Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

NHỮNG THẤT BẠI TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO: CHÚNG LÀ GÌ VÀ XẢY RA KHI NÀO?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.56 KB, 32 trang )

Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Môn Quản Trị Rủi Ro Tài Chính
Đề tài 1:
NHỮNG THẤT BẠI TRONG QUẢN TRỊ
RỦI RO: CHÚNG LÀ GÌ VÀ XẢY RA
KHI NÀO?
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Lớp: TCDN-K20 ĐÊM 1
Nhóm 11: Ngô Lê Việt Anh
Hồ Thị Hồng Hạnh
Nguyễn Thị Thu Hiền
Nguyễn Thị Thu Trang
TP.Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2012
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 1
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
DANH SÁCH NHÓM 11
STT HỌ TÊN NGÀY SINH KÝ TÊN
1 Ngô Lê Việt Anh 06/11/1985
2 Hồ Thị Hồng Hạnh 22/04/1976
3 Nguyễn Thị Thu Hiền 01/05/1986
4 Nguyễn Thị Thu Trang 03/09/1987
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 2
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
MỤC LỤC
I. Giới thiệu: 4
II. Tổng quan các nghiên cứu trước đây: 4
II.1. Stephen P.D’Arcy (2001): “Enterprise risk management (ERM)” 4


II.2. Brian W.Nocco (2006): “Enterprise risk Management: Theory and practice” 4
II.3. David Hillson (2006): “Integrated Risk management as a framework for organisational
success” 6
II.4. Gabriele Sabato - Royal Bank of Scotland "Financial Crisis: Where did risk management
fail?" 6
III. Phương pháp nghiên cứu: 7
IV. Nội dung và kết quả nghiên cứu: 7
IV.1. Nội dung nghiên cứu 7
IV.2. Kết quả nghiên cứu: 13
IV.3 Kết luận 25
V. Những giải pháp để khắc phục sự thất bại của Quản trị rủi ro sau cuộc khủng hoảng tài chính.
26
V.1. Georges Dionne (2009) : “ Structured Finance, Risk Management, and the Recent
Financial Crisis” 26
V.2.H.J. Blommestein ;Hoogduin ( 2009) : “Uncertainty and risk management after the Great
Moderation” 29
V.3. David M.Rowe (2010) “Risk Management after crisis” 30
V.4. Những giải pháp khác: 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 3
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
I. Giới thiệu:
Thế giới ngày càng trở nên bất ổn hơn, những bất ổn trong giá cả hàng hóa và các biến số tài
chính ngày càng thay đổi theo những chiều hướng khó có thể dự báo được. Thật vậy, liên tục
những dự báo sai lệch của các chuyên gia kinh tế hàng đầu giờ đây đã trở thành câu chuyện đàm
tiếu xuất hiện trên các mặt báo, với những tiêu đề đại loại như “Các nhà dự báo đã thất bại”…đã
xuất hiện không ít trên các phương tiện truyền thông. Và gần đây nhất, khi cuộc khủng hoảng tài
chính diễn ra, các nhà kinh tế đã không dự báo được và kéo theo hàng loạt những thiệt hai. Vậy
nguyên nhân nào dẫn đến những thất bại này. Chúng ta sẽ cùng khám phá và trả lời câu hỏi này

thông qua bài nghiên cứu: “Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi
nào”
Mục tiêu của bài nghiên cứu này là khái quát, phát họa những thất bại của quản trị rủi ro, chỉ
ra cho người đọc một cái nhìn đúng đắn hơn về quá trình quản trị rủi ro tài chính, hiểu
được khi nào việc quản trị rủi ro được xem là thất bại, nguyên nhân nào dẫn đến thất bại
này từ đó các doanh nghiệp có thể xây dựng cho mình một mô hình quản trị rủi ro hiệu
quả hơn.
II. Tổng quan các nghiên cứu trước đây:
II.1. Stephen P.D’Arcy (2001): “Enterprise risk management (ERM)”
Bài nghiên cứu đưa ra định nghĩa ERM là “quá trình mà các tổ chức trong tất cả
các ngành đánh giá, kiểm soát, khai thác, tài trợ và giám sát rủi ro phát sinh từ mọi nguồn
với mục đích gia tăng giá trị ngắn và dài hạn của doanh nghiệp cho các cổ đông”
II.2. Brian W.Nocco (2006): “Enterprise risk Management: Theory and practice”
Quản trị rủi ro tạo giá trị cho cổ đông như thế nào ?
ERM tạo ra giá trị thông qua các tác động của nó vào cả các công ty "vĩ mô" hoặc cấp toàn công
ty và một mức độ "vi mô" hoặc đơn vị kinh doanh. Ở tầm vĩ mô, ERM tạo ra giá trị bằng cách
cho phép quản lý cấp cao để định lượng và quản lý giữa rủi ro- lợi nhuận mà công ty phải đối
mặt. Bằng việc áp dụng việc quản trị này, ERM giúp công ty duy trì quyền tham gia vào các thị
trường vốn và các nguồn lực cần thiết để thực hiện chiến lược và kế hoạch kinh doanh.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 4
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Ở cấp độ vi mô, ERM trở thành một cách để cuộc sống cho các nhà quản lý và nhân viên ở tất cả
các cấp độ của công ty.Mặc dù tài liệu học thuật đã tập trung chủ yếu vào những lợi ích vĩ mô
của ERM, các lợi ích ở cấp vi mô là cực kỳ quan trọng trong thực tế. Như chúng ta đã tranh luận
dưới đây, một hệ thống được thiết kế tốt ERM đảm bảo rằng tất cả các rủi ro là "sở hữu", và
đánh giá một cách cẩn thận lợi nhuận và rủi ro, quản lý điều hành và nhân viên trên toàn công ty.
Lợi ích vĩ mô của việc quản trị rủi ro
Với quan điểm "thị trường hoàn hảo" rằng cổ đông có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của
riêng mình, giá trị của một doanh nghiệp không phụ thuộc vào "tổng" rủi ro của nó.Theo quan

điểm này, một chi phí vốn, đó là một yếu tố quyết định quan trọng của tỷ lệ P / E của nó, của
công ty phụ thuộc chủ yếu vào "thành phần không đa dạng hóa rủi ro đó (thường được đo bởi
một công ty" "hệ thống" hay beta "). Và điều này ngụ ý rằng những nỗ lực để quản lý tổng rủi ro
là một sự lãng phí tài nguyên. Nhưng doanh nghiệp trong thế giới thực, nơi mà thông tin của nhà
đầu tư là xa khỏi những rắc rối tài chính đầy đủ và có thể làm gián đoạn hoạt động của một công
ty, một kết quả xấu từ một rủi ro "đa dạng", một bất ngờ rớt giá của một đồng tiền hoặc giá cả
hàng hoá có thể ảnh hưởng ngay lập tức tiền mặt lưu lượng và thu nhập. Trong ngôn ngữ của các
nhà kinh tế, những rủi ro như vậy có thể có lớn "trọng tải" chi phí. Như vậy, sẽ dễ dẫn đến hiệu
ứng dây chuyền. Nên việc quản trị rủi ro của từng doanh nghiệp góp phần làm giảm rủi ro của
toàn hệ thống.
Lợi ích vi mô của việc quản trị rủi ro
Một trong những mục đích quan trọng nhất của một hệ thống quản trị rủi ro phân bổ vốn là để
cung cấp cho các nhà quản lý kinh doanh với nhiều thông tin về cách thức đầu tư của mình và
các quyết định điều hành có khả năng ảnh hưởng đến cả toàn công ty,hiệu suất và các biện pháp
mà theo đó sẽ được đánh giá hiệu suất của chúng. Khi kết hợp với một hệ thống đánh giá thực
hiện theo cách này, một phương pháp tiếp cận phân bổ vốn dựa trên rủi ro có hiệu quả lực lượng
các nhà quản lý kinh doanh để xem xét rủi ro trong quá trình ra quyết định của họ. Yếu tố rủi ro
của toàn quốc được cập nhật hàng năm như là một phần của quá trình lập kế hoạch chiến lược và
hoạt động, phản ánh những thay đổi trong rủi ro và đa dạng hóa. Thẩm quyền ra quyết định được
giao bằng phương tiện của một cấu trúc hạn mức rủi ro đó là phù hợp với khuôn khổ rủi ro toàn
quốc.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 5
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Trong bài viết này, nhóm tác giả đã thảo luận làm thế nào quản trị rủi ro doanh nghiệp tạo ra giá
trị cho các cổ đông và kiểm tra các vấn đề thực tế phát sinh trong việc thực hiện quảntrị rủi ro
doanh nghiệp. Mặc dù các nguyên tắc chính mà nền tảng lý thuyết của ERM được thành lập, bài
nghiên cứu này cần bổ sung để đưa ra những giải pháp giúp việc thực hiện ERM tốt hơn.
II.3. David Hillson (2006): “Integrated Risk management as a framework for organisational
success”.

Rủi ro được định nghĩa là “bất kỳ những biến cố hoặc tập hợp các sự kiện không chắc
chắn mà nếu xảy ra, sẽ ảnh hưởng lên một hay nhiều mục tiêu”.
Một quy trình QTRR điển hình bao gồm 6 bước sau:
 Lên kế hoạch QTRR
 Nhận định rủi ro
 Đánh giá/ phân tích rủi ro
 Triển khai đối phó rủi ro
 Giám sát rủi ro
 Xem xét lại rủi ro
II.4. Gabriele Sabato - Royal Bank of Scotland "Financial Crisis: Where did risk
management fail?".
Bong bóng thị trường bất động sản và các khoản vay thế chấp dưới chuẩn thường được
xác định là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng điều này không hoàn toàn đúng,
hoặc ít nhất chúng không thể coi là nguyên nhân chính. Một quy tắc quản lý nghèo nàn dựa trên
niềm tin rằng ngân hàng có thể được tin cậy để tự điều chỉnh là nguyên nhân chính của cuộc
khủng hoảng. Đồng thời, quản trị rủi ro tại các ngân hàng đã thất bại trong việc thực thi các quy
tắc cơ bản cho một giao dịch an toàn. Ví dụ, tránh mức độ tập trung mạnh mẽ và giảm thiểu biến
động của thu nhập. Mục đích của bài nghiên cứu này là xác định những lý do đằng sau thất bại
của quản trị rủi ro và cung cấp một cái nhìn làm thế nào để chúng được giải quyết và cải thiện
trong tương lai nếu chúng ta muốn xây dựng một hệ thống tài chính chắc chắn vững mạnh hơn.
Trong đó, tác giả kiểm tra các vấn đề sau: 1) Thiếu một chiến lược phân bổ vốn; 2) Tầm nhìn
không phù hợp về rủi ro; 3) Cơ cấu quản trị rủi ro không phù hợp.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 6
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
III. Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả đã sŠ dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với phân tích tình
huống thực tế (sự sụp đổ của LTCM) và dựa vào những quan sát thực tế của mình kết
hợp với các nghiên cứu về lý thuyết quản trị rủi ro để phát họa những thất bại của quản trị
rủi ro.

IV. Nội dung và kết quả nghiên cứu:
IV.1. Nội dung nghiên cứu
Một tổn thất lớn không phải là bằng chứng cho thất bại của quản trị rủi ro vì tổn thất lớn
có thể xảy ra ngay cả khi quản trị rủi ro là hoàn hảo. Tác giả cung cấp một hệ thống các thất bại
của quản trị rủi ro và cho thấy các loại thất bại của quản trị rủi ro xảy ra đa dạng như thế nào. Vì
các giới hạn của dữ liệu quá khứ trong việc đánh giá khả năng và hệ lụy từ khủng hoảng tài
chính, nên Tác giả kết luận rằng các thể chế tài chính nên sŠ dụng những kịch bản cho các nguy
cơ khủng hoảng tài chính thậm chí nếu như họ nhận thấy xác suất cho những biến cố này là cực
kỳ nhỏ.
Trong những bài bình luận về khủng hoảng tài chính bắt đầu trong suốt mùa hè năm
2007, một điệp khúc bất biến là không hiểu vì lý do gì mà quản trị rủi ro đã bị thất bại và có
những thất bại trong quản trị rủi ro tại những thể chế tài chính trên thế giới. Chẳng hạn như, một
bài báo trên tờ Financial Times đã trích dẫn: “Rõ ràng là có một sự thất bại ồ ạt trong quản trị rủi
ro gần như toàn bộ thị trường tài chính Mỹ.”
1
Trong bài báo này, Tác giả muốn phân tích xem
điều gì làm cho quản trị rủi ro bị thất bại. Bằng chứng là một thể chế tạo ra một tổn thất cực kỳ to
lớn không có nghĩa là quản trị rủi ro đã bị thất bại hoặc rằng thể chế đó đã phạm phải sai lầm.
Bài báo không xét đến khủng hoảng tài chính do cho vay dưới chuẩn hay những vấn đề ảnh
hưởng trực tiếp đến các thể chế tài chính trong suốt kỳ khủng hoảng. Hay nói đúng hơn là, nó
đang tìm cách để đảm bảo chắc chắn là có những lý do đúng nếu như đổ lỗi cho quản trị rủi ro.
Mặt khác, những thay đổi trong quản trị rủi ro xảy ra để phản ứng lại cuộc khủng hoảng thì có
thể có tác dụng ngược và ban điều hành và nhà đầu tư có thể giữ sự kỳ vọng từ quản trị rủi ro
nhiều hơn là những gì mà nó thật sự mang lại. Do đó, Tác giả chỉ ra rằng khi có kết quả xấu thì
1
“Thông điệp từ thị trường tài chính Mỹ: Trí tưởng tượng và sự khôn ngoan đã tạo ra sự thận trọng hơn,” viết bởi
David Wighton, 26/11/2007, FT.com.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 7
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1

có thể bị đổ lỗi và khi thì lại không. Trong quá trình đó, Tác giả cung cấp một hệ thống các loại
thất bại của quản trị rủi ro.
Để nghiên cứu thất bại quản trị rủi ro một cách cụ thể hơn, Tác giả trở về với vấn đề đã
gặp phải bởi quỹ đầu tư LTCM vào năm 1998 để phân tích làm thế nào có thể kết luận là thất bại
của LTCM là thất bại của quản trị rủi ro hay không. Tác giả sẽ đưa ra một vài sự kiện được quan
tâm đến trong các báo tài chính là thất bại quản trị rủi ro tài chính thật sự không phải là thất bại
trong quản trị rủi ro tài chính, đồng thời Tác giả sẽ phân tích nhiều cách khác nhau mà quản trị
rủi ro có thể thất bại. Sau đó Tác giả đề cập đến câu hỏi liệu có những bài học rút ra từ thất bại
quản trị rủi ro có thể dùng để cải thiện trong thực tiễn quản trị rủi ro hay không. Trong phần cuối
của bài báo này, Tác giả thảo luận một phương pháp tiếp cận quản trị rủi ro là có thể khiến cho
các thể chế quản trị rủi ro tốt hơn như những cái đã đe dọa chúng trong suốt kỳ khủng hoảng tài
chính cho vay dưới chuẩn.
Sự sụp đổ của Quỹ Quản lý vốn đầu tư dài hạn (LTCM) có phải là sự thất bại trong quản
trị rủi ro không?
Câu chuyện của Quỹ quản lý vốn đầu tư dài hạn (LTCM) thật nổi tiếng.
2
Năm 1994,
những cựu giao dịch viên của ngân hàng đầu tư Salomon Brothers và hai nhà chiến thắng tương
lai giải thưởng Nobel đã bắt đầu một quỹ đầu tư, Quỹ Quản lý vốn đầu tư dài hạn. LTCM là một
công ty quản lý quỹ. Quỹ đã hoạt động tốt trong suốt vòng đời của nó: Những nhà đầu tư kiếm
được 20% trong 10 tháng vào năm 1994, 43% trong năm 1995, 41% trong năm 1996, và 17%
năm 1997. Trong tháng 8 và tháng 9 năm 1998, tiếp theo sau khủng hoảng Nga về khoản nợ
bằng đồng rúp Nga, thị trường vốn thế giới đã rơi vào khủng hoảng và quỹ đầu tư LTCM đã mất
hầu như toàn bộ vốn của nó. Trước khi LTCM sụp đổ, nó đã có số vốn gần 5 tỷ USD, tài sản
vượt mức 100 tỷ USD và các sản phẩm phái sinh với giá trị mong đợi vượt quá 1 nghìn tỷ USD.
Giữa tháng 9, vốn của LTCM đã giảm hơn 3.5 tỷ USD và Ngân hàng Dự trữ Liên bang của New
York đã phối hợp giải cứu bằng cách các thể chế tài chính tư nhân đã bơm vào quỹ 3.65 tỷ USD.
Việc thất thoát hơn 70% vốn có phải là đại diện cho sự thất bại của quản trị rủi ro không? Một sự
thua lỗ mà đòi hỏi một sự giải cứu bởi các ngân hàng đã bơm vào 3.65 tỷ USD vốn mới có cho
2

Nguồn dữ liệu công khai về LTCM là tập hợp của bốn nghiên cứu tình huống bởi André Perold được xuất bản năm
1999, Quỹ Quản lý vốn dài hạn (A) – (D), nhà xuất bản Đại học Havard. Nhiều quyển sách viết về LTCM. Một vài
quyển được dùng trong bài báo này bắt nguồn từ Roger Lowenstein trong “Khi thiên tài bị thất bại: Sự thăng trầm
của Quỹ Quản lý vốn dài hạn” của Random House xuất bản năm 2000.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 8
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
thấy là quản trị rủi ro thất bại? Hóa ra không dễ dàng để trả lời câu hỏi này. Để xác định một
quản trị rủi ro thất bại, trước hết cần phải xác định vai trò của quản trị rủi ro.
Trong một công ty điển hình, vai trò của quản trị rủi ro trước hết là đánh giá rủi ro mà
công ty đối mặt, trao đổi những rủi ro này với những người đưa ra các quyết định cho công ty, và
cuối cùng là quản lý và giám sát những rủi ro đó để đảm bảo rằng công ty chỉ gánh chịu rủi ro
khi Ban quản trị và Ban Giám đốc muốn như vậy. Nhìn chung, một công ty sẽ xác định một hệ
số đo lường rủi ro mà nó sẽ tập trung vào kết hợp với các số liệu thống kê rủi ro bổ sung. Khi hệ
số rủi ro đó vượt quá dung sai dành cho rủi ro của công ty, rủi ro sẽ được giảm bớt. Hay khi hệ
số rủi ro quá thấp so với dung sai rủi ro của công ty thì công ty sẽ gia tăng rủi ro của nó. Nói
chung vì các công ty quan tâm hơn về các tổn thất không kỳ vọng, một phương pháp đo lường
rủi ro đựơc sŠ dụng thường xuyên là mô hình ước lượng giá trị tại mức rủi ro hay VaR, một
phương pháp đo lường mặt trái của rủi ro. VaR là tổn thất cực đại tại một độ tin cậy cho trước
trong một khoảng thời gian cho trước. Do đó, nếu sŠ dụng độ tin cậy 95%, công ty có VaR 1
ngày là 150 triệu USD thì công ty có 5% nguy cơ thua lỗ vượt quá 150 triệu USD cho ngày kế
tiếp nếu như VaR được ước lượng một cách chính xác. Hệ số đo lường này có thể sẽ được ước
lượng hằng ngày hoặc trong một thời kỳ lâu hơn.
Ngay cả với định nghĩa của chúng ta về vai trò của quản trị rủi ro, thu nhập của LTCM đã
không nói cho chúng ta biết được bất kỳ điều gì về việc liệu quản trị rủi ro của nó có thât bại hay
không. Để hiểu nguyên nhân tại sao thì việc xem xét một ví dụ giả định đơn giản thật có ích. Giả
sŠ bạn có một chân trong Ban điều hành của LTCM trong tháng 1 năm 1998 và có cơ hội đầu tư
trong các giao dịch mà toàn bộ có 99% cơ hội tạo ra lợi nhuận cho quỹ trước phí là 25% và 1%
cơ hội tạo ra thu lỗ 70% cho năm tới. Mặc dù ví dụ này là giả định nhưng có vẻ hợp lý trên
phương diện thu nhập của LTCM và những điều mà LTCM đã nói với các nhà đầu tư. Đầu tiên,

trong 2 năm tốt nhất của nó Quỹ đã kiếm được 50% thu nhập trước phí, nên mức lợi nhuận 25%
nghe có vẻ không vô lý. Thứ hai, LTCM đã viết cho những nhà đầu tư để báo rằng nó kỳ vọng
Quỹ sẽ đối diện một tổn thất chỉ lên đến 20% trong 1 năm trong số 50 – ở đây, thay vào đó một
năm trong số 100 có thể được kỳ vọng thua lỗ 70%.
3
Chúng ta hãy giả định là Quỹ có thu nhập
cao hoặc không có phụ thuộc vào việc thảy đồng xu, để rủi ro của Quỹ sẽ hoàn toàn có thể đa
dạng hóa cho những nhà đầu tư của nó. Với ví dụ giả định này, thu nhập kỳ vọng của Quỹ sẽ là
3
Xem Lowenstein, trang 63
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 9
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
24.05%. Một thu nhập kỳ vọng như thế sẽ là một thu nhập kỳ vọng to lớn cho một quỹ đầu tư và
cho bất kỳ sự đầu tư nào vì nó là một thu nhập kỳ vọng chịu rủi ro đa dạng hóa, được cho bởi giả
thiết của Tác giả. Các nhà quản lý đã có cơ hội để duy trì lặp lại cho sự đầu tư này, 99 năm trong
số 100 họ sẽ kiếm được 25% thu nhập trước phí và sẽ trở thành những ngôi sao.
Trong ví dụ giả định của Tác giả, khi các nhà quản lý quỹ (những cộng sự) đưa ra quyết định của
họ, họ đã biết phân phối thực của những kết quả có thể xảy ra cho quỹ. Do đó, họ hoàn toàn biết
phân phối lợi ích và tổn thất – đúng ra các nhà quản trị rủi ro xứng đáng được huy chương vàng
cho công việc này. Tuy nhiên, giả sŠ xảy ra những kết quả xấu. Trong trường hợp này, Quỹ sẽ
đưa lên đầu đề việc thua lỗ 3.5 tỷ USD. Một vài người sẽ tranh luận vì Quỹ đã quản lý rủi ro yếu
kém. Tuy nhiên, với sự cố chấp, việc quản trị rủi ro đã không được cải thiện trong trường hợp
này. Những nhà quản trị biết chính xác rủi ro mà họ đối mặt – và họ quyết định mạo hiểm. Do
đó, không có ý nghĩa trong việc quản trị rủi ro thất bại. Tranh cãi duy nhất là những nhà quản lý
phải gánh chịu rủi ro không nên có, nhưng đó không phải là vấn đề quản trị rủi ro miễn là rủi ro
được hiểu một cách đúng đắn. Đúng hơn là có một vấn đề trong việc đánh giá chi phí thua lỗ so
với lợi ích thu được trong việc tạo ra lợi nhuận khổng lồ.
Việc quyết định có mạo hiểm hay không đối với rủi ro tiên liệu được không là một quyết
định cho những nhà quản trị rủi ro. Quyết định này phụ thuộc vào khẩu vị rủi ro của một thể chế.

Tuy nhiên, việc xác định khẩu vị rủi ro là quyết định dành cho Ban quản trị điều hành. Quyết
định đó là trung tâm của chiến lược công ty và cách tạo ra giá trị cho các cổ đông. Một quyết
định mạo hiểm với rủi ro biết trước có thể hóa thành quyết định tồi mặc dù ngay tại thời điểm đó,
kỳ vọng là đưa ra quyết định mạo hiểm làm tăng tài sản của cổ đông và kết quả nó là nguồn lợi
tức tốt nhất của cổ đông.
Trong trường hợp của LTCM, nếu tranh cãi rằng chi phí thua lỗ 3.5 tỷ USD cho các nhà
đầu tư trong LTCM chỉ là như thế, cụ thể là không có chi phí cộng thêm vượt quá mức thua lỗ
trực tiếp. Tuy nhiên, đối với đa số công ty, những tổn thất lớn sẽ có những gánh nặng chi phí.
Những gánh nặng chi phí này là nền tảng của lý thuyết tài chính về việc tại sao quản trị rủi ro tạo
ra tài sản cổ đông.
4
Nếu một thể chế tài chính tạo ra sự thua lỗ lớn, chẳng hạn, thì thể chế có thể
phải giảm sự đầu tư của nó vì hạn chế tài chính, phải bán tài sản trong những thị trường không
thuận lợi, mất những nhân viên có giá trị - những người quan tâm đến lợi tức của họ, mất những
4
Xem René M.Stulz, Quản trị rủi ro và sản phẩm phái sinh, Nhà xuất bản Thompson, 2003
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 10
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
khách hàng mà quan tâm đến việc thể chế đang gặp rắc rối hoặc không đủ khả năng để phục vụ
họ và đối mặt với việc gia tăng giám sát từ các kiểm soát viên. Trong bất kỳ thể chế nào, Ban
lãnh đạo phải tính đến những gánh nặng chi phí của những tổn thất lớn khi quyết định chấp nhận
rủi ro thua lỗ lớn.
Các nhà quản trị rủi ro có thể ước lượng liệu một hành động có sinh lợi cho công ty hay
không với khẩu vị rủi ro của nó vì họ có thể đánh giá cần có bao nhiêu vốn để tài trợ cho hoạt
động đó.
5
Tuy nhiên, một hoạt động không sinh lợi với một mức khẩu vị rủi ro cho trước có thể
trở nên sinh lợi nếu như khẩu vị rủi ro của công ty tăng vì lượng vốn cần để tài trợ hoạt động đó
ít hơn. Cuối cùng thì mạo hiểm có giá trị hay không đối với một thể chế phụ thuộc vào chiến

lược của công ty. Những nhà quản trị rủi ro không thiết lập chiến lược. Một khi xếp hạng tín
dụng được chọn lựa, có nhiều liên kết phức tạp giữa rủi ro và vốn để hoàn thành mục tiêu xếp
hạng. Đối với một chọn lựa tỷ lệ nợ cho trước, công ty không có nhiều lựa chọn trong việc chọn
lựa mức độ rủi ro của nó nếu nó muốn đạt được xếp hạng mục tiêu của nó. Tuy nhiên, đối mặt
với những cơ hội tốt, công ty có thể chọn có tỷ lệ nợ thấp hơn để nó có thể chịu được rủi ro cao
hơn hoặc có thể chọn việc xa rời mục tiêu xếp hạng tín nhiệm.
LTCM đã đưa ra một thí dụ tốt về sự đánh đổi như thế. Vào mùa thu năm 1997, các nhà
quản lý của LTCM đã kết luận rằng họ không muốn điều hành một doanh nghiệp đang kiếm
được 17% cho những nhà đầu tư, đây là những gì mà những nhà đầu tư của họ đã kiếm được
trong năm. Thay vào đó, họ muốn mức thu nhập cao hơn đã đạt được trong năm 1995 và 1996.
Cuối năm 1997, LTCM đã có mức vốn 7.4 tỷ USD nhưng quyết định mức thu nhập xấp xỉ 36%
vốn cho các nhà đầu tư của nó. Với vốn ít hơn, LTCM vẫn có thể tiến hành những hoạt động
thương mại tương tự. tuy nhiên, bây giờ, để thực hiện chúng nó phải vay mượn nhiều hơn và do
đó phải gia tăng tỷ lệ nợ của nó. Bằng việc gia tăng tỷ lệ nợ vay, nó có thể làm tăng thu nhập cho
cổ đông nếu mọi việc tiến triển tốt đẹp bù lại sẽ thua lỗ nhiều hơn nếu mọi việc tồi tệ. Gia tăng tỷ
lệ nợ có phải là một quyết định tồi của quản trị rủi ro? Trong ví dụ của Tác giả, những cộng sự
của LTCM biết về những rủi ro và sự trả giá khi chấp nhận nó. Trong ngôn ngữ quen thuộc của
kinh tế học tài chính, việc gia tăng nợ là một quyết định tạo ra NPV dương, nhưng rõ ràng trước
5
Bài báo của Tác giả với Brian Nocco, Quản trị rủi ro doanh nghiệp: Lý thuyết và thực tiễn, Tạp chí Tài chính
doanh nghiệp ứng dụng, mùa thu năm 2006, v18(8), 8-20, trình bày những nguyên tắc chính của quản trị rủi ro
doanh nghiệp, vấn đề nảy sinh trong sự thực hiện nó và vai trò của sự phân phối vốn đầu tư.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 11
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
đây nó đã là một quyết định tốn kém khi tài sản rớt giá, vốn cổ phần của Quỹ sẽ giảm giá trị
nhanh hơn so với khi nó có tỷ lệ nợ vay thấp hơn.
Có nhiều cuộc thảo luận khuyến khích Ban lãnh đạo trong suốt cơn khủng hoảng tín
dụng, với nhiều nhà bình luận khác nhau tranh cãi về một phần của vấn đề mà chính phần này đã
khích lệ Ban điều hành chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Điều này có lẽ là tốt, nhưng trước khi đi đến

kết luận chúng ta không nên quên rằng các nhà kinh tế học tài chính đã tranh cãi hàng nhiều thập
kỷ là động cơ của Ban lãnh đạo sẽ trở nên tốt hơn nếu xếp chung những nhà quản lý đó trong số
những cổ đông thì họ sẽ có một lượng cổ phần lớn trong tổng vốn cổ phần của công ty. Những
nhà quản lý cấp cao đã sở hữu hàng trăm triệu đôla vốn cổ phần trong Bear Stearn và Lehman tại
mức tối đa giá trị của những công ty này. Tương tự, những cộng sự của LTCM đã có chung gần
2 tỷ USD đầu tư vào Quỹ ngay khi thành lập năm 1998. Nếu như lượng vốn góp cổ phần như thế
không tạo động cơ để các nhà quản lý đưa ra quyết định đúng cho những cổ đông của họ thì điều
gì sẽ xảy ra?
Tóm lại, quản trị rủi ro không phòng ngừa thua lỗ. Với quản trị rủi ro tốt, những tổn thất lớn vẫn
có thể xảy ra khi những người mà đưa ra những quyết định mạo hiểm dám quyết định chấp nhận
những rủi ro lớn đã hiểu rõ để tạo ra giá trị cho tổ chức của họ.
Phân loại thất bại về quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro có thể thất bại như thế nào? Cách tác giả mô tả vai trò của quản trị rủi ro
để gợi ý những cách quan trọng mà quản trị rủi ro có thể thất bại. Tác giả bắt đầu bằng cách nói
rằng bước đầu tiên trong quản trị rủi ro là đo lường rủi ro. Bây giờ, giả sŠ rằng đo lường rủi ro
đúng được sŠ dụng cho tình hình của công ty. Đo lường này có thể là VAR hoặc có thể là một
vài cách đo khác. Có hai dạng sai lầm có thể xảy ra trong quá trình đo lường rủi ro: rủi ro đã biết
có thể được đo lường sai và một số rủi ro có thể được bỏ qua, hoặc vì nó chưa được biết hoặc
được xem như là không trọng yếu. Một khi rủi ro được đo lường, chúng phải được thông báo
cho lãnh đạo của công ty. Một thất bại trong truyền đạt về rủi ro để quản trị cũng là một sự thất
bại trong quản trị rủi ro. Sau khi hội đồng quản trị quyết định loại rủi ro phải chịu, quản trị rủi ro
phải đảm bảo rằng công ty gánh rủi ro này. Nói cách khác, quản trị rủi ro sau đó phải quản trị rủi
ro của công ty, một nhiệm vụ mà có thể liên quan đến việc xác định các hành động giảm thiểu rủi
ro thích hợp, dự phòng một số rủi ro, và từ chối một số giao dịch, dự án. Cuối cùng, các nhà
quản trị rủi ro của một công ty có thể thất bại trong việc sŠ dụng các thước đo rủi ro thích hợp.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 12
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Với quan điểm này, có sáu loại thất bại quản trị rủi ro:
1) Đo lường sai các rủi ro đã biết

2) Thất bại trong việc đưa rủi ro vào sổ sách.
3) Thất bại trong thông báo các rủi ro cho quản trị cấp cao.
4) Thất bại trong giám sát rủi ro
5) Thất bại trong quản trị rủi ro.
6) Thất bại trong việc sŠ dụng các thước đo rủi ro thích hợp.
IV.2. Kết quả nghiên cứu:
Từ những nội dung nghiên cứu ở trên, tác giả lần lượt đi vào khám phá những thất bại trong quản
trị rủi ro
Đo lường sai các rủi ro đã biết
Trong ví dụ LTCM, đo lường sai các rủi ro có thể thể hiện một số các hình thức khác
nhau.Khi đo lường rủi ro, quản trị rủi ro cố gắng để hiểu được phân phối lợi nhuận. Với ví dụ
đơn giản của Tác giả, việc phân phối là một phân phối nhị thức - kết quả của việc tung một đồng
xu có trọng lượng. Các nhà quản trị rủi ro có thể tạo một sai lầm trong việc đánh giá xác suất của
một thua lỗ lớn hoặc quy mô của sự thua lỗ lớn nếu nó xảy ra. Tuy nhiên, ngoài ra, họ có thể sŠ
dụng sai sự phân phối hoàn toàn. Hơn nữa, các định chế tài chính có nhiều vị thế, mỗi vị trí có
một thu nhập từ một phân phối đưa sẵn, nhưng những lợi nhuận có liên quan giữa các vị trí, và
mối quan hệ có thể được đánh giá không chính xác - một cách đơn giản để đặt vị trí này là mối
tương quan có thể được đo lường sai. Tương quan là cực kỳ quan trọng trong quản trị rủi ro bởi
vì các lợi ích của đa dạng hóa giảm đi khi mối tương quan gia tăng.
Với ví dụ LTCM, có thể xác suất thực sự của một sự thua lỗ 70% cao hơn
hơn 1%, là 25%. Trong trường hợp này, lợi nhuận mong đợi của LTCM trong ví dụ giả thuyết
của Tác giả là không đáng kể 1,25%. Vào thời điểm đó, các nhà đầu tư có thể đã kiếm được lợi
nhuận cao hơn bằng cách đầu từ vào T-bill. Trong trường hợp này, sai lầm quản trị rủi ro - đánh
giá xác suất của đầu ra xấu ở mức 1% thay vì 25% - sẽ có hậu quả nghiêm trọng cho quỹ bởi vì
nó sẽ dẫn đến việc thực hiện giao dịch mà gây thiệt hại.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 13
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Giả sŠ rằng LTCM đã mắc các lỗi mà tác giả vừa thảo luận. Làm thế nào tác giả biết
được? Tác giả không thể xác định như lỗi đã trình bày bởi vì LTCM đã bị mất 70% chỉ một lần.

Có khoản lỗ 70%, nó có thể đã thực hiện bất kể xác suất thực sự thua lỗ đó là 1% hoặc 25%.
Trong thực tế, theo điều kiện giả định ví dụ của tác giả, tác giả không thể học hỏi gì từ thực tế là
LTCM bị mất 70% cho dù đó là 1 lỗi của quản trị rủi ro. Nó có thể như vậy, như trong tháng một
năm 1998, xác suất thua lỗ như vậy là vô cùng nhỏ hoặc rất lớn. Nó có thể là một sự kiện trong
sự kiện của hàng trăm năm hoặc một sự kiện trong sự kiện của bốn năm về danh mục giao dịch
đầu tư được tập hợp lại.
Một sai lầm quản trị rủi ro khác sẽ xảy ra nếu phân phối không phải là nhị thức, mà là
một sự phân phối khác hoàn toàn. Ví dụ, nó có thể, giữ nguyên ví dụ giả định, có 1% cơ hội của
một thua lỗ 70% và thêm 9% cơ hội cho khoản lỗ 100%. Trong trường hợp này, thu nhập mong
đợi là 12,8% ( 90%*25%-1%*70%-9%*100%), nhưng cũng sẽ có xác suất đáng kể cho việc
trắng tay.
Khi một tổ chức có nhiều vị trí, dự án, rủi ro của định chế phụ thuộc vào những rủi ro của
các vị trí khác nhau hay các dự án có liên quan đến nhau ra sao. Nếu sự tương quan giữa các vị
thế hoặc dự án là cao, nó có nhiều khả năng là tất cả các hoạt động của công ty hoạt động kém
cùng một lúc, dẫn đến một xác suất cao hơn cho một sự thua lỗ lớn. Những mối tương quan này
có thể là khó khăn để đánh giá và chúng thay đổi theo thời gian, có lúc đột ngột. Thành viên của
LTCM mô tả vấn đề họ phải đối mặt trong tháng Tám và tháng Chín như là một ở nơi mà mối
tương quan họ nghĩ là vô cùng nhỏ đột nhiên trở thành lớn. Với quan điểm này, mối tương quan
đã được ước đoán sai. Trong tài chính, rất phổ biến là tương quan gia tăng trong thời kỳ khủng
hoảng. Thất bại trong việc đánh giá tương quan một cách chính xác sẽ dẫn đến đánh giá sai rủi ro
của một danh mục đầu tư hoặc của một công ty.
Tuy nhiên, các vấn đề của đo lường sai các mối tương quan thì tinh vi hơn, nếu mối
tương quan ngẫu nhiên và đôi khi thấy được tương quan lớn không dự đoán được như đã trình
bày. Trong trường hợp này, những nhà quản trị rủi ro không thể biết các mối tương quan như thế
nào, mà đánh giá của họ về rủi ro của một danh mục đầu tư hoặc của các công ty sẽ phụ thuộc
vào ước tính của họ về sự phân phối của các tương quan. Trong trường hợp này, có thể tương
quan mong đợi khác với giá trị kỳ vọng của chúng và chưa có thất bại trong quản trị rủi ro.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 14
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1

Khi rủi ro đã biết, kỹ thuật thống kê nói chung mang lại ước tính phân phối rủi ro.
Phương pháp tiếp cận này hiệu quả tốt khi có rất nhiều dữ liệu và khi nó là hợp lý để tin rằng lợi
nhuận sẽ có sự phân phối thống kê trong tương lai cũng như trong quá khứ. Ví dụ, giả sŠ rằng
nhà quản trị rủi ro muốn ước tính sự biến động của thu nhập của một cổ phiếu thanh khoản. Nó
sẽ có hàng trăm các điểm dữ liệu để phù hợp với một mô hình. Trong hầu hết trường hợp, quản
trị rủi ro sẽ có một mô hình của sự biến động của chứng khoán thực hiện khá tốt.
Dữ liệu lịch sŠ theo thời điểm ít sŠ dụng, bởi vì rủi ro được biết đến đã không thể hiện
bản thân trong quá khứ. Ví dụ, với cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, không có dữ liệu lịch
sŠ của cuộc suy thoái ở thị trường bất động sản, trong thời gian đó một số lượng lớn các chứng
khoán thế chấp dưới chuẩn được chú ý. Trong một tình huống như vậy, đo lường rủi ro không
thể được thực hiện bằng cách đơn giản sŠ dụng dữ liệu lịch sŠ từ khi có một rủi ro giảm giá bất
động sản đã không thể hiện được trong một khoảng thời gian lịch sŠ đem ra so sánh. Với trường
hợp như vậy, thống kê đo lường rủi ro đạt đến giới hạn của nó và quản trị rủi ro đi từ khoa học
đến nghệ thuật. Sự hiểu biết đúng về rủi ro liên quan đến việc đánh giá khả năng có thể xảy ra
của việc giảm giá bất động sản và tác động kinh tế như giảm giá chứng khoán. Đánh giá xác suất
như vậy có một yếu tố quan trọng của tính chủ quan. Các nhà quản trị rủi ro khác nhau có thể
đưa ra những kết luận rất khác nhau.
Có một vấn đề cơ bản với hoat động đo lường rủi ro khi đánh giá trở thành chủ quan. Giả
sŠ rằng tất cả các bên đồng ý rằng một mô hình thống kê được thành lập hoạt động tốt. Sau đó có
một ít những người không đồng ý. Tuy nhiên, dự báo chủ quan có thể dễ dàng bị đặt câu hỏi. Tại
sao một người quản trị rủi ro sẽ có một sự hiểu biết tốt hơn về xác suất của một sự giảm giá bất
động sản hơn các chuyên gia bất động sản? Nếu các chuyên gia bất động sản kết luận rằng một
sụt giảm mạnh về giá là không thực, tại sao một tổ chức sau đó nghe một người quản trị rủi ro,
những người muốn chi tiêu một số lượng lớn tiền vào một kiểm tra căng thẳng để tìm ra các tác
động của giảm lớn như vậy? Khi quản trị rủi ro di chuyển từ thiết lập mô hình định lượng, nó trở
nên dễ dàng lôi kéo vào chính trị nội bộ công ty. Tại thời điểm đó, kết quả đầu ra của công ty
phụ thuộc rất nhiều thêm vào rủi ro mong đợi của công ty và vào văn hóa của nó hơn là trên các
mô hình quản trị rủi ro của nó.
Đo lường sai vì các rủi ro bị bỏ qua
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 15

Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Rủi ro bị bỏ qua có thể có ba dạng khác nhau có ý nghĩa khác nhau cho một công ty. Đầu
tiên, một công ty có thể bỏ qua một rủi ro mặc dù rủi ro đó được biết đến. Thứ hai, ai đó trong
công ty biết về một rủi ro, nhưng rủi ro đó không được chú ý bởi các mô hình rủi ro. Thứ ba, có
nhận thức rõ là rủi ro không được biết đến . Tác giả lần lượt xem xét các khả năng này.
Bỏ qua rủi ro được biết đến
Xem xét lại trường hợp của LTCM. LTCM có thể thất bại trong việc đưa vào tính toán
một rủi ro nếu nhận ra, sẽ dẫn đến một sự thua lỗ lớn. Một ví dụ tốt về khả năng này là như sau.
Trước khi Nga vỡ nợ trong nước vào tháng Tám năm 1998, nhiều quỹ đầu cơ giành lấy vị thế nơi
họ mua nợ Nga cho năng suất cao, ngăn ngừa nợ chống lại rủi ro vỡ nợ, và cuối cùng là ngăn
ngừa các khoản nợ đối với rủi ro tỷ giá. Thật dễ dàng để tin rằng kết quả vị trí không có rủi ro.
Tuy nhiên, để ngăn ngừa rủi ro tiền tệ, quỹ đã phải bán rúp kỳ hạn đổi đô la. Các ngân hàng sẵn
sàng đứng ở phía bên kia của những người giao dịch thường là các ngân hàng Nga. Khi Nga vỡ
nợ, nó áp đặt một lệnh cấm các ngân hàng này và kết quả là nhiều ngân hàng bị sụp đổ, quỹ
phòng ngừa đã kết thúc với rủi ro tỷ giá vì các đối tác của họ đã không đánh giá các phòng ngừa.
Nếu tính toán rủi ro đối tác đúng cách, họ sẽ hiểu rằng vị trí của họ có rủi ro đáng kể trong
trường hợp có một cú sốc bất lợi cho hệ thống ngân hàng Nga.
Tác giả không có lý do để tin rằng LTCM cư xŠ giống như các quỹ đầu cơ khác. Hơn
nữa, mối quan hệ với Nga của LTCM đã tương đối nhỏ. Tuy nhiên, giả sŠ nó làm thiệt hại vì nó
đã không tính toán chính xác cho những rủi ro của đối tác. Với trình bày trước, chỉ biết rằng
LTCM bị thua lỗ 70% sẽ không đủ để kết luận rằng LTCM đã bỏ lỡ các rủi ro của đối tác trong
mô hình rủi ro bởi vì nó có thể đã có một thua lỗ tương tự bất kể việc bỏ lỡ rủi ro đó. Do đó,
đánh giá xem LTCM có sai lầm hay không, người ta sẽ phải nhìn vào các thông tin có khi nó
thực hiện quyết định, cho dù thông tin đó có thể sai lầm, và cho dù sŠ dụng thông tin đó là sai.
Sai lầm trong vấn đề thu thập thông tin:
Hậu quả của sai lầm trong việc quản lý rủi ro là như nhau cho dù rủi ro đã bị bỏ qua bởi
không ai trong công ty biết về nó hay bởi những người biết về nó nhưng nó đã không có trong
mô hình rủi ro có liên quan. Một trong những lợi ích của việc quản lý rủi ro toàn công ty đúng
cách là tất cả các rủi ro được tính toán. Nếu những rủi ro không được tính toán khi rủi ro được

đo lường cho một công ty. Những rủi ro còn lại không được theo dõi đầy đủ và chúng trở nên lớn
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 16
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
bởi vì những tổ chức có xu hướng mở rộng kiểm soát rủi ro. Ví dụ, xem xét một thương gia có
rủi ro chỉ theo dõi một phần. Thông thường, các thương gia có một công thức bồi thường có liên
quan đến quyền chọn chi trả mà họ nhận được một phần đáng kể từ lợi nhuận mà họ tạo ra,
nhưng họ không phải trả các khoản lỗ. Nếu chỉ một số rủi ro của thương gia được theo dõi, anh
ta có thể tăng bồi thường dự kiến bằng cách gia tăng những rủi ro mà không được giám sát mà
không phải gánh chịu bất kỳ hậu quả nào.
Đó là thực tế phổ biến trong quản trị rủi ro để chia rủi ro thành rủi ro thị trường, tín dụng
và rủi ro hoạt động. Sự phân biệt này là một phần ước đoán và được chia bởi việc xem xét những
quy định. Thông thường các công ty có sổ sách kinh doanh được hạch toán theo giá thị trường,
trong khi sổ sách tín dụng được hạch toán theo nguyên tắc dồn tích kế toán. Tuy nhiên việc phân
chia rủi ro này có thể được thực hiện bằng một cách là bỏ qua những khối lượng lớn nguy cơ. Ví
dụ, một công ty có rủi ro vốn. Vốn có thể trở nên đắt hơn hoặc có thể rẻ hơn khi công ty trải qua
những kết quả thị trường xấu. Bằng chứng, một nhân tố quan trọng góp phần vào sự thất bại của
Bear Stearns là những hạn chế mà nó đối mặt trong việc tiếp cận thị trường repo trong tuần
trước. Tương tự như vậy, trong khi quy tắc Basel II cái nhìn khá hạn chế về rủi ro hoạt động, rủi
ro kinh doanh, thường có tầm quan trọng và được đánh giá cẩn thận như một phần quan trọng
trong việc đánh giá rủi ro của công ty mặc dù không phải là một phần của nguyên tắc xác định về
rủi ro hoạt động. Những rủi ro này tương quan cao với rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đối với
định chế tài chính. Ví dụ, đối với nhiều ngân hàng, những mất mát về thu nhập từ chứng khoán
hóa được xem như là một rủi ro kinh doanh tương quan với rủi ro thị trường, cụ thể là sự mất
mát trong giá trị chứng khoán được phát hành thông qua các loại chứng khoán và với rủi ro tín
dụng cụ thể là không có khả năng sŠ dụng quá trình phát hành chứng khoán để loại trừ các rủi ro
liên quan đến những khoản vay.
Hạch toán kế toán cho tất cả những rủi ro trong việc đo lường rủi ro thì khó và là công
việc tốn kém.Tuy nhiên, không thực hiện công việc này cho một tổ chức có nghĩa là người đứng
đầu công ty quản lý công ty với sự che mắt- họ chỉ nhìn thấy một phần của bức tranh rộng lớn

mà họ phải hiểu và quản lý hiệu quả. Có những ví dụ nổi tiếng về những rủi ro không hoàn chỉnh
dẫn đến những thiệt hại lớn mà không được hạch toán. Có lẽ một ví dụ tốt nhất là một trong
những ngân hàng đã không còn tồn tại, the Union Bank of Switzerland. Trong nŠa cuối những
năm 1990, ngân hàng sŠ dụng hệ thống quản lý rủi ro mà kết hợp những rủi ro lại với nhau bên
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 17
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
trong hoạt động thương mại. Một nhóm thương gia tập trung vào các công cụ phái sinh của vốn
chủ sở hữu đã cực kỳ thành công. Tuy nhiên, nhóm thương gia này đã sŠ dụng những máy tính
khác nhau từ phần nhàn rỗi của ngân hàng, để tích hợp hệ thống của họ vào hệ thống ngân hàng
sẽ đòi hỏi họ phải thay đổi những máy tính này. Cuối cùng, ngân hàng quyết định, ở cấp cao nhất
điều đó quan trọng hơn để cho các thương gia kiếm tiền hơn là phá vỡ những gì họ đang làm
thông qua những thay đổi của những máy tính. Ngay sau đó, nhóm thương gia này mất một số
lượng tiền lớn cho ngân hàng. Sự mất mát này một phần trách nhiệm thuộc về ngân hàng phải
sáp nhập với ngân hàng Thụy Sỹ khác.
Những vấn đề của sự kết hợp thì quan trọng ở các giai đoạn khác nhau của cuộc khủng
hoảng cho vay dưới chuẩn. Đặc biệt, ban quản trị của UBS đã gởi một báo cáo tới cổ đông để
giải thích tại sao ngân hàng có một sự rớt giá lớn như vậy. Trong báo cáo này, UBS giải thích
rằng: “ Những nổ lực để theo dõi việc nắm giữ nợ dưới chuẩn trước giữa tháng 2 năm 2007, tuy
nhiên, thực chất không hiệu quả bao gồm cả cấp cao và Negative Basis”. Thật thú vị để lưu ý
rằng, theo báo cáo, vị trí cấp cao (Super Senior) không được bao gồm bởi vì họ dự phòng và cho
là không rủi ro bởi những mô hình rủi ro- một đánh giá mà phù hợp với dữ liệu quá khứ được sŠ
dụng bởi nhiều nhà quản lý rủi ro.
Những rủi ro không biết
Những rủi ro không biết không tạo những vấn đề quản lý rủi ro. Để nhìn thấy điều này,
chúng ta có thể trở lại mô hình phân tích đo lường rủi ro cho một cổ phần. Giả sŠ rằng mô hình
quản lý rủi ro lợi nhuận của một cổ phần bằng cách sŠ dụng phân phối thường và anh ta không
có lý do để tin rằng lợi nhuận tương lai sẽ đến từ phân phối khác hơn là những gì đã xảy ra trước
đó. Với mô hình này, mỗi giai đoạn, lợi nhuận của cổ phần sẽ là ngẫu nhiên. Nó đến từ 1 phân
phối đã biết. Quản lý rủi ro không cần biết tại sao lợi nhuận của cổ phần trong 1 giai đoạn là 10%

và trong 1 giai đoạn khác là -15%. Anh ta nắm bắt rủi ro liên quan đến bản chất của cổ phần qua
những dự đoán của anh ta về phân phối lợi nhuận của cổ phần. Với công việc của mình, ông ấy
biết rằng sự bất ổn là 20% và có 5% cơ hội của một mất mát 30% hoặc cao hơn trong một giai
đoạn. Ông ấy không cần một vị trí để giải thích những sự kiện liên quan đến những mất mát
khác nhau.
Những rủi ro chưa biết khác có thể không quan trọng đơn giản chỉ vì chúng có một xác
suất xảy ra không đáng kể. Có một số khả năng việc xây dựng bị ảnh hưởng bởi một tiểu hành
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 18
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
tinh. Rủi ro này không ảnh hưởng đến bất kỳ quyết định quản lý nào. Bỏ qua những rủi ro này
không tác động đến việc quản lý rủi ro.
Những rủi ro chưa biết đại diện cho sự thất bại trong việc quản trị rủi ro là những rủi ro mà nếu
những người quản lý công ty biết về chúng, họ sẽ hành động khác. Quản lý rủi ro phải tìm kiếm
những rủi ro chưa biết, nhưng một khi tất cả được nói và làm, một số rủi ro vẫn sẽ chưa biết. Bởi
vì điều này, họ phải kết luận rằng họ không nắm bắt tất cả rủi ro trong mô hình của họ và do đó,
một số vốn được tạo ra để sẵn sàng đối phó với những rủi ro chưa biết.
Những thất bại về truyền thông :
Quản lý rủi ro không phải là công việc được thực hiện bởi những người quản lý rủi ro cho
những quản lý rủi ro. Thay vào đó, nó là hoạt động được thực hiện để cho phép công ty tối đa
hóa giá trị cổ đông bằng cách lấy các quyết định tối ưu trên toàn công ty. Đặc biệt, công ty đã lựa
chọn mức rủi ro được phép và phải chắc chắn rằng rủi ro được thực hiện trên toàn công ty có giá
trị cho các cổ đông. Vì vậy, quản lý rủi ro phải cung cấp thông tin kịp thời cho hội đồng quản trị
và những người quản lý hàng đầu mà được phép đưa ra những quyết định liên quan đến rủi ro
công ty và yếu tố rủi ro công ty trong quyết định của họ. Để hội đồng quản trị và những người
quản lý hàng đầu hiểu được tình hình rủi ro của công ty, tình hình này được truyền đạt đến họ
trong cách mà họ có thể hiểu đúng. Nếu một doanh nghiệp có hệ thống rủi ro hoàn hảo, nhưng
hội đồng quản trị và những người quản lý hàng đầu không hiểu đầu ra của hệ thống này bởi vì
quản trị rủi ro không thể truyền đạt đầu ra này đúng cách, những hệ thống của công ty có thể làm
hại nhiều hơn lợi bởi sự tự tin quá mức trong việc thực hiện quản trị rủi ro. Tệ hơn, thông tin có

thể đến với những người quản lý hàng đầu quá muộn hoặc bị bóp méo bởi trung gian.
Thất bại truyền thông dường như đóng một vai trò quan trọng trong cuộc khủng hoảng
gần đây nhất. Ví dụ, báo cáo của UBS gởi tới cổ đông giải thích rằng: “ Một số nỗ lực đã được
thực hiện cho thấy việc vay nợ dưới chuẩn hoặc liên quan đến vấn đề nhà ở được phơi bày. Tuy
nhiên, các báo cáo đã không truyền tải một cách hiệu quả vì một số lý do, đặc biệt là bởi vì các
báo cáo quá phức tạp, trình bày dữ liệu lỗi thời hoặc không thực hiện đúng đối tượng”. Một
ngành công nghiệp đã thừa nhận rằng rút ra những bài học từ cuộc khủng hoảng đã nhấn mạnh
vấn đề thông tin liên lạc là tốt. Nó kết luận rằng : “ Theo dõi và quản lý rủi ro làm giảm cơ sở
nhận được thông tin đúng vào đúng thời điểm, đúng người, như những người mà có thể đưa ra
nhận định hợp lý nhất”. Cuối cùng, báo cáo từ Tập đoàn kiểm soát cấp cao bao gồm những quản
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 19
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
lý cao cấp từ Mỹ, Anh và Đức cùng với những nước khác cũng nhấn mạnh các vấn đề truyền
thông, phát biểu ví dụ rằng: “ Trong một số trường hợp, cấu trúc phân cấp có xu hướng để phục
vụ như những bộ lọc khi thông tin được gởi lên chuỗi quản lý, dẫn đến sự chậm trễ hoặc biến
dạng trong việc chia sẻ dữ liệu quan trọng với quản lý cấp cao”
Thất bại trong việc giám sát và quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro là trách nhiệm đảm bảo rằng công ty phát hiện những rủi ro mà công ty
nhận biết và những rủi ro không biết khác. Kết quả là, quản lý rủi ro phải thường xuyên kiểm tra
những rủi ro mà công ty gặp phải. Hơn nữa, họ phải dự phòng và giảm thiểu những rủi ro đã biết
để đáp ứng các mục tiêu của nhà quản lý cấp cao.
Tác giả đã thảo luận những vấn đề mà một công ty có thể chấp nhận những rủi ro mà nó
không biết. Khi tác giả thảo luận vấn đề này, tác giả tập trung vào nó như một vấn đề còn tồn
đọng. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này trong đó đặc biệt liên quan đến
những công ty tài chính. Đối với những công ty phi tài chính, rủi ro thường thay đổi từ từ. Không
như những công ty tài chính. Đối với một công ty tài chính, rủi ro có thể thay đổi mạnh ngay cả
khi công ty không có vị trí mới. Vấn đề phát sinh từ thực tế là các công ty tài chính có nhiều
chứng khoán phái sinh và phái sinh lại tạp. Theo thời gian, những chứng khoán này trở nên phức
tạp hơn.

Bản chất rủi ro của các danh mục đầu tư của các phái sinh có thể thay đổi rất nhanh
chóng không có giao dịch nào. Điều này là bởi vì những công cụ phái sinh phức tạp thường chứa
đựng những yếu tố rủi ro cực kỳ nhạy cảm với điều kiện thị trường. Đáng chú ý, nó hoàn toàn có
thể với một số sản phẩm để nhìn thấy những sự thay đổi như vậy trong cùng một ngày, một
chứng khoán có thể có những phản ứng với lãi suất để tăng đáng kể nếu lãi suất tăng và sau đó
trong ngày có phản ứng như vậy mà nó giảm đi đáng kể nếu lãi suất tăng. Đối với một sản phẩm,
biên độ điều chỉnh hằng ngày có thể kết thúc việc tạo ra mất mát lớn bởi vì biên độ đó là tối ưu ở
ngày bắt đầu có thể kết thúc rủi ro vào ngày kết thúc.
Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất về rủi ro thay đổi như thế nào là việc định giá
của những phái sinh cho vay dưới chuẩn. Các chỉ số ABX hầu hết những dữ liệu có sẵn trên
giá trị chứng khoán phát hành đối với tài sản vay thế chấp nợ dưới chuẩn. Các chỉ số đều là số
trung bình của những giao dịch hoán đổi tín dụng - vỡ nợ trên các đợt chứng khoán. Chỉ số mới
được tạo ra mỗi 6 tháng, phản ánh những chứng khoán hóa mới. Ban đầu các chỉ số AAA, đại
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 20
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
diện giá của các giao dịch hoán đổi tín dụng trên những cổ phiếu chỉ số AAA được đưa ra hầu
như không thay đổi, để đánh giá hợp lý rủi ro của những chứng khoán chỉ số AAA bằng cách sŠ
dụng dữ liệu quá khứ sẽ được cho rằng có ít rủi ro. Tuy nhiên giá trị của những cổ phiếu này rớt
xuống được thể hiện trong hình 1. Cổ đông của cổ phiếu AAA bất ngờ nhận được 1 mất mát lớn
nếu họ chọn sŠ dụng chỉ số ABX đại diện cho các giá trị cổ phần của họ.
Khi các đặc tính rủi ro chứng khoán có thể thay đổi rất nhanh, nó là thách thức của việc
giám sát rủi ro để nắm bắt những thay đổi và quản lý rủi ro để điều chỉnh dự phòng thích hợp.
Thách thức này đặc biệt lớn khi đặc tính rủi ro thay đổi đáng kể đối với những thay đổi nhỏ trong
yếu tố quyết định giá chứng khoán. Kết quả là, quản trị rủi ro có thể thất bại để đo lường rủi ro
hoặc dự phòng những rủi ro đơn giản bởi vì đặc tính rủi ro của chứng khoán có thể thay đổi quá
nhanh để những nhà quản lý đánh giá đúng bản chất của nó và đưa ra những dự phòng đúng.
Một phần quan trọng của quản lý rủi ro là có thể xác định các giải pháp có thể có thể
được thực hiện một cách nhanh chóng nếu một công ty giảm rủi ro của nó trong một thời gian
ngắn. Kế hoạch dự phòng rủi ro do đó rất quan trọng. Thiếu những kế hoạch như vậy có thể làm

cho công ty không thể đối phó với những khó khăn bất ngờ. Tuy nhiên, cùng một lúc, khi thiếu
thanh khoản trên thị trường, nhiều quyền chọn giảm thiểu rủi ro có thể được sŠ dụng dễ dàng
ngoài giai đoạn khủng hoảng không còn có thể sŠ dụng được.
Nghịch lý thay, sự ra đời của kế toán hạch toán theo giá thị trường làm cho nó thậm chí
còn khó khăn hơn cho quản lý rủi ro để ước tính rủi ro và lập dự phòng. Trong nhiều cách, giá trị
thị trường đã giới thiệu các nguyên tắc Heisenberg vào thị trường tài chính: Đối với các tổ chức
lớn quan sát giá trị của một chứng khoán phức tạp làm ảnh hưởng đến giá trị của chứng khoán
đó. Lý do cho điều này thì đơn giản: Khi tổn thất thị trường được biết, họ bắt đầu một phản ứng
dây chuyền điều chỉnh tại các tổ chức khác và ảnh hưởng đến giá cả giao dịch có thể có khi thị
trường hiểu được vị trí vốn của các tổ chức tốt hơn.
Trong các tổ chức lớn phức tạp, có thể những cá nhân chấp nhận rủi ro vẫn còn tiềm ẩn
trong một thời gian. Một thương gia có thể xây dựng một vị thế phức tạp mà chỉ anh ta mới có
thể hiểu. Vị thế này có thể là như vậy mà theo một số trường hợp nó có thể dẫn đến tổn thất lớn.
Các vị thế sŠ dụng chứng khoán không được kết hợp trong các hệ thống quản lý rủi ro. Trong
mọi lúc, các tổ chức phải đối mặt với sự đánh đổi. Quản trị rủi ro có thể được cấu trúc để biết tất
cả mọi thứ mọi lúc. Tuy nhiên, nếu quản lý rủi ro được tổ chức theo cách đó, nó sẽ bóp nghẹt sự
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 21
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
đổi mới bên trong công ty và cản trở khả năng cạnh tranh của công ty. Trong thị trường vận
động nhanh, các nhân viên phải có tính linh hoạt. Tuy nhiên, tính linh hoạt làm cho nó có thể
không quan sát được những rủi ro xuất hiện. Khi những rủi ro này tự biểu hiện, nó không hẳn là
đại diện sự thất bại trong quản trị rủi ro. Quản trị rủi ro có thể chắc chắn rằng những rủi ro không
thực hiện nhưng cổ đông đã có thể tồi tệ hơn. Bên cạnh việc loại bỏ tính linh hoạt bên trong
công ty, giám sát rủi ro là khá tốn kém nên tại một số điểm giám sát rủi ro chặt chẽ hơn là không
hiệu quả.
Hiệu quả của việc giám sát và kiểm soát rủi ro phụ thuộc vào văn hóa và động cơ của tổ
chức. Nếu rủi ro là rủi ro kinh doanh của mọi người trong tổ chức, thật khó cho những rủi ro
không quan sát được. Nếu bồi thường cho người lao động bị ảnh hưởng bởi cách họ chấp nhận
rủi ro, họ sẽ nhìn nhận rủi ro một cách thận trọng. Mô hình rủi ro tốt nhất trong công ty nghèo

văn hóa và ít động cơ sẽ ít hiệu quả hơn trong công ty mà ở đó động cơ của nhân viên tốt hơn
phù hợp với những mục tiêu rủi ro của công ty.
Đo lường rủi ro và thất bại của quản trị rủi ro
Cho đến nay, tác giả đã đưa ra những tiêu chuẩn đo lường rủi ro như đã đưa ra. Tác giả
chỉ ra rằng việc tập trung vào các tiêu chuẩn quá hẹp có thể làm cho việc quản trị khó đạt mục
tiêu hơn .Đặc biệt, những rủi ro mà nhà quản trị coi là quan trọng có thể bị bỏ qua hoặc từ chối.
Một phương pháp đo lường rủi ro được sŠ dụng rộng rãi trong các tổ chức tài chính là phương
pháp đo lường VaR cho các hoạt động giao dịch hàng ngày. Các ngân hàng lớn thường tiết lộ các
thông tin theo quý. Thường họ sẽ nói số lần trong một quý P&L có một sự mất mát vượt quá
VaR hàng ngày. Ví dụ, báo cáo UBS trong báo cáo thường niên của năm 2006 nói rằng nó không
bao giờ có một sự mất mát vượt quá VaR hàng ngày. Ngược lại, trong năm 2007, điều này đã
vượt quá VaR hàng ngày 29 lần. Các kết quả cho 2007 cho thấy thay đổi cơ bản đang diễn ra
trong nền kinh tế làm cho những nhà quản trị rủi ro khó theo dõi các rủi ro hàng ngày. Tuy
nhiên, một số lượng lớn vượt quá mức VaR ít hoặc không cung cấp thông tin về ý nghĩa của
những sự vượt quá đó cho sức khỏe tài chính của UBS. Sự vượt quá mức này là thực sự nhỏ và
đã có lợi nhuận lớn cũng vì biến động tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra, điều này có thể đã thiệt
hại rất lớn và phần được rất là nhỏ. Trong trường hợp trước đây, công ty có thể được trước vào
cuối năm nay. Sau này, nó có thể gặp rắc rối nghiêm trọng. Do đó, việc tập trung vào chỉ số VaR
thị trường hàng ngày, mặc dù đáp ứng cho các nhà quản lý rủi ro vì kỹ thuật định lượng hiện đại
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 22
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
nhất có thể liên quan tới vấn đề, chỉ có thể là một phần của quản trị rủi ro và không phải là điều
người quản lý hàng đầu nên tập trung vào. Nhà quản trị cấp cao phải tập trung vào những tác
động dài hạn của rủi ro.
Đo lường chỉ số VaR ngắn hạn có thể thấp và công ty có thể giải quyết tốt mặc dù nó có
thể thất bại. Tác giả chưa từng thấy ước tính chỉ số VaR hàng tháng từ LTCM.Tuy nhiên, từ
tháng ba năm 1994 đến tháng 12 /1997, LTCM chỉ bị lỗ tám tháng và tháng tổn thất nhiều nhất là
2.9%. Ngược lại, nó có 37 tháng có lời. Vì vậy, người ta có thể khó khăn trong sŠ dụng những
chỉ số lợi nhuận hàng tháng trong quá khứ để kết luận rằng quản lý rủi ro của nó có thể sai lầm.

Hãy xem xét một công ty có chỉ số VaR một ngày $ 100 triệu USD trong giao dịch của nó với
xác suất 1%. Điều này có nghĩa là công ty đã có 1% cơ hội một mất hơn $ 100 triệu. Nếu công ty
này vượt quá VaR của nó một lần hơn 100 ngày kể từ ngày giao dịch và lỗ $ 10 tỷ đồng, tất cả
các kiểm tra thống kê hiện có của hoạt động quản trị rủi ro dựa vào sự vượt quá chỉ số VaR sẽ
chỉ ra rằng công ty có quản trị rủi ro tuyệt vời. Chỉ số VaR không nắm bắt được những thiệt hại
to lớn mà có một xác suất xảy ra nhỏ.
Đo lường chỉ số VaR hàng ngày giả định rằng các tài sản có thể được bán một cách
nhanh chóng hoặc dự phòng, vì vậy mà một công ty có thể hạn chế những tổn thất cơ bản của nó
trong vòng một ngày. Tuy nhiên, cả năm 1998 và trong năm qua, chúng ta đã thấy rằng thị
trường có thể trở nên ít thay đổi đột ngột, vì thế việc đo lường chỉ số VaR hàng ngày mất đi ý
nghĩa của chúng. Nếu một công ty có trong danh mục đầu tư mà không thể giao dịch, biện pháp
đo lường VaR hàng ngày không phải là một thước đo rủi ro của danh mục đầu tư vì công ty là bị
mắc kẹt với các danh mục đầu tư trong một thời gian dài hơn.
Để đánh giá rủi ro, các doanh nghiệp phải có tầm nhìn dài hơn và phải có một cái nhìn
toàn diện về rủi ro của họ. Tầm nhìn một năm được sŠ dụng rộng rãi trong quản lý rủi ro doanh
nghiệp đối với việc đo lường rủi ro của doanh nghiệp. Nói chung, các tổ chức tài chính tập trung
vào các rủi ro của công ty với tầm nhìn 1 năm để ám chỉ rằng đối với xếp hạng tín dụng bao hàm
một xác suất rất nhỏ vỡ nợ. Phương pháp tiếp cận như vậy là hữu ích trong việc đánh giá rủi ro
của một doanh nghiệp, ước tính cấu trúc vốn tối ưu cho một công ty, và ước tính lợi nhuận của
các dự án và ngành, nghề kinh doanh thông qua một đánh giá cẩn thận chi phí vốn cần thiết để
chịu rủi ro của họ. Tuy nhiên, cùng một lúc, các phương pháp tiếp cận như vậy là chưa đủ.
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 23
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
Một mục tiêu xếp hạng tín dụng cao có hiệu quả có nghĩa là công ty sẽ cố gắng để tránh
việc vỡ nợ trong tất cả các trường hợp cực đoan nhất. Nếu một công ty muốn đánh giá tín dụng
AA, nó phải đạt được xác suất vỡ nợ ít hơn trong vòng 1 năm so với hàng ngàn doanh nghiệp
khác. Cuộc khủng hoảng xảy ra nhiều hơn thường xuyên hơn, vì vậy mà các công ty phải có một
chiến lược cho phép nó tồn tại các cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, khả năng của một cuộc khủng
hoảng là khó khăn để ước tính chính xác, do đó ngay cả khi ước tính xác suất là rất nhỏ, ước tính

lỗi có thể là như vậy là đúng sự thật, chưa biết, có thể là cao hơn nhiều. Do đó, công ty đã tập
trung vào các sự kiện khủng hoảng trong đo lường và quản lý rủi ro của nó.
Các mô hình rủi ro hiện tại thường không được thiết kế để nắm bắt các rủi ro liên quan
với khủng hoảng và giúp các doanh nghiệp quản lý chúng. Những mô hình này sŠ dụng dữ liệu
lịch sŠ và chính xác nhất những tầm nhìn ngắn - như ngày. Với tầm nhìn ngắn như vậy, cuộc
khủng hoảng là sự kiện rất hiếm. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét nhiều năm, cuộc khủng hoảng
không phải là sự kiện rất hiếm. Tháng và năm là một tầm nhìn tốt hơn để đánh giá rủi ro khi nói
đến cuộc khủng hoảng trong ít nhất hai lý do.
Đầu tiên, bằng chứng là kể từ mùa hè năm 2007, cuộc khủng hoảng liên quan đến việc rút
ồ ạt thanh khoản từ thị trường. Việc rút ồ ạt thanh khoản có nghĩa là các công ty đang mắc kẹt
với vị trí mà họ không bao giờ dự kiến tổ chức trong một thời gian dài vì giá chi phí áp lực liên
quan đến kinh doanh của các vị trí này là rất cao. Các vị thế có nguy cơ được đánh giá trên một
ngày vì công ty nghĩ rằng nó có thể bán ra ngoài của các vị trí này đột nhiên trở thành vị trí phải
được tổ chức cho các tuần hoặc tháng. Thứ hai, trong thời kỳ khủng hoảng, các công ty sẽ làm
thiệt hại nhiều, vượt quá VaR hàng ngày của họ và những thiệt hại này có thể đủ lớn để làm suy
yếu đáng kể. Kết quả là, việc đo lường rủi ro phải thấy được phân phối các khoản lỗ lớn theo
thời gian chứ không phải trên một ngày.
Các cuộc khủng hoảng liên quan đến sự tương tác phức tạp giữa các rủi ro và giữa tổ
chức. Các mô hình thống kê rủi ro thường trở thành biến ngoại sinh của công ty và loại bỏ mức
độ rủi ro giữa các tổ chức. Một cách tiếp cận như vậy là phù hợp với nhiều tổ chức, nhưng nó là
không đủ đối với các tổ chức rằng, đối với bất cứ lý do gì, rất quan trọng trong thị trường cụ thể
và có những hành động ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Ví dụ, vấn đề này là nổi tiếng khi mà
LTCM đã có vị trí rất lớn trong chỉ số thị trường quyền chọn là ngắn. Trong suốt cuộc khủng
hoảng, nó ít có khả năng thay đổi các vị trí này bởi vì nó rất lớn trong thị trường đó. Hơn nữa,
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 24
Những thất bại trong quản trị rủi ro: Chúng là gì và xảy ra khi nào ?
Nhóm 11_K20_TCDNĐêm 1
một định chế lớn có thể nhạy cảm với các giao dịch thôn tính (săn mồi) - tức là, các ngành nghề
được thực hiện bởi những thiết kế khác để khai thác các vấn đề của nó. Một ví dụ về giao dịch
thôn tính là một tình huống mà các giao dịch từ lợi ích các định chế khác từ đẩy giá xuống nếu

họ có thể bởi vì nó có một lực bán tháo. Điển hình mô hình quản lý rủi ro sẽ không hạch toán
cho việc này. Họ sẽ không giải thích cho thực tế rằng nếu định chế lớn trong một thị trường, tổn
thất của nó có thể dẫn đến tổn thất nhiều hơn. Khi một công ty làm cho một sự mất mát, nó có
thể kéo giá giảm đối với các định chế khác và làm cho kinh phí tốn kém hơn giữa các định chế,
có thể có tác dụng phản hồi cho định chế. Bỏ qua những hiệu ứng phản hồi tiềm năng có thể dẫn
đến một cách nói về rủi ro của các vị thế trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng.
Có rất ít hy vọng cho các mô hình rủi ro thống kê dựa trên dữ liệu lịch sŠ để nắm bắt tình huống
phức tạp. Thay vào đó, một công ty để làm tăng thêm các mô hình này với kịch bản phân tích
điều tra làm thế nào các cuộc khủng hoảng có thể mở ra và làm thế nào họ sẽ ảnh hưởng đến nó
theo các giả định khác nhau về việc làm thế nào phản ứng với cuộc khủng hoảng. Với kịch bản
như vậy, nhà quản lý sau đó có thể hiểu cuộc khủng hoảng có thể gây nguy hiểm như thế nào cho
nhượng quyền thương mại của tổ chức của họ và làm thế nào để quản lý các rủi ro trước khi
chúng xảy ra để họ có thể sống sót. Một cách tiếp cận kịch bản như vậy đòi hỏi phải phân tích
kinh tế và tài chính. Nó không thể được thực hiện bởi bộ phận quản lý rủi ro bởi vật lý và toán.
Một cách tiếp cận như vậy cũng không thể thành công trừ khi nhà quản lý tin rằng các kịch bản
được coi là đại diện cho mối đe dọa hợp pháp để tổ chức và tổ chức có thể tự bảo vệ chống lại
các mối đe dọa như vậy.
IV.3 Kết luận
Quản trị rủi ro đã đạt được những tiến bộ đáng kể từ năm 1998. Những khó khăn của năm
cuối cùng đã thuyết phục được nhiều nhà quan sát rằng ở đây có những sai sót nghiêm trọng
trong quản trị rủi ro và các vấn đề của năm ngoái một phần được giải thích bởi những lỗi quản lý
rủi ro. Trong bài nghiên cứu này, tác giả thấy rằng người ta nên phân biệt cẩn thận giữa nguy cơ
đưa ra quyết định bất ngờ dẫn đến thiệt hại và đánh giá quản trị rủi ro. Có rất nhiều cách mà thất
bại quản trị rủi ro có thể xảy ra, nhưng không phải tất cả phản ánh một sự thất bại quản trị rủi ro.
Tuy nhiên, kỹ năng quản trị rủi ro có thể được cải thiện bằng việc tính toán từ bài học của cuộc
khủng hoảng tài chính.Những cuộc khủng hoảng này xảy ra thường xuyên, đủ để họ có được mô
hình một cách cẩn thận và các định chế phải tập trung vào phân tích kịch bản đánh giá những tác
GVHD:TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Trang 25

×