Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chiến tranh thế giới thứ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.33 KB, 24 trang )

Chiến tranh thế giới thứ hai
Chiến tranh thế giới thứ hai
.
Thời gian 1 tháng 9 năm 1939 – 2 tháng 9 năm 1945
Địa điểm châu Âu, Thái Bình Dương, Đông Nam Á, Trung Đông, Địa
Trung Hải và châu Phi
Nguyên nhân
bùng nổ
Đức Quốc xã chiếm đóng Ba Lan, Nhật tấn công Trân Châu
Cảng.
Kết quả Quân Đồng Minh thắng. Hoa Kỳ và Liên Xô trở thành siêu
cường quốc. Chiến tranh Lạnh diễn ra.
Tham chiến
Đồng Minh:
Hoa Kỳ
Anh
Liên Xô
Trung Hoa Dân Quốc
nhiều nước khác
Phe Trục:
Đức Quốc Xã
Phát xít Ý
Đế quốc Nhật Bản
nhiều nước khác
Chỉ huy
Winston Churchill
Franklin Roosevelt
Iosif Stalin
Tưởng Giới Thạch
Adolf Hitler
Benito Mussolini


Hideki Tojo
Tổn thất
Tử vong quân sự:
17.000.000
Tử vong dân sự:
33.000.000
Tổng tử vong:
50.000.000
Tử vong quân sự:
8.000.000
Tử vong dân sự:
4.000.000
Tổng tử vong:
12.000.000
.
Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng được nhắc đến với tên gọi Đệ nhị thế chiến, Thế
chiến thứ hai, hay Đại chiến thế giới lần thứ hai, ) là cuộc chiến tranh thế giới
thảm khốc bắt đầu từ năm 1937 hoặc 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực
lượng Đồng Minh và Trục (phát-xít). Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh
hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực. Nó là cuộc chiến rộng lớn và tai
hại nhất trong lịch sử nhân loại.
Các nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh
cãi, trong đó có Hòa ước Versailles, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa dân tộc
và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu
cuộc chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9
năm 1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7
tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày
Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai thế
chiến chỉ là một cuộc chiến được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.
[cần dẫn nguồn]

Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung
Hải, Thái Bình Dương và phần lớn của Đông Á và Đông Nam Á. Cuộc chiến kết thúc
tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5, 1945 nhưng vẫn còn tiếp diễn tại
châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Khoảng 62 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này, kể cả các hành động tàn sát diệt
chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust). 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh
dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô với 23 triệu
người chết, Trung Quốc với 10 triệu người, theo phần trăm dân số thì là Ba Lan với
16% (5,6 triệu người chết so với 34,8 triệu người trước chiến tranh). Chiến tranh thế
giới thứ hai là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận
cũng bị đánh bom hàng loạt.
Riêng đối với Liên Xô, khoảng từ 2,5 cho tới 3,2 triệu người đã chết không phải do sự
chiếm đóng của quân Đức mà do chính sách khủng bố của chính quyền Xô viết.
[1]
Vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, ra-đa v.v. là một số phát minh trong cuộc chiến.
Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai phái: một phía chịu ảnh hưởng phương Tây
do Hoa Kỳ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước chịu sự ảnh
hưởng của Hoa Kỳ được phục hồi kinh tế sau khi nhận được viện trợ từ Kế hoạch
Marshall trong khi các nước kia trở thành các nước cộng sản phụ thuộc Liên Xô. Tây
Âu liên kết đồng minh trong Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương, trong khi các
nước Đông Âu liên kết đồng minh theo Hiệp ước Warszawa. Các liên minh này đóng
vai trò quan trọng trong Chiến tranh Lạnh sau này. Tại châu Á, sự chiếm đóng Nhật
Bản của quân đội Hoa Kỳ đã Tây hóa nước này, trong khi Trung Quốc bị chia ra thành
hai nước: nước cộng sản Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Trung Hoa Dân
quốc tại Đài Loan.
Hoàn cảnh và nguyên nhân
Lý do dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai khác nhau trong mỗi nơi giao chiến. Tại
châu Âu, lý do nằm xung quanh hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất: Đức muốn
tránh phải tuân theo các điều kiện trong Hòa ước Versailles, chủ nghĩa phát xít ngày
càng phổ biến và các lãnh tụ chủ nghĩa này có tham vọng cao, trong khi tình hình

không ổn định tại Trung Âu và Đông Âu sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã làm chiến
tranh dễ xảy ra. Tại Thái Bình Dương, ý định biến thành cường quốc của Nhật Bản và
sự thắng thế của một số thủ lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ chiếm Trung
Quốc và các nước lân cận để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà quốc đảo nhỏ bé này
không tự đáp ứng được, cuối cùng đã cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.
Tình hình châu Âu
Đức Quốc Xã diễu binh chiến thắng ở Warszawa, thủ đô Ba Lan
Vào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại Ý và Đức trong
khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường Trung Âu. Riêng
tại Đức, đảng Đức quốc xã và thủ lĩnh Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính
quyền kiểu mẫu. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức,
cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân
thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân
đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát
triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng
trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và danh dự
quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít
thành công hơn.
Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên vào việc tái tạo quân đội. Đức
bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân
sự. Các thoả thuận với Liên Xô cho phép Đức huấn luyện các đơn vị lính trong bí mật,
trái với Hiệp ước Versailles. Vào năm 1936, Hitler tái chiếm đóng Rhineland và vào
năm 1938, Đức Quốc Xã sát nhập nước Áo.
Sau khi Áo bị sát nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudentenland từ Tiệp Khắc. Hai
nước Anh và Pháp không muốn tham chiến cho nên đã vứt bỏ liên minh quân sự với
Cộng hoà Tiệp Khắc và ký Thoả thuận München vào ngày 29 tháng 9 để nhân nhượng
Đức. Đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc. Ý theo
gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935 và sát nhập Albania vào ngày
12 tháng 4 năm 1939.
Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức hoá liên minh quân sự

giữa hai nước. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô ký Hiệp ước Molotov-
Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia
sẻ Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên,
nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha
vừa mới kết thúc.
Tình hình châu Á
Để biết thêm thông tin về nội dung này, xem Chiến tranh biên giới Xô-Nhật.
Xe tăng Liên Xô dàn đội hình tấn công quân Nhật trong chiến dịch Khalkhyn Gol
Tại châu Á, Nhật Bản đã có mặt tại Trung Quốc khi chiến tranh bắt đầu. Các khu vực
bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia suy yếu này ngày càng nhiều trong những năm
cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi hai phía
Quốc dân đảng và Cộng sản bớt đánh nhau để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản
ra khỏi Trung Quốc. Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau
này chiều hướng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm đóng hầu hết miền đông Trung
Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn
nhẫn, trong đó có sự kiện Thảm sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi
hỏi Nhật rời khỏi Trung Quốc. Hoa Kỳ, trong khi biệt lập đối với châu Âu, đã bày tỏ
sự quan tâm đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt
như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.
Viên sỹ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình Dương cho binh sĩ.
Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc
trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tuy thế, Trung Quốc không có hai tài
nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏ và
cao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên
này: một là đánh vào phía Bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn
của Siberi và hai là đánh xuống phía Nam vào các thuộc địa của Âu Châu tại Đông
Nam Á. Sau Chiến tranh biên giới Xô-Nhật, nhiều người nghĩ rằng Nhật đã cho rằng
cách đánh vào phía Bắc không thể đạt được.
Diễn biến
Chiến trường châu Âu

Bài chi tiết: Chiến trường châu Âu (Thế chiến thứ hai)
Sự bành trướng của Đức và Liên Xô
Bài chi tiết: Cuộc xâm lược Ba Lan (1939)
Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới Ba Lan
Vào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết,
Đức xâm lược Ba Lan, khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn
phận theo hiệp ước với Ba Lan. Vào ngày 17 tháng 9, lực lượng Liên Xô tiến vào Ba
Lan từ miền đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan chuyển quân sang phía Tây
chống Đức, với lý do bảo vệ kiều dân của họ. Sự xâm nhập từ miền đông của một
nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải ra lệnh quân đội rút khỏi đất nước và tổ chức
lại ở Pháp. Đến ngày 6 tháng 10, Ba Lan đã bị Đức, Liên Xô và các đồng minh của
các nước này chiếm giữ hoàn toàn. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát nằm dưới quản
lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi lãnh thổ Ba Lan bị Liên Xô chiếm giữ được
sáp nhập vào nước này.
Ngay sau đó, lực lượng Liên Xô bắt đầu chiến tranh xâm lược các nước cộng hòa gần
biển Baltic nhưng đã bị Phần Lan phản kháng quyết liệt, dẫn đến Chiến tranh Liên Xô-
Phần Lan (1940) vào ngày 30 tháng 11 cho đến tháng 3 năm 1940. Cũng vào lúc này,
Đức và các nước Đồng Minh Tây phương đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười,
với không một phía nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi cả hai bên đều
tính giành các nước Scandinavia còn lại và các khu mỏ quặng sắt quý giá ở Thụy
Điển. Vào tháng 4, hai phía ngẫu nhiên bắt đầu hành quân cùng lúc và kết quả là Đức
chiếm đóng được Đan Mạch trong khi một cuộc xung đột xảy ra tại Na Uy (xung đột
đầu tiên giữa Đồng Minh và Trục). Cuộc xung đột tại Na Uy cho thấy lực lượng hai
phía là cân bằng, diễn biến nghiêng về phía Đức khi nước này khởi sự một cuộc tấn
công vào Pháp vào ngày 10 tháng 5, bắt buộc các lực lượng Anh và Pháp đang ở Na
Uy phải rút lui.
Phân chia phạm vi chiếm đóng giữa Liên Xô (trái) và Đức Quốc Xã (phải) ở Ba Lan
Cuộc tấn công vào Pháp và các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg diễn ra rất nhanh
chóng và hiệu quả. Người Đức đã huy động vào mặt trận này 3.350.000 quân, nhiều
hơn bất kỳ mặt trận nào khác trong Thế chiến II. Trong vòng một tháng lực lượng Anh

phải rút khỏi lục địa. Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã
tê liệt). Đến cuối tháng 6, Pháp đã đầu hàng, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết
phần lớn các lãnh thổ, phần còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành.
Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn Anh chống lại Đức. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai
nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các
tàu ngầm, nay có thể sử dụng các cảng tại Pháp, và Hải quân Hoàng gia Anh. Các tàu
ngầm được dùng để cản trở việc đưa hàng hóa theo đường biển. Nhánh thứ hai là một
cuộc không chiến trên bầu trời Anh khi Đức dùng Không quân của họ để tiêu diệt
Không quân Hoàng gia Anh, với ý định sử dụng ưu thế không gian để đổ bộ. Đến năm
1941, khi Anh vẫn còn đứng vững, và vì một số nỗi lo âu khác nổi lên, Đức rút lực
lượng Không quân ra khỏi nước Anh.
Chiến trường Địa Trung Hải
Trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh, Ý mở cuộc tấn công Hy Lạp vào
ngày 28 tháng 10 năm 1940. Cuộc tấn công này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng
những đánh lui Ý trở lại Albania, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó
Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ. Trong
khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính
vào ngày 27 tháng 3 năm 1941, đồng thời trục xuất chính quyền đã ký Hiệp ước Ba
Bên chỉ ba ngày trước. Đức cho một số quân đi ổn định khu vực Balkan. Kế hoạch
được đặt ra và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp vào ngày 6
tháng 4, quét sạnh và chiếm giữ khu vực này sau trận đánh tại Crete.
Chiến dịch Bắc Phi
Bài chi tiết: Mặt trận Bắc Phi
Vào tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập
trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somalia của Anh tại Đông
Phi. Đến tháng 9 quân Ý vào đến Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả
hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đẩy Ý ra khỏi cả hai khu
vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi thuộc Ý và Libya.
Quân Anh ở mặt trận Bắc Phi
Tướng Erwin Rommel và Quân đoàn Phi Châu ở Bắc Phi

Quân Ý tịch thu 1 xe tăng Anh tại Bắc Phi
Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đẩy khỏi toàn bộ Phi Châu, Đức
gửi Quân đoàn Phi châu Đức dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Libya để tăng
viện cho đồng minh của mình vào tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã
đánh một trận đánh ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 1941 và
1942. Cùng với trận chiến này, Hải quân Hoàng gia Anh và Regia Maria của Ý cũng
đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại
căn cứ quan trọng tại Malta. Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh
bại lực lượng Regia Maria khiến phía Đồng Minh thêm quân nhu và vật chất. Việc này
cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau Trận chiến El Alamein, chiếm gần hết toàn
bộ Libya và đuổi quân Trục vào Tunisia. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ
hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao
vây các lực lượng phe Trục. Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe
Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia.
Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào Syria và Liban, hai
khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện
cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực
này.
[sửa] Mặt trận phía Đông
Bài chi tiết: Chiến tranh Xô-Đức
Bộ Tổng Tư lệnh Hồng Quân Xô Viết tại Stalingrad
Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong chiến tranh này xảy ra vào tháng 6 năm 1941, khi
Đức cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch
Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ với 3.000.000 quân để chiếm đóng
Moskva trước cuối năm. Chiến tranh Xô-Đức bắt đầu, các lực lượng Đức tiến lên
nhanh chóng do những yếu kém và sai lầm vô cùng ngớ ngẩn trong điều binh của các
chỉ huy Liên Xô cũng như trang bị huấn luyện kém cỏi và lạc hậu của Hồng quân,
quân Đức bắt giữ được hàng triệu và tiêu diệt vô số quân Xô Viết. Họ tiến được một
khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng không chạy đua được với thời gian, cho nên
không hoàn thành mục tiêu. Khi mùa đông đến, quân Đức không chịu nỗi cái lạnh

khắc nghiệt, Liên Xô phản công và bắt Đức phải dừng lại ngay tại ngoại ô Moskva.
Quân lính Xô Viết tại Stalingrad
Tuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941, nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942, tiến
đến sát dãy núi Kav-kaz, nhưng cũng bị Liên Xô phản công vào mùa đông, làm nhiều
quân Đức chết, phản ảnh trong việc tập đoàn quân số 6 Đức bị tiêu diệt tại Stalingrad.
Trong mùa hè năm 1943, trận Vòng cung Kursk đã tiêu diệt nhiều đơn vị Đức không
thể thay thế được, nhất là các đơn vị thiết giáp. Từ đó cho đến khi hết chiến tranh,
quân Liên Xô có thể hành quân tấn công tại mặt trận miền đông suốt năm. Đến cuối
năm 1944, Liên Xô đã giành lại được phần lớn số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và ngày
càng đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây, cho đến khi cuối cùng
xuyên qua Đông Âu, và ngay cả Đức, khi chiến tranh sắp kết thúc. Nhiều đồng minh
của Đức bị sụp đổ khi lực lượng Liên Xô tiến vào Romania, Hungary và khu vực
Balkan. Sau cùng Liên Xô đã chiếm được Berlin vào năm 1945.
Sĩ quan Đức Quốc Xã đang hành hình một gia đình Ukraina năm 1941.
Quân đội Xô Viết tổn thất 10,7 triệu binh lính trong suốt 4 năm chiến tranh. Khoảng
7,7 triệu bị chết hoặc mất tích trong chiến đấu và 2,7 triệu tù binh chết trên tổng số 5,2
triệu bị bắt hoặc đầu hàng quân Đức. Khoảng 400.000 quân Nhảy dù và du kích cũng
thiệt mạng phía sau phòng tuyến của Đức.
[2]
Trong tổng số 12,4 triệu thường dân Liên Xô chết trong chiến tranh, từ 2,5 cho tới 3,2
triệu người đã chết không phải do sự chiếm đóng của quân Đức mà do chính sách
khủng bố của chính quyền Xô viết
[3]
Chiến dịch Ý
Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicilia trong
năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu".
Cuộc tấn công vào Sicilia thành công, khiến chính quyền của Benito Mussolini sụp đổ
và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng
Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Sau cuộc đổ bộ tại
Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn đang

được quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ.
Mặt trận phía Tây
Bài chi tiết: Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ hai)
Quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển Normandie
Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh Tây phương đổ bộ vào bờ
biển Normandie, một vùng của Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Chiến dịch được soạn
ra từ nhiều năm trước, lực lượng nòng cốt là các đơn vị Mỹ, Anh cùng một số đơn vị
khác như Canada, v.v. Chiến dịch bắt đầu bằng việc ném bom hàng loạt từ các căn cứ
không quân bên kia eo biển nước Anh cùng với sự yểm trợ của khoảng 6000 khu trục
hạm. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, ngay những giờ phút đầu tiên đã có 3000 quân
Đồng Minh tử trận. Cuộc chiến cù cưa giữa đôi bên diễn ra khá lâu, quân Đức bị đánh
bại nhưng quân Đồng Minh cũng thiệt hại nặng. Khi chiến dịch này thành công, họ
tiến sâu vào Pháp, đuổi quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng
như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền Nam Pháp cuối
cùng đã giải phóng nước này.
Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc
này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế
tiếp. Việc này dẫn đến sự ra đời của chiến dịch Market Garden, mục tiêu là sử dụng
không quân thả lính dù vào sâu lãnh thổ nước Đức nhằm đánh chiếm trước các vị trí
chiến lược như cầu, kho bãi, v.v. kết hợp với lực lượng xe tăng thọc sâu để tạo nên
đòn quyết định kết thúc chiến tranh. MarketGarden trở thành chiến dịch đổ bộ bằng
không quân lớn nhất lịch sử với hơn hàng ngàn máy bay tham gia. Quân Đồng Minh
cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944.
Nhưng chiến dịch này bị thất bại và lực lượng Đồng Minh tiến đến Đức chậm hơn đã
dự kiến.
Ước tính có khoảng 500.000 quân Đồng Minh bị thương vong trong những chiến dịch
tiếp theo trận Normandie.
Lực lượng phe Trục thua cuộc tại châu Âu
Quân Mỹ giải phóng Paris ngày 25 tháng 8 năm 1944
Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh Tây phương đang tiến vào

biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công
nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ
vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực
Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp phải giải tán.
Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để
hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với
các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông
để chia rẽ các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ. Phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong,
nhưng không bị phá vỡ và cuối cùng phe Đồng Minh giành thắng lợi trong cuộc tấn
công tại Ardennes. Tại miền đông, Đức dành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ
thủ đô. Việc này cũng bị thất bại và lực lượng Liên Xô chiếm đóng Berlin vào cuối
tháng 4 năm 1945.
Sau khi Berlin sụp đổ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu
từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, các lực
lượng Đức đầu hàng vô điều kiện.
Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương
Bài chi tiết: Chiến tranh Thái Bình Dương
Quân đội Trung Hoa Dân Quốc trong trận đánh phòng thủ Thượng Hải năm 1937
trong chiến tranh Trung-Nhật
Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều.
Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu
vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy
ra nhiều hơn các trận đánh trên đất liền như ở châu Âu.
Sự bành trướng của Nhật Bản
Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Chiến tranh Trung-Nhật đang tiếp diễn tại Đông Á khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt
đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc
(ngày 7 tháng 7 năm 1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình
Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai, thì ngày 7
tháng 12 năm 1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến

với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc lực lượng của Hạm đội Liên Hợp Nhật
Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku tấn công bất ngờ vào Trân Châu
Cảng (Pearl Harbor), Philippines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại
Đông Á và Tây Thái Bình Dương.
Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng
thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ. Tại Trung Quốc và Đông Nam Á, Nhật tiếp
tục bành trướng các khu vực được nó kiểm soát nhằm kịp thời khai thác tài nguyên để
sử dụng.
Sáu tháng sau khi giao chiến, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau giữa Thái Bình
Dương. Sau Trận chiến Midway, nòng cốt hạm đội tàu sân bay của Nhật đã bị tàn phá,
và quân Nhật không tiến được nữa trên Thái Bình Dương. Nhật tiếp tục tìm cách trả
đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ
đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.
Nhật Bản thua cuộc
Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm
soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm
những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không
bị chiếm. Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những
hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay để quân đội có thể tiến tới.
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trên mặt trận Thái Bình Dương 1943
Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhận Bản, trên đảo Tân Guinea,
Nhật đã bị quân lực Úc chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này
đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này.
Trong khi Tân Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Úc sợ sau khi Nhật chiếm
giữ đảo này, Úc sẽ bị đe dọa.
Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị
kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân lực Anh, trong đó có rất nhiều đơn vị người
Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe
dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các
lực lượng Nhật tại đó.

Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, Nhật Bản vào năm
1945
Đến gần cuối chiến tranh, Mỹ chiếm được các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom
vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu
quả tại vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và người Nhật ít chuẩn bị trước hơn với mối đe
dọa này. Thêm vào đó, việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất hàng hải
đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật
không thể sản xuất bằng mức mà Đức có thể duy trì được vào lúc chiến tranh sắp
chấm dứt.
Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật, nhưng sự phát triển bom nguyên tử làm
thay đổi tình hình. Ngày 6 và 9 tháng 8, hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống
Hiroshima và Nagasaki. Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã
tuyên bố chiến tranh với Nhật, và sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima đã
tấn công đội quân Quan Đông của Nhật đang đóng ở Mãn Châu ngày 9 tháng 8. Thấy
rõ không thể cứu vãn được, ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng
Minh. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện, sáu
năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan).
Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây, những người dân
Nhật vẫn phải gánh chịu.
Ảnh hưởng đến dân thường
Xem thêm Công ước Genève về đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh chiến
tranh
Nạn nhân quân đội Nhật Bản tại Nam Kinh
Chiến tranh thế giới thứ hai đem đến cho dân thường nhiều nỗi đau thương chưa từng
thấy. Trong hơn 50 triệu người chết vì chiến tranh trên một nửa là thường dân, bị giết
bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người bị chết bởi bom đạn và nhiều hơn nữa vì việc
thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng thêm việc phá hoại nhà cửa và
các phương tiện cho dân trong chiến tranh. Nhiều hơn nữa bị chết vì các chiến dịch có
mục tiêu là dân thường để giảm sự ủng hộ của quần chúng đối với chính quyền và tàn
phá khả năng sản xuất vào việc chiến tranh. Thêm vào đó, nhiều người đã bị hành hình

vì lý do quốc tịch, dân tộc và tín ngưỡng.
Trại tập trung Đức quốc xã (Holocaust)
Bài chi tiết: Holocaust
Xác chết tù nhân trong trại tập trung Bergen Belsen của Đức Quốc xã
Chiến dịch tàn sát tù binh chiến tranh và thường dân điển hình nhất và có tổ chức nhất
là các chương trình được vạch ra và thực hiện bởi Đức quốc xã. Ban đầu chỉ nhắm
mục tiêu vào người Do Thái tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người
không ưa thích. Chế độ Đức quốc xã bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người
này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm
người Do Thái, người đồng tính luyến ái và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu
tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo chủ nghĩa xã hội và
các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ Cơ đốc giáo) lên tiếng cũng bị bắt giữ.
Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới
chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng Ba Lan đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với
gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu
diệt. Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav bị chinh phục khác cũng bị giam
cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước
Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück,
Ausschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen Số người được giải phóng khỏi các
trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn.
Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và
trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác
được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do
Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục đích.
Xô Viết
Tù binh Đức trong trận Berlin
Đức không phải là nước duy nhất có tổ chức tàn sát dân thường. Liên Xô dưới thời
Stalin cũng có những hành động đó. Tù binh Đức bị ngược đãi rất nhiều, trong trận
đánh Stalingrad khoảng 260.000 quân tập đoàn quân 6 Đức bị bao vây sau đó 91.000
bị bắt làm tù binh, chỉ còn 6.000 người sống sót để trở về, cũng như thường dân trong

các khu vực được tái chiếm từ Đức, một số lớn bị buộc tội làm tay sai. Tại các nơi có
nhiều người ủng hộ quân Đức, giá người dân phải trả càng cao.
Thi thể của những phụ nữ và trẻ em Đức bị sát hại bởi quân đội Xô viết tại Metgethen
Có tới 600.000 thường dân tại 3 quốc gia ven biển Baltic là Latvia, Lithuania và
Estonia
[4]
, 2 triệu rưỡi người Ba Lan
[5]
, 80.000 người Tiệp Khắc cùng 300.000 người
Romania đã bị sát hại bởi lực lượng Liên Xô
[6]
Nhật
Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số
người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng Nhật tàn sát tại Trung
Quốc. Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc phía Đông nước Đức,
người Nhật xem người Trung Quốc là mọi rợ và giới lãnh đạo chẳng những xem các
tội ác chiến tranh là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Các ước tính số người bị
chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu. Một số
khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc, như Nạn đói Ất Dậu tại
miền Bắc Việt Nam.
Cuộc chiến tranh dã man Không chỉ phe Trục và các chế độ độc tài ngược đãi
thường dân trong lúc chiến tranh đang diễn biến. Các công dân của các nước Đồng
Minh cũng bị đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người từ các
nước phe Trục. Điển hình là người Mỹ gốc Nhật đã bị tập trung ở các trại giam giữ
trong thời kỳ chiến tranh. Theo nhiều tài liệu thì ở Mỹ lẫn Anh đều xuất hiện nhiều vụ
tra tấn tù binh tàn bạo.
Chiến tranh tổng lực
Nạn nhân của vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima
Được bắt đầu bởi Đức để khủng bố và giảm tinh thần quần chúng trong các vùng
thành thị để Đức có thể tiến tới nhanh hơn, chiến tranh chiến lược dùng sức mạnh trên

không gian để đánh vào các thành phố địch. Các chiến dịch của Đức có hiệu quả hữu
hạn vì mẫu các máy bay ném bom không phù hợp vào việc này và lực lượng không
quân còn nhỏ.
Gần giữa chiến tranh, quân Đồng Minh bắt đầu dùng chiến thuật ném bom hàng loạt
vào tận Đức. Để tránh sự chồng chéo nguy hiểm, có sự phân công: máy bay Anh thả
bom ban đêm còn máy bay Mỹ đánh phá ban ngày. Với nhiều máy bay oanh tạc có tải
trọng lớn và đủ khả năng bay đường dài, các trận ném bom này đã phá hủy nhiều
thành phố Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, họ có thể biến các khu vực đô thị thành một
quầng lửa, làm tan tành thành phố. Số thường dân bị chết khá cao, tại Đức có khoảng
300.000 người. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có vài chục ngàn
dân thường Đức thiệt mạng. Việc các chiến dịch này có giúp đem đến chiến thắng mau
hơn vẫn còn chưa rõ.
Dân thường tại Nhật Bản còn bị tấn công hơn nữa. Đức có các cơ sở công nghiệp xa
nơi dân ở cho nên khu công nghiệp bị tấn công trước khu người ở. Trái lại, người dân
Nhật ở đông đúc vào các khu vực thành phố trong các ngôi nhà được xây dựng bằng
gỗ (tại Đức nhà cửa phần lớn được xây bằng đá), dễ bị đốt cháy và lan tràn khắp thành
phố khi các quả bom được ném xuống. Thêm vào đó, Mỹ cũng sử dụng các máy bay
thả bom mới hơn và lớn hơn tại Đức.
Nếu tính đến cuối cùng, cú đánh mạnh nhất là hai cuộc tấn công bằng bom nguyên tử
vào hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Tổng số người Nhật bị thiệt mạng lên đến
400.000 người lúc ban đầu, và thêm nhiều người chết vì di chứng nhiễm phóng xạ
trong nhiều năm kế tiếp. Có sự tranh cãi về việc có cần thiết phải thả bom nguyên tử
trên đất Nhật hay không. Phía Mỹ vẫn cho rằng việc này đã dẫn đến việc Nhật đầu
hàng một cách mau chóng, tránh thương vong cao cho quân Mỹ nếu đánh vào Nhật
bằng chiến tranh quy ước (như kinh nghiệm đánh lên hai đảo Iwo Jima và Okinawa đã
cho thấy). Nhưng có ý kiến phản bác cho rằng lý do chính là Mỹ muốn "dằn mặt" Nga
lúc đó có tin đang bắt đầu chế tạo bom nguyên tử.
Kết quả
Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi
nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ,

Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm
đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng
các nước Đông Âu.
Quân Mỹ và Liên Xô gặp nhau tại Torgau bên bờ sông Elbe
Trái với Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các
nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc
đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc
gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều
ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến.
Sự thất bại của Hội Quốc Liên trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành
lập Liên Hiệp Quốc, một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là
tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác.
Hậu quả lâu dài
Ngay sau chiến tranh, liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về tư tưởng.
Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu,
mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía Tây, các nước Mỹ,
Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên
Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác trong Hiệp ước Warszawa. Xung đột
giữa hai phái sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh này.
Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân được mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc.
Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong Chiến
tranh Lạnh, nhưng nhiều cuộc khác xảy ra trước cuộc chiến. Hai nước Anh và Pháp đã
phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. Ấn Độ giành được độc lập từ Anh
và Philippines giành độc lập từ Mỹ. Tại Đông Dương và nhiều thuộc địa tại châu Phi,
các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập.
Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là Israel. Sau cuộc thảm sát Holocaust, dân Do
Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã
có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh là việc quan trọng mà quốc gia này luôn
phải đương đầu để được độc lập và tồn tại.
Các nước tham chiến và hậu quả

Tướng Mỹ Douglas McArthur ký nhận đầu hàng vô điều kiện của Nhật
Tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều bị Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng ít
nhiều. Phần lớn đã tham chiến theo phía Đồng Minh hay phe Trục, và một số đã theo
cả hai. Một số nước được thành lập vì chiến tranh, và một số không tồn tại được.
Một số quốc gia tham chiến quan trọng nhất được liệt kê sau đây:
• Đức: Cường quốc chính của phe Trục tại châu Âu, chiến tranh bắt đầu khi Đức
xâm lược Ba Lan, và chiến tranh chấm dứt tại chiến trường châu Âu sau khi
Đức đầu hàng.
• Pháp: Lực lượng chính của Đồng Minh tại lục địa châu Âu, Pháp đã tuyên chiến
với Đức sau việc xâm lược Ba Lan. Pháp không hăng hái trong việc tham chiến
và không chống cự nổi lực lượng Đức sau khi bị xâm lược vào năm 1940. Khi
chính quyền Pháp bị sụp đổ, một chính quyền bù nhìn được thành lập, nhưng
một số thuộc địa của Pháp vẫn trung thành với phía Đồng Minh và lực lượng
Pháp Tự do.
• Anh: Trong khi Anh không có khả năng sản xuất như Mỹ hay có nhân lực như
Liên Xô, họ vẫn là một thành phần quan trọng trong việc chiến thắng của lực
lượng Đồng Minh trên cả hai chiến trường.
Thống chế Wilheim Keitel thay mặt nước Đức Quốc xã ký giấy chấp nhận đầu hàng
Đồng minh Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp ngày 9 tháng 5 năm 1945 tại Carlschorst,
Poshdam
• Ý: Một đồng minh của Đức vào ban đầu, Ý chỉ tham chiến sau khi số phận của
Pháp đã an bài. Nỗ lực chiếm Hy Lạp và Ai Cập thất bại, thêm vào đó nhiều
thất bại hải quân tại vùng Địa Trung Hải đã cho thấy Ý không đủ chuẩn bị cho
cuộc chiến tranh này. Sau khi bị quân Đồng Minh xâm chiếm, Ý bị sụp đổ, với
một chính quyền mới theo phía Đồng Minh.
• Liên Xô: Đã ký thỏa thuận không xâm lược với Đức và có ý xâm lược Phần
Lan. Tuy nhiên, sau khi Đức thình lình tấn công vào năm 1941, Liên Xô theo
phía Đồng Minh. Liên Xô bị nhiều tổn thất trước quân đội Đức, nhưng cuối
cùng cũng thay đổi chiều hướng và chiếm đóng Berlin để chiến thắng tại châu
Âu. Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phe Trục đã phải gánh chịu những

tổn thất to lớn nhất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương
và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là gần 14 triệu người,
trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 10,7 triệu người.
• Nhật Bản: Một trong những cường quốc phe Trục, Nhật Bản có lý do tham
chiến riêng. Không đủ tài nguyên, Nhật đã nỗ lực giành tài nguyên từ khu vực
tây Thái Bình Dương và Đông Á. Nhưng họ không đủ tiềm lực để đánh quân
Đồng Minh, và đã bị đẩy lùi, và cuối cùng bị thả bom nguyên tử, khiến chiến
tranh kết thúc.
• Trung Quốc: Không còn nhận dạng là một quốc gia được nữa khi chiến tranh
bắt đầu, Trung Quốc đã nhận lãnh đòn chủ nghĩa quân phiệt của Nhật trên một
thập kỷ. Cả hai phía Quốc dân đảng, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, và phía Đảng
Cộng sản, họ dùng cách đánh du kích đã kháng cự chống Nhật.
• Hoa Kỳ: Đang phân vân về vấn đề tham chiến, Hoa Kỳ bị cuốn vào chiến tranh
khi Nhật tấn công bất ngờ và Đức tuyên chiến. Hoa Kỳ dùng khả năng kinh tế
và công nghiệp an toàn để tiếp tế cho tất cả các nước Đồng Minh và đã tạo lực
lượng và duy trì nỗ lực tại châu Âu và Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng là nước
tham gia trên nhiều mặt trận nhất và viện trợ nhiều nhất cho các nước Đồng
Minh.
Tóm tắt
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không
cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh
hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng nguời và phá hoại nhiều hơn. Tuy
nhiên, sự lớn lao của cuộc chiến này chỉ là một trong nhiều khía cạnh nổi bật nhất của
nó. Một số khía cạnh khác đáng được chú ý là:
• Ảnh hưởng thế giới lâu dài: Hầu hết các quốc gia đã theo phía này hay phía
kia trong chiến tranh. Một số quốc gia theo cả hai phía vào các thời điểm khác
nhau. Mọi lục địa có người ở, trừ Nam Mỹ, đều có trận chiến. Ngay cả các nước
trung lập cũng bị ảnh hưởng sâu sắc trong chiến tranh và sau chiến tranh.
• Phát triển kỹ thuật: Trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật, sự tiến triển rất nhanh
chóng vì chiến trường có nhu cầu cải tiến kỹ thuật. Diễn tiến này có rất rõ trong

trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự, từ máy bay đến xe cộ và máy tính.
• Bom nguyên tử: Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến một cuộc cạnh tranh
giữa một số nước để khai thác năng lượng nguyên tử và phát triển vũ khí hạt
nhân. Nước Mỹ thắng cuộc trong cạnh tranh này và đã sử dụng vũ khí nguyên
tử lần đầu tiên trên thế giới để tạo ra ưu thế trong việc phân chia thế giới sau
chiến tranh.
• Chiến tranh tổng lực: Chiến tranh này đã trở thành chiến tranh đầu tiên phổ
biến cách chiến tranh tổng lực (strategic warfare). Chiến tranh nay không
những chỉ là để đánh bại quân địch và chia cắt vật chất, mà còn phải tấn công
thẳng vào các khu vực người ở và công nghiệp để phá hủy khả năng sản xuất và
ý chí của địch.
• Kháng cự của người dân: Chiến tranh du kích không phải mới, nhưng trong
hầu hết các nước bị quân địch chiếm giữ (đặc biệt là bởi Đức và Nhật), có các
phong trào kháng chiến được nổi dậy. Trong khi các phong trào này thường
không tự giải phóng đất nước, họ đã làm quân đóng chiếm hao tổn công sức và
lãnh thổ không bao giờ bị chiếm giữ toàn bộ. Việc này đã chứng minh rằng việc
chinh phục và lôi cuốn một giống người không bằng lòng bằng vũ lực là một
chuyện không thực tế.

×