Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Số loài nấm trong tự nhiên potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.35 KB, 7 trang )



Số loài nấm trong
tự nhiên



Có bao nhiêu loài nấm đã được
công nhận và bao nhiêu loài nấm
trong tổng số? Đây là những câu
hỏi bí ẩn với nhiều nhà nấm học
trong một thời gian dài.
Theo Hawksworth thì tổng số loài
nấm được công nhận là khoảng
64.000 cho đến năm 1983. Từ năm
1983 đến 1985, có gần 800 loài
được công bố và ghi vào danh sách
mỗi năm nhưng một số trong số
này đã được mô tả lại một cách t
ình
cờ và được công bố bởi các nhà
nấm học. Theo thống kê của
Hawksworth vào năm 1991 thì tỉ lệ
giữa loài mới và loài đã biết trong
tổng số 800 loài được đ
ưa vào danh
sách mỗi năm là 2,5:1. Do đó chỉ
có khoảng 6800 loài nấm thật sự
được thêm vào từ năm 1983 đến
1995. Điều đó có nghĩa là tổng số
loài thực sự của nấm là xấp xỉ


71000 loài cho đến năm 1995.
Tuy nhiên, với khoảng 250000 tên
của các loài nấm đã được đưa vào
danh sách cho đến năm 1995 thì
quả là một vấn đề lớn cho việc tái
đánh giá của các nhà nấm học.
Nhiều loài trong số chúng đã được
công bố với số liệu không đầy đủ
và/hoặc các mẫu vật bị hư hỏng
trong quá trình lưu giữ đã tạo ra
nhiều khó khăn cho việc xem xét
lại. Ở mức độ cao hơn, tên và nội
dung của nhiều giống, họ vẫn còn
có thể thay đổi trong xu hướng của
việc sử dụng các kỹ thuật phân tử
và việc xem xét lại về các cơ quan
sinh sản. Với cách thức như v
ậy, bộ
Botales được mở rộng bao gồm cả
họ Scleodermataceae, trước đây là
bộ Sclerodermatales. Một số giống
mới được tái sắp xếp từ một vài
hoặc một loài như gi
ống Bothia, họ
Boletaceae, bộ Botales.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra
dự đoán về tổng số loài nấm nhưng
chỉ có nghiên cứu của Hawksworth
năm 1991 là được công nhận. Dựa
trên 3 bộ dữ liệu độc lập: tỉ lệ số

loài nấm trong tất cả môi trường
sống so với thực vật ở các đảo của
nước Anh, số loài giới hạn với các
kí chủ chuyên biệt, và một nghiên
cứu quần xã sâu sắc, ông ấy đã
ngoại suy ra tỉ lệ tương
ứng khoảng
1:4 đến 1:5,7 giữa tổng số loài th
ực
vật có mạch và tổng số loài nấm.
Điều đó có nghĩa là có khoảng 1,5
triệu loài tồn tại trên toàn thế giới.
Nghiên cứu của Hawksworth đã bỏ
qua mối tương quan giữa động vật
và nấm và sự phân chia lo
ài chuyên
biệt theo khía cạnh phân tử; vấn đề
này đang được tiếp tục nghiên cứu
bởi một số nhóm nghiên cứu về
nấm như DFMO (Duke Forest
Mycological Observatory).
Khoảng cách giữa các loài nấm đã
được mô tả và loài nấm được ước
tính là mênh mông. Phần lớn của
khoảng cách này xuất phát từ các
vùng nhiệt đới nơi mà các nghiên
cứu nấm đã không được xem là
một lĩnh vực quan trọng. Trong
16013 loài mới được ghi nhận
trong danh mục nấm từ 1981 đến

1990, Ấn độ và Mỹ, là hai nước
nằm ngoài khu vực nhiệt đới, đóng
góp tỉ lệ tương ứng là 10% và 50%
trong tổng số. Đây là một khu vực
hấp dẫn và đầy tiềm năng cho các
nhà nấm học của Việt Nam chúng
ta, nơi giao thoa của hai dòng chảy
đa dạng sinh học.
Hoangpham

References:
1) Alexopoulos CJ, Mims CW,
Blackwell M, 2002. Introductory
mycology. John Wiley & Sons
(Asia), Singapore.
2) Binder M, A Bresinsky, 2002.
Derivation of a polymorphic
lineage of Gasteromycetes from
boletoid ancestors. Mycologia 2002
94: 85-98.
3) Duke Forest Mycological
Observatory.
/>/mycolab/DFMO.html
4) Halling RE, TJ Baroni, M
Binder, 2007. A new genus of
Boletaceae from eastern North
America. Mycologia 2007 99: 310-
316.
5) Hawksworth DL, PM Kirk, BC
Sutton, DN Pegler, 1995.

Ainsworth and Bisby’s Dictionary
of Fungi. CAB International,
Wallingford, UK.

×