Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đề tài " Chính sách tỷ giá hối đoài ở Việt Nam " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.71 KB, 29 trang )

Đề tài
Chính sách tỷ giá hối đoài
ở Việt Nam
1
Contents
Đề tài 1
Chính sách tỷ giá hối đoài ở Việt Nam 1
Contents 2
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm
trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong
việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực
kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, loài người đã và
đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng
tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận
hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công
cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của giá" , bị
chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu tượng vốn có
của bản thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là
cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong mọi
quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc xử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến các
chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắn
và sử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá hối đoái là một nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc tế hoá
đã bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống, thì sự gia
tăng của hợp tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh của mình
đã làm cho việc quản lý đời sống kinh tế của đất nước và là mối quan tâm đặc biệt
của chính phủ các nước trong quá trình phục hưng và phát triển kinh tế.%
3


CHƯƠ NG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI
I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái:
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh Châu
Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ) Trung quốc có
Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết là
quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng tiền của các
nước khác nhau với nhau, đông tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó ta có thể nói
rằng: tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ
của một nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là
số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và
Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua
một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái:
• Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (en): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến nhiều
nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng hàng ngày.
• Tỷ giá hối đoái thực tế (er): được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát
giữa các nước và phản ánh đúng swsc mua và sức cạnh tranh của một nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được quyết định bởi sự tác động giữa cung và cầu ngoại tệ
trên thị trường nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch ngoại tệ phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội
a) Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối

Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước
khác mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu
càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối.
4
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống dốc phía
bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hang hoá của nước ấy
càng trở lên đắt hơn đối với những người nước ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn.
b) Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải
mua một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng
tiền này của nước A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên trên về
phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ và hàng hoá
ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều.
3. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó
của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết
phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác
nhau:
a)Căn cứ vào phươ ng ti ện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai
loại:
• Tỷ giá điện hối: là tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
• Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
b) Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại
• Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở
ngang giá vàng.
• Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu

qui định .
• Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không
can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
• Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
c)Căn cứ vào phươ ng ti ện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các
loại:
• Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
• Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn
bằng ngoại tệ.
• Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản
ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
• Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối
bằng tiền mặt.
5
d)Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
• Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán ngoại hối
của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
• Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại
hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
• Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại
hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
• Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận
ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có
thể là 1,2,3 tháng sau).
e)căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá
chia ra làm hai loại:
• Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
• Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II- Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái:
Cũng như giá cả hàng hóa, tỉ giá thường xuyên biến động trên thị trường và

chịu sự tác dộng của nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố này thường tác động lên
cung và cầu ngoại tệ, từ đó tá động đến tỉ giá. Theo kinh nghiệm và quan sát của
các chuyên gia, tỉ giá thường chịu tác động của các yếu tố sau đây:
1. Cán cân thươ ng m ại:
Trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một nước tăng thì
đường cung về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển về phía bên phải, tỷ giá hối đoái
giảm xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển
sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên.
2.Tỷ giá lạm phát tươ ng đ ối:
nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác
thì nước đó sẽ cần nhiêù tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của nước kia.
Điều này làm cho cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống.
3.Sự vận động của vốn:
khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi
lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản
của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn mua tài
sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và
làm tăng tỷ giá hối đoái của nó. ây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất
tới tỷ giá ở các nước phát triển cao.
4.Dự trữ, phươ ng ti ện thanh toán, đầu cơ :
tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể
gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện
6
đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi
ngày.
Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển đường cung và
cầu trên thị trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này đến lượt nó sẽ gây ra những dao
động của tỷ giá hối đoái, và như vậy phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ
giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế trong nước.
III. Các chế độ tỷ giá hối đoái

Hiện nay, trên thế giới và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến
tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc
lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc
tế, điều kiện cụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các
nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải.
1.Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng
Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm lượng
vàng của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, khi thương mại
quốc tế tăng lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này không đáp ứng
được nhu cầu phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971.
2.Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ
kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh
lệch nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều
tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt
Nam trước năm 1989.
3.Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn
toàn bởi các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ
thái độ thụ động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ
giá hối đoái này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo
và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà nước.
4.Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với
ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị
trường trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp
loại tỷ giá hối đoái này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa,
nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao.
5.Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp

vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định.
7
Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp
và duy trì ổn định.
* Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của
các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế
và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về
nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái.
Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái:
Một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên
nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó
mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan
đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ
cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác
nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc
vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra.
V.Sự can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái :
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một
mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hang nhà nước, cùng với
một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá
chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải
có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động
can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề sau:
_ Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt,
thường trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
_Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường
ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nước cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức
năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị
trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các

chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịch
tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm
điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.
_Ngân hàng nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng
cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng
thành viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân
hàng thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có
thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện với các ngân hàng thương
mại và ngân hàng nhà nước.
8
_Ngân hàng nhà nước và cac bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các
giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra
khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được
thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hang mà còn phải mở rộng giao dịch
trên khu vực tự do của thị trường.
_Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường
ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua
bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà
nước, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng,
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp
bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào
đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về
bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
_Việc can thiệp của ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ
cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ
mang tính kỹ thuật của thị trường.
_ Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không
ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và
quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật

để hạn chế về thanh toán qua nhiều : trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán
nội bộ của chính các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
_Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng
vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hang
năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực té bình quân của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ
quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đói lớn, vĩ mô của nền kinh tế.
_ Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống
nhau, điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một
quốc gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Để thực hiện điều
chỉnh tỷ giá hối đoái đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là
một vài phương pháp phổ biến:
1. Phươ ng pháp lãi su ất chiết khấu:
Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên
thị rường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức "báo động" cần
phải can thiệp thì ngân hàng trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất
chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn vay
ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng
thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa.
Vào năm 1971 đến năm 1973 USD rơi vào khủng hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn
9
đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD banừg cách tăng
lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc
tế. Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì
quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại gián tiếp, chứ không
phải quan hệ trực tiếp nhân quả.
2. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái:
Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một
trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định sức
mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối

đoái.
Đây là hoạt động mang tính chủ quan, do vậy việc lựa chọn các thời điểm
cần mua bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh
có ý nghĩa quyết định. Để nắm được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ
trên thị trường, ngày nay nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những điều kiện không
thể thiếu được cho bất kỳ quốc gia nào là cần phải thường xuyên có một lượng dự
trữ ngoại tệ dư sức để can thiệp vào thi trường khi cần thiết.
3. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái:
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí xảy
ra những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như
là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ thường là:
_ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.
_ Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo phương pháp này,
khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về
để cân bằng cán cân thanh toán.
4. Vốn để phá giá đồng tiền:
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc hỉam thấp sức mua của đồng tiền đối
với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá
hối đoái. Trên thế giới, việc phá giá đồng tiền thường được sử dụng ở những nước
có tiềm lực kinh tế dồi dào, nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi với lạm
phát trầm trọng.
Trên đây là một số công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động vào tỷ
giá hối đoái nhằm mục đích cao nhất: duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái,
ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã dự kiến.
10
CHƯƠ NG II :

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
I- Nhìn lại cơ ch ế điều hành tỷ giá VIệt nam
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt
Nam được tính theo đồng Rúp clearing (sau này đổi là rúp chuyển khoản-
transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước
thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi
trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy định trong hiệp định ký kết vào
đầu năm thì cuối năm không còn số dư.
Đặc trưng của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ
nhiều mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối
đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm
các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì
trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và
giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá
bỏ cơ chế độc quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất
nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh
doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương
chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế
mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù
hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao
cấp, xa rời với thị trường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và
điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự
điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận
động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự
quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác
nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
1. Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới

đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993
11
Năm
Tỉ giá USD/VND
Lạm phát
Giá chính thức
của nhà nước
Giá thị trường
tự do
Tăng giảm %
1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070
1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50
1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00
1992 10.720 10.500 -0.02 +17.50
1993 10.835 10.736 -0.01 +5.20
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến
động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá
VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị
trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu
ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
_ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
_ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên
những cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.
_ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
_ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang
của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại
không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa
các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết
quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất

hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát
được lưu thông ngoại tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách
quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung
chính của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
_ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vịkinh tế quốc doanh có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băngf biện pháp kinh tế: mở
trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua
bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
_ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương
giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên
cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công
bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như
vậy cộng với sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ
mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được
xu hướng tăng quá mức giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt
đầu giảm.
12
2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
Năm Tỉ giá
USD/VND
So sánh % năm
trước
Tốc độ lạm phát
(%)
1993 10.835,00 100% 5.2
1994 11.050,00 +1.98% 14.7
1995 11.040,00 0% 12.7
1996 11.060,00 +0.18% 4.5

(số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ
số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian
này không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà nước làm
cơ sở tính toán. qua bảng số liệu (bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái
chậm hơn tốc đọ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ,
vào cụm các nhân tố đối ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996_ đã không
khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ
thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh
1 2 3 4=3-2
1993 2.985 3.924 -939
1994 4.054 5.825 -1.771
1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5
1996 7.255 11.143 -3.888
(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM
qua các năm 1996-1997-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất
khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình
trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để
bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy
móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước
lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996)
tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng
2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại.
Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số
13

lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán
thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu
USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD
năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đén nay nhà nước đã có
những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC
thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là
chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần
thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và
dài hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua
mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
3. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ ch ế thị
trường (1992 - 1997)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hang nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng
ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào
kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên kinh
doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội năm, giá Dola giảm mạnh,
mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400.
Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích
nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng
USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hang
phải mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ
tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở
đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn nhất
định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu tổ chức, hai trung tâm giao dịch
ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia vào giao dịch tăng

nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và mở rộng.
Trước tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên
Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường
liên Ngân hang có qui mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt
hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát
với thực tế hơn. Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt nắm
được nhu cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp
thời tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước đã thông qua thị trường lien Ngân hang
để nắm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hang
ngày và biên độ qui định tỷ giá giao dịch cho các Ngân hàng thương mại làm công
14
cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính
sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ
cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền
Việt Nam và quan hệ cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho phép
Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ chế điều hành tỷ giá. Thực tế tỷ
giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát với thực tế và biên
độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục ( tử # 0,5% ,
+_ 0,1% đến #5% so với tỷ giá chính thức )
* Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và
chuyển sang trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991. Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá
hối đoái được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung, tỷ
giá hối đoái đã có những bước tiến lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái
qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày càng nhỏ ( điều đó chứng tỏ khả năng
chi phối của Ngân hàng trung ương đối với tỷ giá hối đoái ), mức tỷ giá hối đoái đã
phản ánh giá trị ngoại tệ và quan hệ cung cầu.
Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực tế nền kinh tế nước ta, chúng
ta có thể khẳng định tính hợp lý tương đối khách quan của chính sách tỷ giá và cơ
chế điều hành trong thời gian qua là phù hợp với quá trình vận động và phát triển
của nền kinh tế, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng ngày càng

phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường cần xem xét kỹ lợi và hạn chế
trong cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay để đưa ra giải pháp tối ưu trong thời gian
tới.
4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ
năm 1997 đến nay.
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường ngoại
tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ
luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ.
Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu
năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997,
nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ
rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn
VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung
cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ
1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức
ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ.
Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so với 1,4 tỷ USĐ
vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu á đã
ảnh hưởng gây sức ép VNĐ do yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy tỷ giá ở thị
trường tự do tăng mạnh có lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ.
15
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam, một năm với những khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực
Mặc dù có những tổn thất mất mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt
được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân
hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo. Những kết quả nổi bật này được thể
hiện qua một số nội dung. Góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp, nhưng vẫn
đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định.

- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc điều
hành lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu
cầu của nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều
kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần
kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu
giảm 42% dầu thô giảm 30% giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng mặt
hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố
gắng khắc phục và nhanh chóng duy trì việc xuất khẩu gạo.
-Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ
giá bị đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá
cả của hoạt động mua ( nhập khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu ). Tỷ giá đứng
( trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà
mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không khuyến khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua.
Mua thì được khuyến khích, bán thì bị hạn chế, do đó đưa đến tình trạng nhập siêu.
Ngoài ra còn nguyên nhân khác nữa là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập
lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt.
Bước qua năm 1998, những tháng trước và sau Tết, tình hình tỷ giá hối đoái
trong nước ngày càng trở nên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có
ngày thay đổi giá vài lần điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã
hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm
chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị
hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ tăng
đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, Ngân hàng không mua
không bán và cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, chính phủ đã có một
quyết định đúng nhằm kiểm soát ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban
hành quyết định 37/1998/ QĐ- TTg ( ngày 14/2/1998 ) " về một số biện pháp quản
lý ngoại tệ " Đây là một bước thành công lớn của nhà nước ta trong vấn đề quản lý
và kiểm soát ngoại tệ, nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ. Giá USD ở
thị trường tự do hơn một tháng nay đã giảm đến mức thấp, bình quân là 13.020

VNĐ/USD. Tỷ giá thị trường tự do, thị trường có tổ chức ( thị trường liên ngân
hàng , ngân hàng ) đã sát lại gần nhau. Hiện nay ngân hàng đã kiểm soát được trên
16
90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường, đã thu hút từ nhiều nguồn một lượng
ngoại tệ tăng thêm.
II.Lợi thế và hạn chế trong cơ ch ế điều hành
1. Lợi thế
Cơ chế điều hành tỷ giá trên qui định tỷ giá chính thức tạo điều kiện cho
Ngân hàng trung ương dễ dàng kiểm soát, điều tiết được thị trường hối đoái. Trước
hết là thị trường ngoại tệ trên Ngân hàng. Biên độ giao đồng quanh tỷ giá chính
thức là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua giới hạn này mà chúng
ta đã đạt sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, góp phần
không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế.
- Thông qua tỷ giá của các Ngân hàng thương mại trong biên độ qui định.
Ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng nắm bắt được diễn biến cung - cầu ngoại tệ
thực tế của nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để
có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. Qui định chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán
cho các Ngân hàng Thương mại, ở một mức độ nào đó, hạn chế khả năng đầu cơ tỷ
giá của các Ngân hàng tránh trường hợp tỷ giá mua và tỷ giá bán quá chênh lệch.
- Cơ chế tỷ giá thống nhất đã tạo ra một môi trường pháp lý vững chắc cho
các hoạt động kinh tế - thương mại trong tổng hoá các mối quan hệ của nền kinh tế.
Đồng thời tỷ giá chính thức tạo ra được một cơ sở pháp lý, mang tính chủ quyền
cho đồng tiền Việt Nam trong các quan hệ đối ngoại.
2. Hạn chế
- Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi
lúc tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu
Ngân hàng Trung ương đặt ra. Bởi " Nhất cử nhất động " của Ngân hàng trung
ương, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá - một lĩnh vực cực kỳ nhạy bén, đều tạo cho thị
trường những yếu tố tâm lý tức thời. Trước những biến động của tỷ giá thị trường,
việc thay đổi tỷ giá chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay

lập tức biên độ để cho phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi
lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về
chính sách của Ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó, Ngân hàng trung ương cũng
không thể thay đổi biên độ quy định giới hạn tỷ giá mua bán của các Ngân hang
Trung ương thường xuyên được.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay. Khi mức chênh lệch
tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Trung ương, và tỷ giá thị
trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt sự chênh lệch trên gây ra những
yếu tố tâm lý, không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế
quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hang
Thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định, thì việc công
17
bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa mức tỷ giá trung bình, trên thực tế không
thể hiện vai trò quản lý của nó.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch
tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị
trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những
yếu tố tâm lý không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế
quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hang
thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công
bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể
hiện vai trò của nó.
- Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ
ra còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều
tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ
giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ gía thị trường tự do, thì tỷ giá
tính thuế sẽ bị hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu. Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong
quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh
đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu.

- Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh
lệch giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với
các Ngân hàng Thương mại. Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động,
luôn thay đổi, trong khi đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức
chênh lệch chỉ thể hiện mặt quản lý danh nghĩa, các Ngân hang Thương mại khó có
thể tuân thủ đúng qui định này được. Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy
là tương đối chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương
mại đã phải xác định chênh lệch tỷ giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của
mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng dự tính về lợi nhuận và khả năng của mồi
Ngân hàng. Thực chất qui định chênh lệch tỷ giá mua bán quá chặt chẽ như vậy
không khuyến khích hoạt động trên thị trường theo đúng các quan hệ nội tại của nó
và phần nào không tạo ra một môi trường cạnh tranh hoàn hảo trong kinh doanh.
IV.Mục tiêu nhiệm vụ và định hướng của chính sách tỷ giá hối
đoái
1. Mục tiêu
Khái quát lại cơ sở để hoạch định và xác định mục tiêu của chính sách tỷ giá
hối đoái của Việt Nam giai đoạn tới bao gồm.
- Hiện trạng kinh tế - tài chính nước ta ( trong đó quan trọng nhất là tính hợp
lý của tỷ giá hiện hành, thực trạng ngân sách, tài chính, tiền tệ, thị trường tài chính,
lạm phát , cán cân thanh toán quốc tế ), tuy đã được cải thiện một bước căn bản,
18
song vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn và xu hướng tiếp tục lên giá của Việt Nam đồng
tương đối rõ nét.
- Triển vọng kinh tế tuy sáng sủa, song mục tiêu và phục vụ chiến lược Việt
Nam là rất nặng nề, đòi hỏi bản lĩnh điều chỉnh kinh tế vĩ mô phải hết sức năng
động, vững vàng quán triệt đầy đủ các mục tiêu định hướng ưu tiên.
Hiện trạng kinh tế đối ngoại, đặc biệt là chiến lược mở cửa nhanh trong bối cảnh
quốc tế đầy biến động và diễn biến thất thường. Song yêu cầu của quan hệ kinh tế
đối ngoại phải có hiệu quả ổn định và vững chắc. Tuy nhiên để nâng cao luận cứ
cho việc lựa chọn mục tiêu, xác định nhiệm vụ cụ thể của chính sách tỷ giá hối

đoái chính xác hơn, từ đó lựa chọn giải pháp, công cụ điều chỉnh để đạt mục tiêu
đề ra cần nhận thấy.
Thứ nhất, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tác động trực tiếp của chính sách
nằm trong lĩnh vực tiền tệ , các quan hệ tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước giữa
các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, định hướng điều chỉnh của chính sách tỷ giá hối
đoái có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô khác ( nợ nước ngoài, ngoại
thương FDI, huy động vốn nội địa, chiều hướng vận động của các dòng vốn ).
Song đây là các hệ quả gián tiếp và hiệu ứng thực tế của sự ảnh hưởng nói trên còn
phụ thuộc nhiều chính sách, yếu tố khác.
Thứ hai, với tư cách về mặt đối ngoại của chính sách tiền tệ tuy có những
đặc thù riêng song hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái phải xuất phát
từ định hướng phù hợp với các mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai
đoạn phát triển ( tương ứng với mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế chiến lược giai đoạn
1996-2000 ) tăng chưởng nhanh, bền vững , công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì
chính sách tiền tệ có hai mục tiêu trung gian cơ bản: Một là, kiềm chế vững chắc
lạm phát ở mức thấp, kéo lạm phát xuống một con số.
Hai là phát triển hệ thống tài chính- tiền tệ nhằm nâng cao tỷ lệ tích luỹ và
đầu tư cho nền kinh tế Xét về dài hạn, triển khai chính sách tỷ giá hối đoái là
hướng vào mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế.
* Những mục tiêu chủ yếu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2001-
2005 bao gồm
1. Mục tiêu trực tiếp: thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá hối đoái cân
bằng, ổn định dựa trên sức mua thực tế của Việt Nam đồng với các ngoại tệ, tương
quan cung cầu trên thị trường
2. Mục tiêu chiến lược: không ngừng nâng cao uy tín của ViệtNam đồng trên
cơ sở ổn định vững chắc giá trị của nó, sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đối nội và
đối ngoại.
3. Phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối và đẩy lùi căn bản hội chứng
Đô la hoá nền kinh tế trên cơ sở tạo ra đầy đủ tiền đề kinh tế, pháp chế để Việt
Nam đồng thực hiện trọn vẹn chức năng của mình và tăng cường vai trò trong đời

19
sống kinh tế, nhất là trong lưu thông thanh toán và với phương cách là phương tiện
tích luỹ tài sản.
4. Tạo ra các tiền đề cần và đủ để mở rộng hình thức, nội dung phạm vi
chuyển đổi của ViệtNam đồng
5. Tăng dự trữ ngoại tệ lên mức thích hợp và với cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp
lý đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ vấn đề uy tín của Việt Nam
đồng được nhấn mạnh bởi nó có ý nghĩa hết sức to lớn trên nhiều phương diện
kinh tế , chính trị, đối nội và đối ngoại, đồng thời gắn với hàng loạt vấn đề mang
tầm chiến lược. Trên phương diện lý thuyết lẫn thực tế, sự mất uy tín của đồng bản
tệ ở bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng là nguyên nhân của các biến động kinh tế, tài
chính và để lại nhiều hậu quả tiêu cực khó lường. Rõ ràng một đồng tiền mất uy tín
tất yếu sẽ làm tổn thương đến tích luỹ, đầu tư nội địa, loại bỏ sự hấp dẫn với FDI,
tăng nguy cơ lạm phát, chi phí lãi xuất huy động cao, nếu trầm trọng có thể bị tước
bỏ chức năng, bị đẩy ra khỏi hệ thống thanh toán tạo điều kiện cho hội chứng Đôla
hoá Là một nước mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng, siêu lạm phát, uy
tín của Việt Nam đồng trong dân chúng chưa cao, đã hiểu cái giá phải trả cho việc
đồng tiền bị mất uy tín giai đoạn vừa qua.
Do vậy việc nhận thức đầy đủ vấn đề nâng cao uy tín của đồng tiền quốc gia
cũng chính là một tác nhân trực tiếp vào chiến lược vốn, chiến lược tăng trưởng
nhanh , bền vững của nước ta.
Đối với một quốc gia, chủ quyền tiền tệ là tối quan trọng, tình trạng Đôla
hoá những năm qua ở Việt Nam gây nhiều hệ quả tiêu cực, song trước đây chúng
ta chưa có đủ điều kiện để sử lý triệt để vấn đề này. Sau khi nền kinh tế đã ra khỏi
khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ đã được cải thiện một bước cơ bản, các tiền
đề cần và đủ cho thực hiện chủ quyền tiền tệ đã xuất hiện. Hơn nữa, việc xây dựng
chủ quyền tiền tệ còn là yêu cầu đòi hỏi cấp bách từ yêu cầu phát triển kinh tế của
Việt Nam giai đoạn tới. Nền kinh tế bị Đôla hoá nghiêm trọng, có nghĩa là chính
sách tiền tệ của quốc gia đó bị phụ thuộc vô hình vào chính sách tiền tệ của Mỹ, sự
biến động của USD trên thị trường quốc tế, đồng thời không cho phép nắm, tính

toán kiểm soát được khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nội tệ bị tước đoạt chức
năng, đặc biệt là phạm vi điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương bị thu hẹp nghiêm
trọng điều chỉnh lạm phát khó khăn, ít hiệu quả. Loại bỏ tình trạng Đôla hoá, thực
hiện chủ quyền tiền tệ tức là tạo điều kiện hoạch định chính sách tiền tệ độc lập tự
chủ, có cơ sở vững chắc, đồng thời cho phép kiểm soát hiệu quả vấn đề lạm phát.
Chính vì tầm quan trọng như vậy nên vấn đề chủ quyền tiền tệ được xác định.
Tuy nhiên việc loại bỏ nạn Đôla hoá là vấn đề phức tạp, phải có sự phối hợp
của nhiều chính sách và mục tiêu đặt ra và chỉ có thể đạt được thông qua việc cải
thiện các chức năng của ViềtNam đồng. Điều này đòi hỏi cần theo đuổi một chính
sách tài chính tiền tệ linh hoạt, có tác dụng thúc đấy hệ thống cải cách tài chính
20
Ngân hàng. Khi sự hấp dẫn của Việt Nam đồng được đảm bảo, nhu cầu tích luỹ tài
sản, thanh toán bằng USD chắc chắn sẽ giảm đi đáng kể.
Trong kinh tế thị trường thì sự chuyển đổi của đồng tiền là yếu tố không thể
thiếu, tuy nhiên sự khác nhau là ở chỗ mức độ, phạm vi và hình thức chuyển đổi.
Đối với các nước đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì sự chuyển đổi của
đồng bản tệ có ý nghĩa rất lớn, ngoài những lợi ích kinh tế trong thanh toán, tối ưu
hoá sử dụng ngoại tệ, thu hút FDI thì sự chuyển đổi của đồng tiền còn có vai trò
quan trọng trong việc đưa nền kinh tế hoà nhập vào hệ thống buôn bán địa phương,
tham gia các khối kinh tế và thúc đẩy sự chuyển chia cơ cấu kinh tế theo hướng mở
cửa. Những năm gần đây đã cõ một số chuyên gia kinh tế khẳng định, những điều
kiện để VND trở thành đồng tiền chuyển đổi trên lãnh thổ Việt nam cơ bản đã hội
tụ đủ và đề nghị chính phủ công bố chính thức. Hướng toĩ sự chuyển dịch hoàn
toàn của một đồng tiền là một quá trình dài trải qua nhiều nấc thang ở mỗi nấc
thang chuyển đổi đòi hỏi điều kiện cần và đủ tương ứng. Trong lịch sử thế giới
chưa có đồng tiền nào bước ngay đến ngưỡng cửa chuyển đổi tự do và không phải
đồng tiền nào cũng có thể vươn tới sự chuyển đổi tự do cả ở trong nước và ngoài
nước.
Với thực lực, địa vị kinh tế nước ta hiện nay, trong tương lai gần thì vấn đề
chuyển đổi hoàn toàn chỉ đặt ra trong phạm vi trên lãnh thổ Việt nam. Tuy nhiên,

để đạt được mục tiêu này ngoài các điều kiện về chính trị (uy tín điều hành quản lý
của nhà nước) xã hội, tâm lý (uy tín của VND đủ mạnh), pháp chế thì phải hội tụ
đủu các điều kiện kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nền kinh tế được củng cố
thường xuyên về thực lực, phát triển ổn định,VND ổn định vững chắc về mặt giá
trị, lạm phát ổn định ở mức rất thấp, dự trữ ngoại chiến lược đủ mạnh cơ cấu giá cả
kinh tế phù hợp với cơ cấu quốc tế, thị trường ngoại hối tài chính hoàn chỉnh và
phát triển, nền kinh tế thực sự hội nhập vào thế giới. Bên cạnh đókhi công bố chính
thức tỷ giá hối đoái cần có hệ thống chính sách, giải pháp hỗ trợ để xử lý các
tình huống bất trắc.
Cuối cùng, là quốc gia có số lượng nợ nước ngoài lớn, nợ đến hạn ngày càng
cao, nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế gia tăng mạnh, trong khi dự trữ ngoại tệ của
nước ta ước khoảng ba tháng nhập khẩu vì vậy chính sách ngoại tệ cần phải hướng
vào mục tiêu tăng dự trữngoại tệ ở mức thích hợp với cơ cấu hợp lý đảm bảo nhu
cầu nhập khẩu, trả nợ và sự can thiệphiệu qủa của nhà nước khi cần thiết.
Hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái nêu trên có mối quan hệ
nội tại thống nhất hữu cơ hết sức chặt chẽ với nhau, trong đó mục tiêu chủ quyền
tiền tệ, chuyển đổi chỉ có thể thực hiện nếu VND thực sự có uy tín cao, ổn định,
nược lại, khi VND mở rộng nội dung hình thức chuyển đổi, mục tiêu chủ quyền
tiền tệ được thực hiện sẽ có tác động rất lớn trong việc củng cố nâng cao uy tín của
VND, tăng cường dự trữ ngoại tệ quốc gia, trong khi đó thực lực dự trữ ngoại tệ lại
21
là một trong các tiền dề quan trọng để đảm bảo duy trì khả năng chuyển đổi VND,
tăng cường sự điều chỉnh của nhà nước trong lĩnh vực ngoại tệ.
Thực tiễn những năm quavà lịch sử thế giới cho thấy: củng cố nâng cao uy
tín địa vị của đồng tiền quốc gia trong đời sóng kinh tế xã hội là con đường đúng
đắn để phát triển đất nước.
2. Nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái:
Tuy có những nét chung, song nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái ở
mỗi nước có những đặc thù riêng do hoàn cảnh cụ thể và những vấn đề mà nền
kinh tế đang tập trung giải quyết. Xuất phát từ đặc điểm nổi bật là tính chất quá độ

chuyển đổi cơ chế kinh tế diễn ra đồng thời với quá trình mở rộng hợp tác quốc tế,
là qua trình thực hiện những nhiệm vụ chiến lược kinh tế hết sức nặng nề. Vì vậy,
nhiệm vụ tổng thể của chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong giai đoạn tới là
tạo ra các tiền đề cần và đủ để thực hiện thành công các nhiệm vụ mục tiêu đã đặt
ra, hỗ trự hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác, cụ thể là:
+ Tạo ra cơ sở khoa học, luận cứ vững chắc cho sự hoàn thiện, thiết kế cơ
chế quản lý, định hướng lựa chọn các phương án điều chỉnh hựop lý cho phép giải
quyết hài hoà các mục tiêu của chính sách tỷ giá và các mục kinh tế vĩ mô ỏ từng
giai đoạn phát triển. Tăng cường và đảm bảo sự quản lý hiệu quả từ phía nhà nước
đối với lĩnh vực ngoại hối.
+ Giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của các thị trường tài chính
quốc tế và sự tổn thương đối với nèn kinh tế trước các cú sốc bên ngoài qua các
kênh tỷ giá, sự vận động của các luồng ngoại tệ và vốn.
+ Tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán quan hệ ngoại hối cho
hoạt động kinh tế đối ngoại đồng thời hỗ trợ cho cải cách và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng thị trường mở.
+ Bên cạnh mục tiêu dài hạn là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm ché lạm phát thì
chính sách tỷ giá cầncó sự hỗ trợ hợp lý cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu, yêu cầu phối hợp các chính sách. Bản thân tỷ giá là hàm số
kinh tế vĩ mô, tức là cùng một lúc có nhiều yếu tố tác động đến nó, ngược lại nó
cũng tác động lại đến nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô khác, vì vậy để đạt các mục tiêu,
nhiệm vụ đặt ra nhất là trong thời đại quốc tế hoá thị trường tài chính đang diễn ra
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự phối hợp hết sức đồng bộ và hiệu quả cảu hàng loạt
chính sách, giải pháp kinh tế vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là:
- Chính sách, cơ chế quản lý giao dịchngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc
điều hành lĩnh vực ngoại tệ.
- Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất các chính sách giải pháp
bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (chính sách tỷ giá, lãi suất, cung ứng tiền tệ) nhằm
tác động có hiệu quả từ nhiều hướng vào VND và đạt được tương quan hợp lý giữa
giá trị đối nội và đối ngoại của VND.

22
- Xuất phát từ đặc điểm kinh tế hiện tại của đất nước ta, xu hướng lên giá
của VND, quan hệ cung cầu ngoại tệ, để đảm bảo không ảnh hưởng đến mục tiêu
kinh tế vĩ mô khác hặc ảnh hưởng ở mức thấp, thì việc điều chỉnh tỷ giá cần phải
có sự phối hợp hiệu quả giữa các chính sách tiền tệ, tài chính, thu nhập ngoại
thương ví dụ để ngăn ngừa xu hướng lên giá của VND, cần điều chỉnh cơ cấu chi,
thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước, nhất là vay nợ nước ngoài và loại bỏ xu
hướng gia tăng lương, thu nhập quá cao, hặc để khuyến khích xuất khẩu cần phải
phối hợp tỷ giá với các giải pháp thuế, tín dụng - Hoàn thiện hệ thống công cụ tài
chính, tiền tệ (cả gián tiếp và trực tiếp) việc hiện đại hoá hệ thống tổ chức tài chính
được tiến hành song song với phát triển hệ thống thị trường tài chính nhằm nâng
cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của nhà nước.
3.Định hướng điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
a) Một số vấn đề cấp bách cần xử lý:
Trong lĩnh vực tỷ gía, tỷ giá trong kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều vấn
đề về lý luận và thực tiễn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để có được những định
hướng đúng đắn, chỉ dẫn phù hợp cho công tác quản lý, việc điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trong giai đoạn tới cũng như xây dựng một chính sách chiến lược tỷ giá hối
đoái thực sự tự chủ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta và
xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đang diễn ra sâu rộng cần phải:
+ Tiến hành nghiên cứu, tổng kết kịp thời kinh nghiệm cải cách quản lý,
điều chỉnh tỷ giá trong giai đoạn vừa qua.
+ Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc xác định
tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá thực tế, tỷ giá cân bằng trong điều kiện cụ thể của
nước ta, chuẩn xác hoá, hệ thống hoá dự liệu kinh tế có liên quan trực tiếp đến tính
toán điều chỉnh tỷ giá hối đoái(chỉ số lạm phát, hệ số giảm phát, tính xác thực của
tài khoản vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế, vấn đề nợ ) để có được sự trả lời
chính xác tỷ giá hối đoái hiẹn tại đã phù hợp chưa? nên điều chỉnh theo hướng
nào? khả năng điều chỉnh trên thực tế ra sao? đặc biệt là lượng hoá được hậu quả
của điều chỉnh.

+ Theo dõi, phân tích một cách có hệ thống động thái của các thị trường tài
chính quốc tế, từ đó xác diịnh xu hướng phát triển các thị trường này trong tương
lai để làm cơ sở lựa chọn hứơng tổ chức, phát triển thị trường ngoại hối Việt nam,
đáp ứng yêu cầu phát triển trong nước, phù hợp với thông lệ quốc tế và lựa chọn
phương án điều chỉnh phù hợp.
+ Thực tiễn thế giới nhất là giai đoạn vừa qua cho thấy: sự biến động của thị
trường tài chính quốc tế và các đồng tiền chủ chốt có ảnh hưởng rất lớn đến tình
hình tài chính tiền tệ của một quốc gia (thu chi ngân sách nhà nước, nợ và thanh
toán nợ, sự vận động của các luồng vốn đầu tư) vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá
đúng vị trí, vai trò, xu hướng phát triển dài hạn cũng như ngắn hạn của các đồng
tiền chủ chốt có ý nghĩa hết sức quan trọng.
23
Điều này có ý nghĩa trực tiếp đến việc lựa chon đồng tiền làm phương tiện
thanh toán trong các hợp đồng thương mại, tín dụng, nhất là phương thức thanh
toán theo thời hạn thoả thuận, lựa chọn chiến lược vay (vay bằng đồng tiền nào?)
phương án, kế hoạch thanh toán nợ và cuối cùng là lựa chọn loại ngoại tệ dự trữ.
Việc điều chỉnh cơ cấu dự trữ cho phù hợp sẽ hạn chế các rủi ro do biến động tỷ
giá gây ra. Để có được cơ sở luận cứ vững chắc cho đánnh giá dự báo sự vận động
của các đồng tiền chủ chốt, đòi hỏi không chỉ theo dõi sự biến động trên thị trường
mà quan trọng là phân tích đánh giá đúng thực trạng, xu hướng phát triển kinh tế,
địa vị kinh tế chính trị của các nước đó hiện tại và trong tương lai.
+ Hoàn thiện phát triển và hiện đại hoá công tác dự báo kinh tế tài chính để
có được những đánh giá sát thựcphục cụ cho điều chỉnh kinh tế vĩ mô nói chung,
điều chỉnh tỷ giá nói riêng.
+ Cuối cùng, để công tác điều chỉnh tỷ giá phù hợp với yêu cầu khách quan
của nền kinh tế, đòi hỏi phải có những giải pháp thỏa đáng vấn đề sau: hiện tại và
tương lai gần nên gắn VND với đồng USD hay một giỏ ngoại tệ? Phương án nào là
hợp lý?. Trong giới nghiên cứu và điều hành ở nước ta hiện có hai ý kiến đặt ra: ý
kiến thứ nhất cho rằng: cần hạn chế sự phụ thuộc quá mức của VND vào một đồng
tiền nước ngoài (cụ thể là USD) do đó phải xác định tỷ giá theo giỏ ngoại tệ mạnh.

ý kiến thứ hai không phủ nhận xu hướng trên và cho rằng: trong thời gian tới USD
vẫn còn vị trí quan trọng trên thị trường tài chính quốc tế, do đó USD vẫn là đồng
tiền chủ yếu để làm cơ sở xác định chính sách tỷ giá của Việt nam.
Thực ra giữa hai ý kiến trên không có mâu thuẫn gì lớn, mặc dù trong giai
đoạn vừa qua chúng ta chưa có nhiều quan hệ ngoại thương trực tiếp với Mỹ, song
trên 90% các hợp đồng thương mại của ta được tính toán bằng USD, hơn nữa do
vai trò của USD trong đời sống kinh tế nước ta và mục tiêu của chiến lược ổn định
hoá xét trên phương diện lý thuyết, thực tiễn thì việc gắn VND với USD trong giai
đoạn vừa qua là phù hợp, hiệu quả, là giải pháp khôn ngoan. Tuy nhiên bước vào
giai đoạn phát triển mới, đa phương hoá cao độ thì phương án chuyển sang định
giá theo giỏ ngoại tệ mạnh, dựa trên cơ sở mô hình lượng về ngoại thương nhiều
chiều sẽ có lợi thế hơn cho kinh tế đối ngoaị: song dù sao chăng nữa trong giỏ
ngoại tệ tỷ trọng của USD vẫn là lớn nhất. Nhìn tổng thể, việc gắn với giỏ ngoại tệ
sẽ giảm được sự rủi ro, bấp bênh do biến động của tỷ giá song phương gây ra, thích
hợp với hiện thực là tính không thuần nhất trong thương mại quốc tế, trước hết là
sự đàn hồi (co giãn) giá cả khác nhau đối với cung và cầu theo các nhóm hàng hoá
khác nhau.
24
CHƯƠNG 3
TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ
Từ năm 2008 đến nay, tỉ giá VND/USD có nhiều biến động, đặc biệt trên thị
trường tự do. Điều đó chứng tỏ cung-cầu ngoại tệ và chính sách tỉ giá cũng có vấn
đề.
Nhưng đợt biến động nào cũng được cho là do yếu tố tâm lý và hoạt động
đầu cơ tạo cầu ngoại tệ "ảo". Có lẽ đã đến lúc nên có quan điểm khách quan hơn về
vấn đề này.
Từ năm 2008 đến nay, VND đã trải qua những giai đoạn biến động đảo
chiều. Lượng kiều hối và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) dồi dào và mức giải
ngân tương đối cao của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) trong quý I/2008 khiến các NH
dư thừa tạm thời USD, 1USD Mỹ trên thị trường tự do khoảng giữa tháng 3.2008

xuống mức rất thấp, tương đương 15.500 đồng/USD.
Thời điểm này, DN có ngoại tệ, đặc biệt là DN XK khốn khổ vì không bán
được ngoại tệ cho NH. Đối với khách hàng cá nhân thì NH rất hạn chế mua, nếu có
chỉ từ 100-300USD, một số NH thì từ chối mua của khách hang vãng lai.
Tuy nhiên, từ cuối tháng 3.2008 đến nay, giá USD trên thị trường tự do hầu
như luôn cao hơn tỉ giá bình quân liên ngân hàng (LNH) do Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) công bố. Đặc biệt vào một số thời điểm (tháng 5, 6, 11.2008) thị trường
khá khan hiếm USD khi nhu cầu ngoại tệ của các DN tăng và áp lực rút vốn của
của một số quỹ đầu tư nước ngoài. Tỉ giá VND/USD trên thị trường tự do có thời
điểm lên mức 19.400 đồng (tính ra VND mất giá đến 21% so USD). Thời điểm
này, dư luận có tổ chức đã mua kì hạn lên 24000đồng/USD.
Từ đầu tháng 1.2009 đến nay tuy không biến động mạnh, nhưng giá USD
trên thị trường tự do trong xu hướng tăng. Tuần qua, giá USD xoay quanh mức
17.600 đồng - 17.700 đồng và có thời điểm lên đến mức 17.800 đồng, có lúc lên
đến 18.000đ, Cao hơn tỉ giá niêm yết của các ngân hàng thương mại khoảng 220
-315đ/USD.
Chiều 22.2, giá bán USD trên thị trường tự do ở mức 17.700 đồng. Cùng với
vàng, hiện nay USD đang là một kênh đầu tư thu hút sự quan tâm của các tổ chức
tài chính và các NĐT. Nhiều người dân chuyển từ VND sang cất giữ USD.
Thị trường chính thức hiện nay vẫn có sự can thiệp của Nhà nước nên nhiều khả
năng chưa hẳn đã phản ánh đúng cung - cầu. Thị trường tự do tuy chiếm khối
25

×