân phối độc lập và giống nhau thì phương trình (1a) các thể được ước lượng
bằng phương pháp bình phương bé nhất
Ứớc lượng này thuộc phân phối chuẩn, tại điểm tiệm cận nhất, và nó là tương
đương với giá trị ước lượng lớn nhất của thông số của hệ thống. Kết quả này thì
quan trọng vì nó đưa ra kết luận thống kê bằng cách sử dụng những bảng phân
phối chuẩn cùng với các biến tích hợp.
Nếu ma trận phương sai-hiệp phương sai u
t
là khối đường chéo nhưng phần dư là
hồi quy tự tương quan (ngoại trừ khối đường chéo), có thể được tăng lên với mô
hình sửa sai độ trễ, làm mất tác dụng tự tương quan của u
1t.
Điều này giải quyết
được bởi vì hồi quy –X
t
– làm biến siêu ngoại sinh. Đó là những biến độc lập của
quá khứ và tương lai của u
1t.
, đó là trực giao tới { u
1
}
+∞
t=-∞
Nếu u1t và u2t tương quan với nhau 1 làm giảm bớt các vấn đề bằng cách tăng
hồi quy với độ vượt trội và độ trệ Δx
t .
Một là có thể ước lượng u
1t
chống lại độ
vượt trội và độ trễ của u
2t
và sau đó đưa ra định lý Frisch-Waugh-Lovel.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 11
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Sai số từ phản ánh chiếu thì không tương quan với u
2t
và vì vậy vấn đề nội sinh
hay đương thời thì tương quan nhau. Bao gồm phần sau ước lượng độ vượi trội
từ u
1t
trở lại u
2t
và nó quan trọng đối với điều kiện giá trị. Vấn để cơ bản là chúng
ta không biết liệu u
1t
có tương quan đến độ trễ u
2t
hoặc ngược lại.
Sự bao gồm sự khác biệt về độ trễ ước lượng những vấn đề nội sinh trong khi
vấn đề tự tương quan có thể đáp ứng được sữa chữa bởi độ trễ sửa sai. Sau đó
Phillips Loteran ước lượng phương trình sau bằng cách bình phương bé nhất.
Phillips và Loretan chứng minh rằng tham số này ước tính từ phương trình này là
tương đương với ước lượng maximum likelihood của hệ thống và do đó có hiệu
quả. Hơn nữa, các thông số không thiên vị tiệm cận và phân phối chuẩn. Ngược
lại, ước lượng OLS của phương trình (1) trong khi rất thích hợp thiên vị tiệm cận
hoặc phân phối chuẩn và thiên vị mẫu hữu hạn của nó có thể lớn và bền vững .
Một lợi thế nhất khi xem xét các đặc điểm kỹ thuật được đưa ra bởi (1c) thì nó lý
giải rõ ràng cho vai trò của sự bất ngờ chính sách quá khứ và thiết lập chính sách
trong tương lai dự kiến trong mối quan hệ giữa mức giá bán lẻ và các công cụ
chính sách.
Phương trình (1) là một mô hình dài hạn. Khi lãi suất chính sách tiền tệ thay đổi ,
các ngân hàng sẽ không điều chỉnh tỷ giá bán lẻ của họ ngay lập tức. Lãi suất
ngắn hạn dự kiến sẽ được điều chỉnh nhanh hơn so với mức lãi suất trung và dài
hạn vì sau đó phụ thuộc lãi suất ngắn hạn tương lai cũng như lãi suất ngắn hạn
hiện tại.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 12
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Để kiểm tra các động lực ngắn hạn thay đổi lãi suất có đáp ứng với thay đổi trong
lãi suất hoặc lãi suất thị trường tiền tệ, chúng tôi sử dụng phương pháp cấu trúc
sửa sai mà mô hình đó rõ ràng thay đổi cùng lúc khi chính sách thay đổi. Mô
hình sửa sai (ECM) tương ứng với mô hình ADL (p, q) được cho bởi:
trong đó Δ : sai phân biệt thứ nhất,
: : sự mất cân bằng tại thời điểm (t - 1) và phần dư
của mối quan hệ dài hạn được đưa ra bởi phương trình (1)
vt: là sai số
β0: đo lường lãi suất truyền dẫn tác động hoặc lãi suất tương đương.
βi và Γi là: hệ số điều chỉnh tính động
δ: tốc độ điều chỉnh sai số khi lãi suất cách xa mức cân bằng
δ : được mong đợi tiêu cực vì đặc tính trở lại giá trị trung bình của lãi suất. Các
phương trình tương tự có thể được quy định cụ thể để mô tả tính động của điều
chỉnh trong chính sách lãi suất (Δx
t
).
Độ trễ điều chỉnh trung bình (MAL) của truyền dẫn hoàn hảo đến mô hình tổng
thể ADL (p, q) hoặc tham số ECM tương đương của nó, có thể được tính bằng
cách sử dụng công thức được đưa ra trong Hendry (1995). Đối với các trường
hợp đặc biệt của một mô hình ADL (1,1),
Điều này giúp đơn giản hoá:
MAL = (Β0 -1) / δ (3)
MAL chỉ đơn giản là bình quân có điều chỉnh của tất cả các độ trễ. Nó đo lường
tốc độ điều chỉnh cùng với lải suất bán lẻ của nó phản ứng với sự chuyển động
trong chính sách lãi suất.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc điều chỉnh ngắn hạn có thể là bất đối xứng,
nói cách khác, tốc độ điều chỉnh khi lãi suất cao hơn trạng thái cân bằng có thể
khác khi lãi suất thấp hơn (xem Chong et al, 2005 và Scholnick,1996). Để kiểm
tra sự tồn tại của điều chỉnh bất đối xứng trong lãi suất bán lẻ tại New Zealand,
chúng tôi thêm một biến giả, λ, phương trình (2). λ = 1 nếu phần dư tích
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 13
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
cực và 0 nếu ngược lại. Sau đây là phương trình tính động ngắn hạn bất đối
xứng.
Trong đó:
δ2 : đo lường tốc độ điều chỉnh sửa sai khi lãi suất trên giá trị cân bằng của
chúng
δ3 : đo lường tốc độ điều chỉnh sửa sai khi lãi suất dưới giá trị cân bằng của
chúng.
Để kiểm tra sự tồn tại của điều chỉnh không đối xứng, chúng tôi sử dụng kiểm tra
Wald tiêu chuẩn để xác định nếu δ2 khác đáng kể với δ3.
Như với trường hợp điều chỉnh đối xứng, chúng ta có thể xác định độ trễ điều
chỉnh trung bình bất đối xứng (MAL) của truyền dẫn hoàn toàn bằng việc sử
dụng công thức trong Hendry (1995). Đối với các trường hợp đặc biệt của một
mô hình ADL (1,1), điều này được cho bởi :
MAL+ =(β0 -1) / δ2 (5)
MAL- = (β0 -1) / δ3 (6)
Trong đó:
MAL + : độ trễ điều chỉnh trung bình khi lãi suất bán lẻ cao hơn giá trị cân bằng
của chúng
MAL- : độ trễ điều chỉnh trung bình khi lãi suất bán lẻ thấp hơn giá trị cân bằng
của chúng.
Một số các nghiên cứu trước đây có liên quan của quốc tế và Việt Nam.
- Các học thuyết về chính sách truyền tải tiền tệ được giả định ngay tại thời
điểm nghiên cứu và đầy đủ tông tin về laĩ suất cơ bản những thay đổi với lãi suất
ngân hàng bán lẻ: Bernanke và Gerler năm 1995; Kashyap và Stein, 2000;
Astunbas et al, 2002.
- Các nghiên cứu gần đây cho rằng sự truyền dẩn có thể không đầy đủ và
vận tốc điều chỉnh có thể chậm lại. Các định chế tài chính và sản phẩm tài chính
khác nhau thì có mức độ truyền dẩn và điều chỉnh khác nhau. Hơn nữa, một số
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 14
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
nghiên cứu cũng cho thấy tốc độ điều chỉnh khác nhau phụ thuộc vào lãi suất
nằm ở dưới hay trên mức cân bằng dài hạn. ( Chong et al, 2005; Kleimeier và
Sander, 2005).
- Nguyễn Phi Lân, Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định
lượng.
- Monetary policy transparency: transparent about what? Daniel L.
Thornton
5. DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
5.1 Dữ liệu
Chúng tôi sử dụng hàng loạt lãi suất hàng tháng từ hai nguồn. Ngân hàng thương
mại ở New Zealand : các lãi suất cố định thế chấp kỳ hạn 1-3 năm ,phần còn lại
của dữ liệu, Ngân hàng Dự trữ New Zealand :các sở lãi suất cho vay cơ bản, thế
chấp lãi suất thả nổi và các lãi suất tiền gửi sáu tháng, OCR và lãi suất qua đêm
liên ngân hàng. Thời gian lấy mẫu là từ tháng 8 năm 1994 đến tháng 12 năm
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 15
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
2004, bao gồm một khoảng thời gian trên 10 năm. Kích thước mẫu là 125 cho
hầu hết các lãi suất.
Bảng 1 cung cấp các số liệu thống kê mô tả cho các dữ liệu mẫu. Hình A mô tả
cho toàn bộ các mẫu và hình B cho thấy những mẫu con sau khi OCR được giới
thiệu bao gồm giai đoạn tháng 3 Năm 1999 đến tháng 12 năm 2004. Lãi suất thế
chấp cố định trung bình khá liên quan đến thời gian đáo hạn, cho thấy một đường
cong lãi suất lên dốc. Bảng B cũng cho thấy rằng độ lệch chuẩn của tỷ lệ lãi suất
ở New Zealand đã giảm đáng kể với việc giới thiệu của OCR. Trước đây, các
biến động hàng tháng của lãi suất cao hơn nhiều, hơn 1% cho hầu hết các lãi suất,
với lãi suất qua đêm liên ngân hàng có lãi suất biến động hàng tháng cao nhất ở
1,72%. Sau khi OCR được giới thiệu, lãi suất trở nên ổn định hơn trước, sự biến
động hàng tháng của tất cả các mức giá giảm khoảng 0,6 đến 0,75%.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 16
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Các cặp lãi suất khôn ngoan tương quan giữa các mức lãi suất khác nhau được
báo cáo trong bảng 2. OCR được đánh giá tương quan với lãi suất thế chấp thả
nổi , lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay cơ sở nhưng ít tương quan với
các khoản thế chấp lãi suất cố định. OCR cũng tương quan với lãi suất qua đêm
liên ngân hàng
Bắt đầu vào Tháng 03/1999 khi mới bắt đầu triển khai.
5.2 Kiểm định thuộc tính biến tĩnh và tính đồng liên kết.
Trước khi tiến hành kiểm định tính đồng liên kết, chúng ta cần xác định những
biến chuỗi lãi suất riêng lẽ có là trạng thái (processes) nghiệm đơn vị (unit root)
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 17
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
và (vì vậy) các khác biệt thứ nhất của chúng (their first – difference) cũng sẽ là
chuỗi biến tĩnh. Chúng ta kiểm định giả thuyết đảo (null hypothesis – tức là giả
thuyết ngược với những gì mà nhà nghiên cứu tin là sự thật) của nghiệm đơn vị
có chống lại giả thuyết phụ (alternative hypothesis - tức là giả thuyết mà nhà
nghiên cứu nghĩ là sự thật, và đó là điều cần chứng minh bằng dữ kiện) của thuộc
tính biến tĩnh bằng cách sử dụng phương pháp Phillips – Perron (PP) và Dickey –
Fuller mở rộng (ADF). Những kết quả của quá trình kiểm định thuộc tính biến
tĩnh cho nhiều chuỗi biến lãi suất khác nhau được tóm tắt trong Bảng 3. Cho một
cấp độ của chuỗi, kết quả chỉ ra rằng chúng ta không thể loại bỏ giả thuyết là tất
cả chuỗi đều là nghiệm đơn vị không tĩnh ở mức ý nghĩa 1%, và những chuỗi
khác biệt thứ nhất của chúng là biến tĩnh ở mức ý nghĩa 1%. Ngoại trừ biến
OCR, những khác biệt thứ nhất của chúng là biến tĩnh ở mức ý nghĩa 5% khi
kiểm định ADF.
Những kết quả của việc kiểm định tính đồng liên kết được báo cáo ở Bảng 4 với
việc sử dụng phương pháp kiểm định vết ma trận của Johansen (Johansen’s Trace
test). Kết quả kiểm định Johansen chỉ ra rằng tất cả những chuỗi riêng lẻ là đồng
liên kết với lãi suất liên ngân hàng.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 18
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
5.3 Sự chuyển dịch và thay đổi cấu trúc dài hạn.
Chúng ta đã giả định rằng lãi suất liên ngân hàng qua đêm (overnight interbank
interest rate) thì đồng liên kết với lãi suất riêng lẻ khác nhau, chúng ta sau đó ước
lượng sự chuyển dịch dài hạn cho tất cả các mẫu. Những kết quả cho hàm ước
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 19
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
lượng Phillips-Loretan và hàm ước lượng OLS được trình bày trong Bảng 5. Kết
quả chỉ ra rằng ước lượng Phillips-Loretan về căn bản khá khác so với ước lượng
OLS. Vì vậy, những kết quả OLS, đặc biệt là giá trị t (t-values), cần được giải
thích với sự cẩn trọng. Mặt khác, từ Bảng 4 và 5, chúng ta có thể thấy rằng ước
lượng Phillips-Loreten thì khá tương tự với những kết quả đạt được bằng cách
sử dụng bảng thống kê mô hình Johansen hai biến (bivariate – VAR)
Trên chu kỳ lấy mẫu toàn bộ, kiểm định thống kê chi bình phương (X2) và giá trị
p trong hai cột cuối của Bảng 5 đưa đến kết quả chỉ ra rằng sự chuyển dịch dài
hạn là chưa đầy đủ với tất cả các chuỗi, ngoại trừ lãi suất vay thả nổi và cố định 1
năm ở mức 5%. Hệ số độ nghiêng (slope coefficient) là trong vùng từ 58.8% đến
93.4% (chuyển dịch). Nhìn chung, mức độ của truyền dẫn dài hạn đối với lãi suất
bán lẻ ngắn hạn thì cao hơn mức độ truyền dẫn dài hạn đối với lãi suất bán lẻ dài
hạn. Nó phù hợp với giả thuyết kỳ vọng của cấu trúc giới hạn của lãi suất. Vì
OCR là lãi suất qua đêm, nó tương quan với lãi suất ngắn hạn hơn là lãi suất dài
hạn. Lãi suất dài hạn thì bị ảnh hưởng không chỉ bởi lãi suất ngắn hạn hiện tại mà
còn bởi lãi suất ngắn hạn trong tương lai.
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 20
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Vì sự thay đổi đối với OCR vào tháng 3 năm 1999 đã đại diện 1 sự thay đổi lớn
hơn trong chính sách tiền tệ của New Zealand, chúng tôi sẽ kiểm tra tiếp nếu có
sự thay đổi cấu trúc liên quan đến giới thiệu công cụ chính sách tiền tệ. Kiểm tra
biến dummy chuần được sừ dụng để kiểm tra tính ốn định bất biến và hệ số
phạm vi của phương trình. Biến dummy (D) đạt giá trị 0 giữa tháng 8 năm 1994
và tháng 2 năm 1999 (vd : trước khi giới thiệu OCR) và giá trị biến dummy giữa
tháng 3 năm 1999 và tháng 12 năm 2004( sau khi giới thiệu ). Kết quả kiểm tra
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 21
Môn TCQT GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
về luân chuyển dài hạn được thể hiện bảng 6:
Kết quả cho thấy rằng trước khi giới thiệu OCR vào năm 1999, mức độ dài hạn
của luân chuyển vốn cho tất cả hàng dãy này năm trong khoảng 52.6% đến
67.4%, không cái nào trong chúng trì hoàn thành. Trong việc so sánh, sau khi
giới thiệu OCR, mức độ luân chuyển vốn cho lãi suất thế chấp thả nổi, lãi suất
cho vay cơ bản và lãi suất tiền gửi 6 tháng tăng lên, nhưng lãi suất thế chấp cố
định 1-3 năm không thay đổi đáng kể ( ít nhất không về mặt thống kê ). Thật ra,
về mặt thống kê thì mức độ luân chuyển vốn được hoàn thành đối với lãi suất thả
nổi và cơ bản tại mức 5% và đối với lãi suất tiền gửi 6 tháng tại mức 10% ( giá
trị P đối với kiểm tra giả thiết rằng tổng hệ số phạm vi bằng 1 trong bảng 6 tuần
Nhóm 5 TCDN Đêm 1 K20 Trang 22