Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vương triều nhà Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.02 KB, 28 trang )

Nhà Thanh

.
Nhà Thanh (tiếng Mãn Châu: daicing gurun; tiếng Mông Cổ: Манж Чин Улс; chữ
Hán: 清朝; bính âm: Qīng cháo; Wade-Giles: Ch'ing ch'ao; âm Hán-Việt: Thanh
triều) là một triều đại do dòng họ Aisin Gioro (Ái Tân Giác La) ở Mãn Châu thành
lập, nên còn được gọi là Đế quốc Mãn Châu. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm
phía trên Triều Tiên và phía dưới Nga. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa đông
nam Nga và đông bắc Trung Quốc. Nhà Thanh là triều đại phong kiến cuối cùng trong
lịch sử Mông Cổ và Trung Quốc. Từng được người Nữ Chân xây dựng và tuyên bố là
Hậu Kim Triều năm 1616 tại Mãn Châu, năm 1636, nó đổi tên thành "Thanh", và mở
rộng vào lục địa Đông Á và các lãnh thổ xung quanh, lập nên Đại Thanh Quốc (chữ
Hán: 大清國; bính âm: dàqīngguó). Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai
trị năm quốc gia: Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây
Tạng (1751), Uyghur (1759); hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Đế
quốc Mãn Châu Thanh bao gồm năm quốc gia với năm ngôn ngữ. Tất cả năm quốc gia
giành được độc lập khi nhà Thanh kết thúc (1912).
Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối với Trung
Quốc, hoà nhập với văn hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế
quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ đã giảm sút trong thế kỷ 19, và
phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi loạn và những thất bại trong
chiến tranh, nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Nhà Thanh bị lật đổ sau cuộc
Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Hoàng hậu, đối
mặt với nhiều sự phản kháng buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế cuối cùng, Phổ
Nghi, ngày 12 tháng 2, 1912.
Sự thành lập nhà nước Mãn Châu
Cờ nhà Thanh, 1862-1890
Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số ở một
số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần
chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ
Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của


nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1609. Cùng năm
ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ
thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu. Năm 1625,
Nurhaci lập thủ đô tại Thẩm Dương (tiếng Mãn Châu: Mukden), nhưng năm sau ông
phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng
Hoán. Nurhaci chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo
lập hệ thống Bát Kỳ (Eight Banner system), theo đó mọi người dân Mãn Châu đều
thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự.
Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác
nhau.
Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực (Huang Taiji, tên tiếng Nữ Chân là
Abahai - A Ba Thái), tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được người
cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng
Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất
nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua
một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lingdan Khan, vị đại hãn cuối cùng của người
Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ejei đã đầu hàng
người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế Nguyên cho Hoàng
Thái Cực. Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi tên nước thành Thanh, có nghĩa là thanh
khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa
chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日,
mặt trời) và nguyệt (月, mặt trăng), đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh (清) được
cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều là
mệnh thuỷ. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục
được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng
Hắc Long Giang.
Tuyên bố Thiên mệnh
Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành cầm đầu vào
cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Sùng Trinh Chu Do Kiểm, vị
Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử trên một cành cây tại Môi Sơn cạnh

Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu
một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy
lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan (山海關) của nhà Minh. Sơn Hải
Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh
năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn
phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Bị kẹt giữa hai
kẻ thù, Ngô Tam Quế đã quyết định đánh liều vận may với người Mãn Châu và liên
minh với hoàng tử Drogon (Đa Nhĩ Cổn), khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế
Thuận Trị mới lên sáu, con trai của Hoàng Thái Cực mới chết năm trước.
Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày
27 tháng 5, 1644. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh, những
kẻ nhòm ngó ngôi báu và những kẻ phiến loạn khác kéo dài thêm mười bảy năm nữa.
Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanma
hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô
Tam Quế cầm đầu. Ông bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.
Khang Hi và sự củng cố quyền lực
Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722)
Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722) lên ngôi khi mới tám tuổi. Trong những
năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang giữ
quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều.
Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên Mệnh" là một nhiệm vụ hết sức
to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ
quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng
ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng.
Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức
độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa
phong kiến (藩王- phiên vương), và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở
phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế (吳三桂), được trao
các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỉ (尚
可喜) và Cảnh Trọng Minh (耿仲明) được giao cai quản các tỉnh Quảng Đông và

Phúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên.
Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở
thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỉ thỉnh cầu Khang Hi,
bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương tại tỉnh Liêu Đông (遼東) và chỉ định
con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối
trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định
xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hi, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc
phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị
hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng
đất đó cho triều đình.
Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn
nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai
Thượng Khả Hỉ là Thượng Chi Tín (尚之信) thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn
ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách
mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang (長江). Dù
vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được
toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là
Loạn Tam Phiên.
Để củng cố đế chế, Khang Hi đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn
công Tây Tạng, người Dzungars, và sau này là cả nước Nga. Ông dàn xếp một cuộc
hôn nhân giữa con gái mình với vị Hãn Mông Cổ là Gordhun (Chuẩn Cát Nhĩ) nhằm
tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà
Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực
lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh Kinh là Trịnh Khắc
Sảng (鄭克塽,) (cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài
Loan từ tay thực dân Hà Lan). Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền
lực của mình kể từ thời đầu nhà Thanh.
Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới
Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân
Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh.

Các hoàng đế Ung Chính và Càn Long
Bình của người hành hương, sứ cảnh lam. Nhà Thanh, giai đoạn Càn Long thế kỷ 18.
Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính (trị vì 1723 - 1735) và con trai ông
Hoàng đế Càn Long (trị vì 1735 - 1796) đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà
Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu kilômét vuông lãnh thổ. Sau
khi Khang Hi qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân
vương (雍親王) Dận Trinh lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là
một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi,
và trong những năm cuối cùng thời Khang Hi ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh
giành quyền lực chính trị với các anh em của mình.
Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt.
Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử
quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao
đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những
người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp
nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết.
Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được
ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là
Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh
Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Tường (胤禵). Tuy nhiên,
những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726.
Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới
mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập
vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích
loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ (軍機
處), trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình.
Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai ông Bảo Thân Vương (寶親王) Hoằng
Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng
có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần
Tân Cương và Mông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng

ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên.
Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với
tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham
nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh (r. 1796
- 1820) buộc phải tự sát.
Mở rộng đế chế
Quân Thanh tấn công người Hồi giáo ở Tân Cương Thế kỷ XVIII
Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở
rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sát nhập. Họ đã chiếm thêm
được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kadacstan, Kyrukistan, Udebekistan
ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ chỉ thất
bại trước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18
Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng
Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà
sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy,
Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng
nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực. Các nhà sử học
đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng
quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và
áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh
tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi.
Cờ nhà Thanh, 1890-1912
Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ mười chín là ví dụ đầu tiên
phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng
còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng
của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất
rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù
không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ên ngoài cùng với những tư tưởng và kỹ thuật
của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng
đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động.

Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó
với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường
quốc bá chủ ở Châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có
quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai
trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho
mình. Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế
chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám,
các đế chế Châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước Châu Âu phát triển
các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung
Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới. Tới cuối thế kỷ
mười tám, các thuộc địa của Châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn
đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía
bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành
lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng
gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong
cách nghệ thuật mới nhất của Châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được
một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước
những thành tựu của Châu Âu và rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính
trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ
mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh.
Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng
trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô
hạn cho hàng hóa Châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia Châu Âu
phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự
thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ Châu Âu và nhà Thanh.
Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa
Châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi
cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của Châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc
như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty Châu Âu rót hết số bạc
họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp

rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức
trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc
phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã
tuyên chiến với Trung Quốc.
Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù
có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh
với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ và
không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng
gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu
diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường. Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842
đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước
Nam Kinh, buộc họ phải trả các khoản bồi thường thiệt hại, cho phép các thương gia
Châu Âu đi lại không hạn chế tại các cảng Trung Quốc và nhượng đảo Hồng Kông
cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy nhiều tình trạng tồi tệ của chính phủ nhà Thanh và
khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra.
Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng
hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc và cuộc
khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian
chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt
mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu.
Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều
khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập
một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm
tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác
giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng
nề khác của Trung Quốc, với Hiệp ước Thiên Tân cùng cách điều khoản "xấc xược"
đối với phía Trung Quốc, như yêu cầu tất cả các tài liệu chính thức của Trung Quốc
phải được viết bằng tiếng Anh và một quy định cho phép các tàu chiến Anh được đi lại
không hạn chế trên các sông ngòi Trung Quốc.
Sự cai trị của Từ Hi Thái Hậu

Trong bức tranh này, Trung Quốc đang bị Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật chia nhau
Bài chi tiết: Từ Hi Thái Hậu
Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hi Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một
phi tần của Hàm Phong (1850-1861), nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi
Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hi đã ngấm
ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận
theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu
không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay
vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" (垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau
hậu đài).
Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự
hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh
tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự
cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên
Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật (1894-1895), khiến cho
ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà
Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ
khiến giới quý tộc bảo thủ mích lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người
theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung
dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn.
Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự (r. 1875 - 1908), áp lực của
phương Tây đối với Trung Quốc lớn tới mức họ phải từ bỏ mọi hình thức quyền lực.
Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách một trăm ngày (百日維新, Bách
nhật duy tân), còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" (戊戌變法), đưa ra
các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc
tiến bộ hơn như Khang Hữu Vi được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như
Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị
Từ Hi dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hi chỉ tập trung vào việc củng cố
quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc
để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải.

Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước (八國聯軍) cùng tiến
vào Trung Quốc lần thứ hai. Từ Hi phản ứng bằng cách tuyên chiến với tám nước,
nhưng chỉ một thời gian ngắn đã để mất Bắc Kinh và cùng với Hoàng đế Quang Tự
chạy trốn tới Tây An. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách
những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải
bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải
đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ.
Chính phủ nhà Thanh và xã hội
Trung Quốc thời nhà Thanh năm 1882
Viên Thế Khải một chính trị gia và tướng lĩnh lão luyện
Chính trị
Bộ máy hành chính quan trọng nhất của nhà Thanh là Đại hội đồng, là một cơ quan
gồm hoàng đế và các quan lại cao cấp. Nhà Thanh có đặc trưng bởi một hệ thống chỉ
định kép, theo đó mỗi vị trí trong chính phủ trung ương đều có một người Hán và một
người Mãn Châu cùng quản lý. Ví dụ, ở thời Hoàng đế Càn Long các thành viên của
gia đình ông được phân biệt bởi một loại trang phục với biểu tượng hình tròn ở phía
sau lưng, trong khi người Hán chỉ được mặc trang phục với một biểu tượng hình
vuông; điều này có nghĩa là bất kỳ người lính nào trong cung đều có thể dễ dàng phân
biệt các thành viên gia đình hoàng gia mà chỉ cần quan sát từ phía sau.
Đối với Mông Cổ, Tây Tạng và Đông Turkestan, giống như các triều đại trước đó, nhà
Thanh vẫn giữ quyền kiểm soát đế quốc với việc hoàng đế kiêm vai trò Hãn Mông Cổ,
người bảo trợ của Phật giáo Tây Tạng và người bảo vệ cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chính
sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối
phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà
Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh.
Sự từ bỏ địa vị của hoàng đế Thanh đương nhiên dẫn tới tình trạng tranh cãi về địa thế
của các lãnh thổ tại Tây Tạng và Mông Cổ. Quan điểm của những người theo chủ
nghĩa quốc gia Tây Tạng và Mông Cổ thời ấy cũng như hiện tại cho rằng bởi vì họ đã
trung thành với nhà Thanh thì khi nhà Thanh từ bỏ vị thế của mình họ không còn bổn
phận gì nữa đối với nước Trung Hoa mới. Lập trường này bị Cộng hòa Trung Hoa và

sau này là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bác bỏ dựa trên các yêu sách của họ cho
rằng trên thực tế các vùng này từng là các vùng đất thuộc các triều đại Trung Quốc từ
trước cả nhà Thanh. Bất kỳ thuộc sắc tộc nào, người Hán, người Mãn Châu, người
Mông Cổ hay những nhóm thiểu số khác, tất cả họ đều đã thành lập lên các triều đại
với tính chất Hán trung tâm (Sino-centric), và cho rằng lịch sử cũng như tính chính
thống của các lãnh thổ này đều là một phần của đế quốc Trung Quốc trong hơn hai
ngàn năm qua. Các cường quốc phương Tây chấp nhận lý thuyết sau này, một phần
với mục đích tránh tranh cãi với Trung Quốc.
Quan liêu
Các bình nhà Thanh, tại Bảo tàng Calouste Gulbenkian, Lisbon
Hệ thống hành chính của nhà Thanh dựa trên hệ thống trước đó của nhà Minh. Ở tình
trạng phát triển nhất, chính phủ Thanh tập trung quanh Hoàng đế với tư cách là người
cầm quyền tối cao chỉ huy sáu bộ, mỗi bộ do hai Thượng thư (尚書|Shángshù) đứng
đầu và được hỗ trợ bởi bốn Thị lang (侍郎|Shílāng). Tuy nhiên, không giống như hệ
thống của nhà Minh, chính sách căn bản của nhà Thanh quy định rằng việc chỉ định
chức vụ được phân chia giữa quý tộc Mãn Châu và quan lại Hán, những người đã vượt
qua các kỳ thi tuyển ở mức độ cao nhất của nhà nước. Hầu như trong toàn bộ thời gian
tồn tại của nhà Thanh, bộ máy quan lại của Hoàng đế đều có sự hiện diện của Quân
Cơ Xứ (軍機處), một cơ quan chuyên trách các vấn đề quân sự và tình báo, nhưng sau
này nó lại chịu trách nhiệm giám sát mọi bộ của chính phủ. Các vị quan quản lý Quân
Cơ Xứ nắm luôn vai trò Tể tướng, và một vài người trong số họ từng được chỉ định
làm người đứng đầu Quân Cơ Thủ Phụ (軍機首輔). Sáu bộ và các lĩnh vực quản lý
của họ như sau:
Lại bộ (吏部) - Quản lý nhân sự hành chính cho mọi chức vụ dân sự - gồm cả đánh
giá, bổ dụng, và thải hồi. Bộ này cũng chịu trách nhiệm lập 'danh sách danh dự'.
Hộ bộ (户部) - Dịch nghĩa theo từ Trung Quốc, "hộ" (户- 'hú') có nghĩa là 'gia đình'.
Hầu như trong toàn bộ thời cai trị của nhà Thanh, nguồn thu chính của chính phủ có từ
thuế do các chủ đất đóng và các khoản phụ khác từ độc quyền nhà nước như các vật
dụng gia đình thiết yếu là muối và trà. Vì thế, với ưu thế áp đảo của trồng trọt ở thời
nhà Thanh, 'gia đình' là gốc cơ bản của nguồn tài chính quốc gia. Bộ này chịu trách

nhiệm thu thuế và quản lý tài chính cho chính phủ.
Lễ bộ (禮部) - Bộ này chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan tới nghi thức lễ tân tại
triều đình, gồm cả không chỉ những lễ thờ cúng tổ tiên định kỳ và nhiều vị thánh thần
khác của Hoàng đế với tư cách "Thiên tử" ( 天子 - con trời), để đảm bảo sự hoạt
động trơn tru của đế chế mà còn chịu trách nhiệm cả vấn đề tiếp đãi các sứ đoàn từ
các nước tới nộp cống. Quan niệm Trung Quốc về lễ (礼), theo Khổng Tử dạy, được
coi là một phần của giáo dục. Từng có quan niệm rằng một học giả phải "tri thư, đạt
lễ" (知書達禮) có nghĩa là phải học rộng và cư xử đúng lễ nghi. Vì thế, một chức
năng khác của bộ này là giám sát các hệ thống thi cử dân sự trên toàn quốc để lựa
chọn quan lại. Bởi vì dân chủ là một vấn đề chưa từng được biết tới ở thời tiền Cộng
hòa tại Trung Quốc, các triết lý Khổng Tử mới coi các cuộc thi cử của nhà nước là con
đường để chính thống hóa một chế độ bằng cách cho phép nhân tài tham gia vào chính
quyền độc đoán và khép kín trước đó.
Binh bộ (兵部) - Không giống thời nhà Minh trước đó, vốn kiểm soát toàn bộ các lĩnh
vực quân sự, Binh bộ nhà Thanh có quyền lực rất hạn chế. Đầu tiên các Kỳ binh (quân
chủ lực) nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Hoàng đế và các hoàng tử người Mãn
Châu và Mông Cổ, khiến cho bộ này chỉ có quyền lực đối với các lộ quân địa phương.
Hơn nữa, các chức năng của bộ hầu như chỉ đơn thuần là hành chính - các chiến dịch
và các đợt diễn tập quân sự được chỉ huy và giám sát bởi Hoàng đế, đầu tiên thông qua
hội đồng quản lý người Mãn Châu và sau này là Quân Cơ Xứ (軍機處).
Hình bộ (刑部) - Hình bộ xử lý mọi vấn đề pháp luật, gồm cả giám sát các tòa án và
nhà tù. Bộ luật hình sự nhà Thanh khá yếu kém so với các hệ thống luật pháp hiện đại
hiện nay, bởi vì nó không có sự phân biệt giữa các nhánh hành pháp và lập pháp trong
chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn, và khá nhiều khi tỏ ra độc đoán, bởi
vì Hoàng đế cai trị bằng nghị định và là người đưa ra phán quyết cuối cùng đối với
mọi vấn đề luật pháp. Các hoàng đế có thể (và đã) đảo ngược các phán quyết của các
tòa án cấp dưới tùy theo từng lúc. Sự công bằng trong đối xử cũng là một vấn đề dưới
hệ thống phân biệt chủng tộc do chính phủ Mãn Châu áp dụng đối với cộng đồng đa số
người Hán. Để giảm bớt các vấn đề không thỏa đáng đó và giữ cho dân chúng sống
yên ổn, nhà Thanh áp dụng một hệ thống luật hình sự rất khắc nghiệt đối với người

Hán, nhưng không tới mức nghiêm khắc quá đáng như ở các triều đại trước đó.
Công bộ (工部) - Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện,
đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách
nhiệm đúc tiền.
Ngoài sáu bộ kể trên, có một Lý Phiên Viện (理藩院|Lǐfànyuán) và đây là cơ quan chỉ
riêng có ở nhà Thanh. Cơ quan này ban đầu chịu trách nhiệm điều hành quan hệ với
các đồng minh Mông Cổ. Khi đế chế mở rộng thêm, nó nhận thêm các công việc hành
chính đối với tất cả các nhóm thiểu số sống trong và ngoài đế chế, gồm cả những tiếp
xúc đầu tiên với Nga - khi ấy còn được coi là một quốc gia triều công. Cơ quan này
hoạt động như một bộ thực sự và vị quan đứng đầu cũng có mức hàm tương đương.
Tuy nhiên, ban đầu những ứng cử viên lãnh đạo nó chỉ là người thuộc dân tộc Mãn
Châu và Mông Cổ.
Dù Lễ bộ và Lý Phiên Viện có một số trách nhiệm chung trong ngoại giao, chúng vẫn
không được sáp nhập vào nhau. Điều này xuất phát từ quan điểm truyền thống của đế
quốc coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và mọi người nước ngoài đều là những
kẻ mọi rợ chưa khai hóa không xứng đáng có tư cách ngoại giao tương đương với họ.
Chỉ tới năm 1861 một năm sau khi thua trận trong "Chiến tranh nha phiến lần thứ
hai" trước liên minh Anh-Pháp chính phủ nhà Thanh mới lùi bước trước sức ép của
nước ngoài và lập ra một bộ ngoại giao thực sự được gọi theo một cái tên dài lê thê là
"Tổng lý các quốc sự vụ nha môn" (總理各國事務衙門), hay nói gọn là "Tổng lý nha
môn" (總理衙門)). Ban đầu cơ quan này được dự định tạm thời sử dụng các viên
chức thuyên chuyển từ Quân Cơ Xứ (軍機處) theo kiểu làm việc bán thời gian. Tuy
nhiên, khi việc giải quyết vấn đề với những người nước ngoài ngày càng phức tạp và
thường xuyên, cơ quan ngày càng mở rộng và trở nên quan trọng, và càng có ưu thế
khi được sử dụng tiền thu từ thuế hải quan. Dù triều đình nghi ngờ về mọi thứ liên
quan tới nước ngoài, văn phòng này đã trở thành một trong những bộ có nhiều quyền
lực nhất bên trong chính phủ nhà Thanh.
Quân sự
Những sự khởi đầu và sự phát triển đầu tiên
Sự phát triển của hệ thống quân đội nhà Thanh có thể được chia ra làm hai giai đoạn

rõ rệt trước và sau cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc (1850 - 64). Ban đầu quân đội
nhà Thanh dựa theo hình thức Bát Kỳ Mãn Châu do Nurhachi phát triển thành một
cách thức tổ chức xã hội Mãn Châu căn cứ trên tổ chức các nhóm bộ tộc. Tổng cộng
có tám nhóm bộ tộc được gọi là Kỳ (cờ), mỗi kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Thứ
tự ưu tiên của các kỳ như sau: Chính Hoàng (Vàng), Tương Hoàng (Vàng có viền, ví
dụ Vàng viền đỏ), Chính Bạch (Trắng), Chính Hồng (Đỏ), Tương Bạch (Trắng viền),
Tương Hồng (Đỏ viền), Chính Lam (Xanh) và Tương Lam (Xanh viền). Chính Hoàng
kỳ, Tương Hoàng Kỳ và Chính Bạch kỳ thường được gọi là 'Thượng Tam Kỳ'(上三
旗) và nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế. Chỉ những người Mãn Châu thuộc
Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của
mình. Những kỳ còn lại được gọi là 'Hạ Ngũ Kỳ' (下五旗) và được chỉ huy bởi các
hoàng tử người Mãn Châu trực hệ của Nurhachi theo chế độ cha truyền con nối, và
thường được gọi theo nghi thức là 'Thiết mạo tử vương' ( 鐵帽子王 - Các hoàng tử mũ
sắt) hay các 'Hòa Thạc' (和硕). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia
Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội có tên gọi là Hòa Thạc Bội Cần. Năm 1730
Hoàng đế Ung Chính thành lập Quân Cơ Xứ (Junjichu|軍機處) ban đầu để chỉ huy
trực tiếp các hoạt động hàng ngày của quân đội nhưng dần dần Quân Cơ Xứ lãnh một
số trách nhiệm hành chính và quân sự khác của quân đội và chịu trách nhiệm tập trung
hóa quyền lực vào triều đình. Tuy nhiên, các Hòa thạc vẫn tiếp tục đóng vai trò có ảnh
hưởng to lớn trong các hoạt động chính trị và quân sự của triều đình nhà Thanh cũng
như công việc cai trị của Hoàng đế Càn Long.
Khi quyền lực nhà Thanh mở rộng về phía Bắc Vạn lý trường thành trong những năm
cuối triều nhà Minh, hệ thống các Kỳ được con trai và là người thừa kế của Nurhachi
là Hoàng Thái Cực phát triển thêm các kỳ Mông Cổ và các kỳ Hán. Khi họ kiểm soát
được những vùng lãnh thổ cũ của nhà Minh, các Kỳ đội có quy mô khá nhỏ đó được
tăng cường bởi Lục doanh quân ( 綠營兵 lục doanh binh) vốn có quân số lớn gấp ba
các Kỳ. Lục doanh quân là các đội quân người Hán. Các đội quân này được điều khiển
bởi một Ban chỉ huy gồm cả các đô thống Lục doanh quân và Kỳ binh. Các Kỳ và Lục
doanh là quân thường trực, được chính phủ trả lương. Ngoài ra, các quan lại địa
phương từ mức tỉnh trở xuống tới mức xã vẫn giữ một lực lượng dân quân không

chính quy làm các nhiệm vụ cảnh sát và cứu nạn. Các đội dân quân đó thường nhận
được một khoản lương nhỏ hàng năm lấy từ kho bạc địa phương cho hoạt động của
mình. Họ ít khi được huấn luyện quân sự và nếu có được huấn luyện thì cũng không
được coi là đội quân chiến đấu.
Hòa bình và trì trệ
Các Kỳ đội được phân chia theo dòng dõi dân tộc, có nghĩa theo người Mãn Châu và
người Mông Cổ. Dù vẫn có một nhánh thứ ba gồm những kỳ binh người Hán từng
theo người Mãn Châu trước khi nhà Thanh được thành lập, những kỳ binh Hán không
bao giờ được chính phủ đối xử bình đẳng so với hai nhánh kia vì việc họ gia nhập
muộn hơn và vì dòng giống Hán Trung Quốc của họ. Chuyên môn quân sự của họ -
chủ yếu trong bộ binh, pháo binh và công binh, cũng bị coi là xa lạ so với truyền thống
sử dụng kị binh của những người du mục Mãn Châu. Sau khi hoàn thành công cuộc
chinh phục, các vai trò quân sự của kỳ binh Hán nhanh chóng bị Lục doanh quân thâu
tóm. Các Kỳ binh Hán hoàn toàn chấm dứt tồn tại sau khi Hoàng đế Ung Chính cải
cách lại các Kỳ nhằm mục tiêu giảm chi phí triều đình. Các nguồn gốc quân sự-xã hội
của hệ thống Kỳ binh có nghĩa là dân cư bên trong mỗi nhánh của hệ thống Kỳ binh
cùng như các nhánh phụ của nó tuân theo hệ thống cha truyền con nối và cứng nhắc.
Chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt được sự đồng ý theo nghị định triều đình việc di
chuyển xã hội giữa các kỳ mới được thực hiện. Trái lại Lục doanh quân ban đầu được
dự định xây dựng trở thành một lực lượng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong những giai
đoạn hòa bình lâu dài ở Trung Quốc từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, việc tuyển dụng
lính từ các cộng đồng nông nghiệp đã giảm sút, một phần vì lập trường chống đối của
tầng lớp trí thức Khổng giáo mới với nghề binh. Nhằm giữ vững sức mạnh, Lục quân
bắt đầu biến đổi, dần trở thành một chế độ kiểu cha truyền con nối.
Lực lượng Kỳ binh đông đảo tới gần 200.000 ngàn quân của người Mãn Châu được
chia thành; một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát Kỳ ( 禁旅八旗 Jìnlǚ Bāqí) đóng
quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa
là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố
quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là Trú Phòng Bát Kỳ ( 駐防八旗 Zhùfáng
Bāqí). Tầng lớp cai trị Mãn Châu, nhận thức rõ số lượng nhỏ nhoi của mình so với

người Hán, đã áp dụng một chính sách nghiêm ngặt về phân biệt nguồn gốc giữa
người Mãn Châu và Mông Cổ với người Hán vì sợ rằng sẽ bị người Hán đồng hoá.
Chính sách này được áp dụng trực tiếp tới các đội quân Kỳ đồn trú, đa số họ chiếm giữ
một vùng có tường bao kín xung quanh bên trong các thành phố đồn trú của họ. Bên
trong các thị trấn chật hẹp như Thanh Châu (青州), một thị trấn pháo đài mới được
xây dựng làm nơi sinh sống cho quân Kỳ đồn trú và gia đình họ. Bắc Kinh là thủ đô
của đế chế, Nhiếp chính Dorgon (Đa Nhĩ Cổn) buộc toàn bộ dân Trung Quốc phải dời
đi sống tại các khu ngoại thành phía nam sau này được gọi là "Ngoại Thành" ( 外城
wàichéng). Thành phố có tường bao ở phía bắc được gọi là "Nội thành" ( 内城
nèichéng) được phân chia cho Bát Kỳ Mãn Châu còn lại, mỗi Kỳ chịu trách nhiệm
canh gác khu của mình bên trong Nội Thành bao quanh khu dinh thự Tử Cấm Thành
( 紫禁城 Zǐjìnchéng).
Chính sách bố trí quân đội các Kỳ làm quân đồn trú tại các địa phương không phải để
bảo vệ mà là để ngăn chặn sự lo ngại của người Mãn Châu thông qua việc nô dịch hóa
dân chúng bằng lợi thế kỵ binh của họ. Vì thế, sau một thế kỷ hòa bình và hiếm khi
được huấn luyện trên chiến trường, các Kỳ binh Mãn Châu dần đánh mất khả năng
chiến đấu. Thứ hai, trước cuộc chinh phục, các Kỳ binh Mãn Châu là một 'công dân'
quân đội, và các thành viên của nó là các nông dân và người chăn thả gia súc Mãn
Châu bị buộc phải đi lính cho đất nước trong thời gian chiến tranh. Quyết định của nhà
Thanh buộc các Kỳ binh phải trở thành một lực lượng chuyên nghiệp khiến cho nhà
nước phải chu cấp cho mọi nhu cầu của họ, và với sự tham nhũng xảy ra từ binh lính
cho đến sĩ quan khiến họ càng nhanh chóng biến chất không còn đáp ứng được yêu
cầu của một đội quân chiến đấu. Điều tương tự cũng xảy ra trong Lục doanh quân. Ở
thời bình, việc đi lính chỉ đơn giản là để kiếm thêm một khoản thu nhập. Các binh sĩ
và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc kiếm
tiềm. Tham nhũng tăng lên khi chỉ huy các đơn vị địa phương đề xuất tài chính và
trang bị dựa trên các con số đã được thổi phồng lên để bỏ túi phần chênh lệch. Khi
khởi nghĩa Thái bình thiên quốc nổ ra trong thập kỷ 1850, triều đình nhà Thanh mới
muộn màng nhận ra rằng Kỳ binh và Lục doanh quân không thể giúp họ dẹp tan nội
loạn cũng như bảo vệ đất nước khỏi quân xâm lược.

Chuyển biến và hiện đại hoá
Sự thất bại của Trung Hoa trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài đã làm cho sĩ
phu thức tỉnh. Cũng như nhiều quốc gia Á Đông thời kỳ đó, nhiều nho sĩ Trung Hoa
đã yêu cầu Thanh đình cải cách về quân sự, chính trị cũng như xã hội.
Hai người đi đầu trong việc hoạch định một chính sách mới là Ngụy Nguyên và Phùng
Quế Phương. Ngụy Nguyên đưa ra những biện pháp nhan đề Trù Hải Thiên (Kế
Hoạch Phòng Thủ Duyên Hải) năm 1842 đại lược như sau:
- Cải cách quân đội bằng cách học hỏi cách chế tạo vũ khí, đóng tàu của người phương
Tây. Ngoài ra phải đãi ngộ xứng đáng, trả lương hậu hĩ để có được những binh sĩ ưu tú
- Tập trung phòng thủ trên đất liền và dụ địch vào trong các thủy đạo để tiêu diệt tại
một khu vực đã sắp xếp trước
- Liên minh với nhiều nước để họ kiềm chế lẫn nhau và mượn tay kẻ thù này tiêu diệt
kẻ thù kia
- Mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán
Phùng Quế Phương là học trò của Lâm Tắc Từ. Lúc ở Thượng hải đã chịu ảnh hưởng
của tư tưởng chủ nghĩa tư bản. Năm 1861 ông đã viết quyển sách “ Hiệu lư bân”
kháng nghị chủ trương học tập khoa học tự nhiên và kỹ thuật sản xuất của các nước tư
bản như thiên văn, lịch pháp, công cụ sản xuất va các mặt tri thức khác, mong muốn
thông qua biện pháp cải lương chính trị để đưa Trung quốc tiến lên con đường tư bản.
Ông đi sâu hơn vào những cải cách chính trị và xã hội trong đó ông nhấn mạnh:
- Học hỏi và tự chế tạo những vũ khí cần thiết, thúc đẩy người học về kỹ thuật để thoát
ra khỏi những đe dọa của nước ngoài.
- Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài bao gồm nhiều lãnh vực kỹ thuật và khoa học
khác đồng thời biến cải kỹ nghệ quốc phòng
- Cải cách cách huấn luyện binh sĩ, đào tạo những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn
là duy trì một đội quân khổng lồ nhưng kém cỏi
- Áp dụng lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng kỹ thuật
mới.
Trịnh Quan Ứng, một thương nhân nổi tiếng: chủ trương khai thác mỏ quặng, xây
dựng đường sắt, xuất bản báo chí, lập trường học, yêu cầu thành lập nghị viện và xây

dựng chế độ quân chủ lập hiến.
Những quan điểm mới đó sau này được phát động để trở thành một phong trào dưới
cái tên Dương Vụ Vận Động. Tuy nhiên những vận động có tính chất “lửa rơm” đó
không đi đến đâu vì chỉ do nhiệt huyết sĩ phu mà không phải là những chương trình
được nghiên cứu chu đáo và áp dụng một cách qui củ. Những cải cách quân sự vẫn chỉ
hời hợt bề ngoài nên không thành công. Về sau, để đối phó với những tổ chức nổi dậy,
nhiều đơn vị quân sự địa phương được thành lập và ít nhiều mang lại những sinh khí
mới như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, gia tăng lưu động tính, nhấn mạnh vào
đức tính của quân sĩ, Hoài quân của Lý Hồng Chương, sử dụng vũ khí phương Tây,
Sở quân của Tả Tông Đường nhấn mạnh vào vai trò hệ thống tiếp liệu.
Cải cách trong quân đội.
Đầu cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc, các lực lượng nhà Thanh chịu một loạt các
thất bại nặng nề dẫn tới việc mất thủ đô hành chính địa phương tại Nam Kinh (南京)
1853. Quân khởi nghĩa giết toàn bộ quân đồn trú Mãn Thanh và gia đình họ sống tại
thành phố và biến nó làm thủ đô của họ. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn
chinh của Thái bình thiên quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên
Tân (天津), nơi được coi là vùng trung tâm của đế quốc. Trong tình trạng tuyệt vọng,
triều đình lệnh cho một vị quan Trung Quốc là Tăng Quốc Phiên (曾國藩) tổ chức lại
lực lượng dân quân tại các vùng và các địa phương (Đoàn Dũng 團勇 và Hương Dũng
鄉勇) thành một lực lượng thường trực để chống lại quân Thái Bình. Chiến lược của
Tăng Quốc Phiên dựa trên giới quý tộc địa phương để xây dựng lên một tổ chức quân
sự mới từ các tỉnh đang bị quân Thái bình đe dọa trực tiếp. Lực lượng mới này được
gọi là Sương quân (湘軍), được đặt tên theo vùng đất nơi họ được thành lập. Sương
quân là một hỗn hợp giữa dân quân địa phương và quân đội thường trực. Họ được
huấn luyện chuyên nghiệp, nhưng lĩnh lương từ ngân khố địa phương. Sương quân và
lực lượng sau này là Hoài quân (淮軍) được các vị quan đồng triều với Tăng Quốc
phiên cùng người 'học trò' là Lý Hồng Chương thành lập (hai quân này thường được
gọi chung là Dũng Doanh (勇營).
Trước khi thành lập và chỉ huy Hoài quân, Tăng Quốc Phiên chưa từng có
kinh nghiệp quân sự. Là một vị quan được giáo dục theo kiểu cổ điển, kế hoạch thành

lập Hoài quân của ông được thực hiện theo kinh nghiệm lịch sử - tướng nhà Minh là
Thích Kế Quang (戚繼光) vì thấy sự yếu kém của quân đội triều đình đã quyết định
thành lập đội quân 'riêng' của mình nhằm chống lại quân cướp biển Nhật Bản ở giữa
thế kỷ 16. Học thuyết của Thích Kế Quang dựa nhiều vào các tư tưởng Tân Khổng
giáo ràng buộc tính trung thành của quân đội với cấp chỉ huy trực tiếp và vào vùng đất
nơi họ được thành lập. Việc này đầu tiên tạo cho quân đội một số tinh thần đoàn kết.
Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng quân đội của Thích Kế Quang là một giải pháp tình thế
cho một vấn đề cụ thể - chiến đấu chống lại cướp biển, cũng như Tăng Quốc Phiên dự
định thành lập Hoài quân để chống quân khởi nghĩa Thái Bình. Tuy nhiên theo hoàn
cảnh, hệ thống Dũng binh trở thành một cơ cấu thường trực bên trong quân đội nhà
Thanh và cùng với thời gian nó lại gây ra những vấn đề cho chính phủ trung ương.
Đầu tiên hệ thống Dũng binh báo hiệu sự kết thúc ưu thế của người Mãn Châu bên
trong thể chế quân đội nhà Thanh. Dù các Kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các
nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh, từ đó các cơ cấu
Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của chính phủ Thanh. Thứ hai,
các đơn vị Dũng binh được tài trợ từ nguồn tài chính của các tỉnh và tuân theo sự chỉ
huy của các tướng lĩnh địa phương. Sự thay đổi này khiến cho quyền lực của chính
phủ trung ương giảm sút trên toàn bộ đất nước, và tình hình càng trầm trọng thêm khi
các cường quốc bên ngoài đua nhau lập các vùng lãnh thổ tự trị của riêng họ tại nhiều
vùng khác nhau bên trong Trung Quốc. Tuy nhiên, dù có những ảnh hưởng tiêu cực
các biện pháp này tỏ ra rất cẩn thiết ở thời điểm nguồn thu từ các tỉnh đã bị quân khởi
nghĩa chiếm không còn tới được ngân khố triều đình. Cuối cùng, cơ cấu chỉ huy của
Dũng binh tạo thuận lợi cho các chỉ huy quân sự của nó có cơ hội phát triển quan hệ
với nhau vì khi được thăng chức, dần dần triều đình nhà Thanh phải nhượng bộ họ và
cuối cùng là sự nổi dậy của các "quân phiệt".
Tới cuối những năm 1800 Trung Quốc nhanh chóng trượt vào con đường trở
thành một nước nửa thuộc địa. Thậm chí các nhân tố bảo thủ nhất bên trong triều đình
nhà Thanh cũng không thể không nhận thấy sự yếu kém quân sự của triều đình đối lập
với sự hùng mạnh của quân đội "rợ" nước ngoài đang dần áp chế họ - Năm 1860 trong
cuộc Chiến tranh nha phiến lần hai thủ đô Bắc Kinh bị chiếm và Cung điện mùa hè

(Cũ) bị một liên minh nhỏ của Anh Pháp với số lượng chừng 25.000 quân cướp phá.
Dù Trung Quốc tự kiêu hãnh rằng chính họ là người phát minh ra thuốc súng, và súng
ống từng được sử dụng trong chiến tranh ở Trung Quốc từ thời nhà Tống, sự xuất hiện
của các loại vũ khí hiện đại từ cuộc Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu như súng có
rãnh xoắn (1855), súng máy (1885), và các tàu chiến chạy bằng hơi nước (những năm
1890) khiến quân đội, hải quân Trung Quốc được huấn luyện kiểu cổ điển và trang bị
các loại vũ khí thô sơ mất ưu thế hoàn toàn. Nhiều lời kêu gọi 'Tây phương hoá' và
hiện đại hóa các loại vũ khí hiện dùng trong quân đội - đa phần từ phía Hoài quân
mang lại rất ít kết quả. Một phần bởi vì họ thiếu vốn, nhưng chủ yếu bởi vì thế lực
chính trị trong triều đình nhà Thanh không muốn thực hiện điều đó thông qua các biện
pháp cải cách.
Tư bản nước ngoài xâm nhập.
Điều ước Nam kinh mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào Trung quốc.
Năm 1845 nước Anh mở tuyến đường thủy từ thủ đô Luân đôn (Anh) đến Trung quốc,
sau đó xây dựng ụ tàu ở Quảng châu (Quảng đông) để sửa chữa tàu thuyền, đó là hoạt
động công nghiệp đầu tiên của tư bản nước ngoài hình thành ở Trung quốc. Ít lâu sau
các thương nhân Anh, Mỹ cũng mở xưởng sửa chữa tàu và lập ụ tàu ở Thượng hải, Hạ
môn, Phúc châu, về sau tư bản nước ngoài lũng đoạn ngành hàng hải của Trung quốc.
Trong thời gian từ năm 1862 đến 1875 số vốn của thương nhân Anh và Mỹ đầu tư
trong ngành hàng hải lên tới 256 vạn lạng bạc. Sau khi điều ước Ái huy được ký kết
năm 1858 thương nhân Nga được quyền hoạt động ở Trung quốc. Bắt đầu từ năm
1863 các thương nhân Nga mở xưởng chế biến chè tại Hán khẩu (Hồ bắc), Cửu giang
(Giang tây), Phúc châu (Phúc kiến) cạnh tranh mạnh với ngành sản xuất chè truyền
thống của Trung quốc. Hán khẩu trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu chè của
Trung quốc, năm 1865 số lượng chè xuất khẩu tại Hán khẩu là 1400 tấn, đến năm
1875 đã tăng lên 11000 tấn, tức tăng lên 8 lần. Năm 1862 các thương nhân Anh mở
xưởng ươm tơ tại Thượng hải sau đó thương nhân Pháp và Mỹ cũng tham gia sản xuất
trong ngành này. Các xưởng ươm tơ của tư bản nước ngoài đã phá hoại ngành ươm tơ
thủ công nghiệp truyền thống của Trung quốc. Bên cạnh đó tư bản nước ngoài còn mở
những xí nghiệp làm đường, chế biến bột, thuộc da.

Sự hình thành chủ nghĩa tư bản dân tộc.
Sau chiến tranh thuốc phiện do sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản ngoại
quốc nên công nghiệp dân doanh của Trung quốc bắt đầu sử dụng máy móc để sản
xuất. Năm 1861 thương nhân Phúc châu mua máy móc nước ngoài để làm chè khối.
Năm 1862 hiệu buôn gạo Hồng thịnh ở Thượng hải bắt đầu dùng máy xát gạo. Năm
1880 thương nhân Nam hải (Quảng đông) mở xưởng ươm tơ máy. Các cơ sở công
nghiệp quy mô nhỏ đó là bước đầu của ngành công nghiệp kiểu mới do thương nhân
làm. Thương nhân, địa chủ, quan liêu bỏ vốn vào công nghiệp kiểu mới trở thành tiền
thân của giai cấp tư sản Trung quốc. Thương nhân chuyển thành giai cấp tư sản đó là
lớp dưới của giai cấp tư sản vì điều kiện khó khăn nên công nghiệp của họ phát triển
chậm. Còn địa chủ và quan liêu biến thành giai cấp tư sản là lớp trên vì họ có đặc
quyền về chính trị và kinh tế nên công nghiệp của họ phát triển tương đối nhanh. Đối
với việc cải cách xã hội giai cấp tư sản lớp dưới có yêu cầu tương đối mạnh. Lúc mới
ra đời, tư sản dân tộc Trung quốc đã phải chịu hai tầng áp chế của tư sản nước ngoài
và thế lực phong kiến trong nước. Một công sứ Anh đã từng nói “việc Trung quốc sản
xuất bằng máy móc sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh”. Mặt khác nhà Thanh cũng sợ
công nghiệp phát triển sẽ tập trung nhiều nhân dân lao động làm lung lay nền thống trị
phong kiến của mình. Vì vậy tư sản ngoại quốc và phong kiến trong nước có thái độ
thù địch với tư bản dân tộc, do đó tư bản dân tộc Trung quốc phát triển rất khó khăn và
chậm chạp. Trong thời gian 1904 – 1908 có 227 công ty được thành lập nhưng trong
số đó chỉ có 72 doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 100.000 lạng bạc. Công nghiệp dệt
phát triển rất nhanh chóng, số vốn từ năm 1881 – 1895 tăng gấp 22 lần lên tới
18.047.544 đô la, các nhà máy dệt chủ yếu tại Thượng hải và Vũ hán (Hồ bắc). Tại Vũ
hán có cục dệt vải Hồ bắc. Tại Thượng hải có cục dệt Hoa tân, Hoa thịnh, nhà máy sợi
Dụ nguyên. Trương Kiển (1853 – 1926) một trong những nhà doanh nghiệp tiên
phong trong hoạt động công thương thời kỳ đó, mở xưởng dệt Đại Sinh ở Nam thông
(Giang tô), các công ty khai khẩn chăn nuôi Thông Hải, công ty tàu thủy Đại Đạt,
công ty bột mì Phục Tân, ngân hàng thực nghiệp Hoài hải.
Quan đốc thương biện.
Nhờ những hoạt động đó, Trung Quốc bước đầu có những cơ sở công

nghiệp hiện đại. Sau đó xuất hiện nhiều xí nghiệp do nhà nước quản lý, tư nhân điều
hành, nhà nước và tư nhân cùng làm gọi là quan đốc thương biện. Những thương nhân
người Quảng đông như Đường Đình Canh, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng, đều hoạt
động mãi biện cho các công ty nước ngoài như Dent & Co, Jardin Matheson nên tích
lũy được tiền bạc trước khi tham gia kinh doanh riêng. Tài sản của Từ Nhuận đạt đến
1800 vạn lạng bạc vào năm 1883 trong đó 65% tài sản là thuộc về bất động sản tại
Thượng hải, được mệnh danh là vua địa ốc Trước năm 1870 hoạt động vận tải hàng
hải tại Trung quốc bị chi phối bởi công ty Russel & Co của Mỹ. Nhận thấy vấn đề đó
đạo đài Thượng hải là Đinh Nhữ Xương (về sau là Giám đốc Giang nam công xưởng,
đô đốc hạm đội hải quân Bắc dương) cùng với Lý Hồng Chương bàn tính giành lại
quyền tự chủ trong hoạt động hàng hải. Năm 1863 Đinh Nhữ Xương dự định thành lập
công ty hàng hải dùng tàu thuyền Trung quốc và được hưởng mức thuế thấp, chủ
trương khuyến khích thương nhân bỏ vốn và đóng các tàu hơi nước. Sau khi vượt qua
trở ngại về tài chính năm 1872, Lý Hồng Chương và Thịnh Tuyên Hoài cùng xây
dựng Cục Kinh doanh Tàu biển (Luân thuyền chiêu thương cục) tại Thượng hải có
tính chất dân dụng do thương nhân Đường Đình Thục, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng
góp vốn và tham gia quản lý thực hiện chở lương thực từ Giang nam đến Thiên tân,
đặt nền móng cho ngành vận tải hàng hải của Trung quốc. Lúc đầu Chiêu thương cục
có 3 chiếc tàu với lượng vốn 20 vạn lạng bạc, sau 4 năm hoạt động tăng lên 33 chiếc,
tổng lượng hàng vận chuyển là 23.967 tấn, lợi nhuận hàng năm đạt 30 vạn lạng bạc.
Do lượng vốn ban đầu hạn chế nên trong quá trình kinh doanh những người quản lý
kêu gọi vốn góp thêm đạt tới 100 vạn lạng bạc, trong đó Từ Nhuận chiếm tới 50% cổ
phần. Năm 1877 Chiêu thương cục mua lại Công ty tàu thủy Thượng hải do người Mỹ
góp vốn, tiếp nhận 17 chiếc tàu. Khi Đường Đình Thục chuyển đến làm quản lý mỏ
than Khai bình năm 1884, Từ Nhuận lên thay, mua lại Công ty tàu thủy Kỳ xương
(Mỹ) có quy mô lớn nhất Đông Á mở rộng phạm vi kinh doanh, độc quyền kinh doanh
vận tải vùng Trường giang.
Đường Đình Thục còn quản lý Công ty hàng hải liên hợp thành lập năm
1868. Đường Đình Thục liên kết với Trịnh Quan Ứng mở 2 ụ tàu hơi nước ở Phật sơn
và Quảng châu. Khai bình môi khoáng thành lập năm 1877 tại phía bắc Thiên tân có

sản lượng lên tới 70 vạn tấn/năm do thương nhân Đường Đình Thục quản lý với số
vốn 150 vạn lạng bạc, Thiên tân điện báo cục, Nam bắc điện báo cục, Cục đường sắt
Bắc dương quan ở Sơn hải quan, Tân Du thiết lộ, Giang tây Công ty Than đá và sắt
Hán Dã Bình thành lập năm 1889 dưới sự kết hợp của mỏ sắt Đại dã và mỏ than Bình
hương, Ngân hàng Công thương Trung quốc được thành lập năm 1897 tại Thượng hải,
Công ty Xi măng Tangshan Qixin tại Thiên tân thành lập năm 1892 đưa Trung quốc
trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Á sản xuất xi măng. Trước đó
ngành bảo hiểm hàng hóa của Trung quốc do các công ty nước ngoài thực hiện. Để
đáp ứng nhu cầu bảo hiểm, năm 1875 Từ Nhuận đã thành lập Công ty bảo hiểm đầu
tiên của Trung quốc là Công ty bảo hiểm hàng hải Nhân hòa với số vốn 50 vạn lạng
bạc. Đến năm 1878 lại thành lập thêm Công ty bảo hiểm hàng hải và cháy Ký hòa với
số vốn 50 vạn lạng bạc. Đến năm 1886 Từ Nhuận sáp nhập 2 công ty đó thành Công
ty Bảo hiểm Nhân Kỳ Hòa, đặt nền móng cho ngành kinh doanh bảo hiểm Trung
quốc. Ngoài ra Từ Nhuận còn góp vốn vào hoạt động khai mỏ. Với 15 vạn lạng bạc
chiếm 10% số vốn của mỏ than Khai bình, Từ Nhuận đảm nhận chức Giám đốc,
khuyến khích sử dụng nhiều máy móc nhập từ Anh, thuê kỹ sư Anh, dùng công nghệ
mới để khai thác than, số nhân công người Quảng đông đã lên tới 5000 người. Sản
lượng của mỏ than Khai bình nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thị trường
Thiên tân, cạnh tranh với than nhập khẩu. Mỏ than Khai bình cung cấp nhiên liệu cho
hạm đội hải quân Bắc dương và các cơ sở địa phương. Để phục vụ cho việc vận
chuyển than, đường sắt Thiên tân được xây dựng. Các doanh nghiệp phụ trợ cho than
đá và xi măng cũng được thành lập trong khu vực. Chi nhánh Quảng châu của Mỏ
than Khai bình do Trịnh Quan Ứng (1842 -1922) làm quản lý. Trịnh Quan Ứng tham
gia dịch thuật bộ luật kinh doanh của Anh ban hành tại Hương cảng năm 1865 sang
tiếng Hoa. Năm 1880 Trịnh Quan Ứng mở nhà máy dệt tại Thượng hải, nhờ Dung
Hoằng lúc đó làm Phó lãnh sự tại Mỹ tuyển dụng kỹ sư người Mỹ. Năm 1881 Trịnh
Quan Ứng đầu tư 65000 lạng bạc thành lập Công ty Khai hoang Đường cô Thiên tân
làm tiền đề cho việc sản xuất giấy 10 năm sau. Trịnh Quan Ứng còn tham gia quản lý
tuyến đường sắt Quảng châu – Hán khẩu và đến năm 1905 thành lập Phòng thương
mại Quảng châu. Về sau Trịnh Quan Ứng tái cơ cấu lại Luân thuyền chiêu thương cục

cho phù hợp với luật thương mại. Từ Nhuận còn đầu tư vào mỏ đồng Bình tuyền, mỏ
vàng Hà phong ở Nghi xương, mỏ bạc Gushanxi, mỏ bạc Tam sơn, mỏ bạc Thiên hoa
(Quảng đông), mỏ bạc Đàn châu, mỏ vàng Kiến bình (Nhiệt hà), mỏ than Cẩm châu,
mỏ than Quế trì (An huy).
Bên cạnh các hoạt động doanh thương Từ Nhuận còn đóng góp vào các hoạt
động xã hội, thành lập Hội Chữ thập đỏ Trung quốc, Đồng văn thư cục, gửi du học
sinh sang Mỹ. Nhiều người trong số đó về sau đều có những đóng góp cho sự phát
triển của đất nước như nhà chính trị Đường Thiệu Nghi, nhà ngoại giao Lương Như
Hạo, nhà kỹ sư Thiên Hựu, Hiệu trưởng trường Đại học Thanh hoa Đường Quốc Ân.
Trong việc xây dựng và phát triển nền công nghiệp cận đại của Trung quốc, công lao
của Thịnh Tuyên Hoài rất lớn, được xem như người cha của nền công nghiệp cận đại.
Ngoài ra còn phải kể đến các thương nhân như Đường Đình Thục, Đường Đình Canh,
Từ Nhuận (1838 - ) “vua trà Trung quốc” và “vua địa ốc”. Lý Hồng Chương thành lập
Cục Điện báo năm 1882 và giao cho trợ thủ là Thịnh Tuyên Hoài quản lý và góp phần
lớn số vốn trong Điện báo cục thực hiện xây dựng đường dây điện tín giữa Thiên tân
và Thượng hải. Tới năm 1901 Điện báo cục đã xây dựng 14000
dặm đường dây điện tín giữa các thành phố, thị trấn. Năm 1876 Bưu điện Đại Thanh
được thành lập. Trong thời gian 1872 – 1885 có tới 90% dự án hiện đại hóa sản xuất
được thực hiện dưới sự bảo trợ của Lý Hồng Chương. Có tới 75 cơ xưởng sản xuất và
33 mỏ than và khoáng sản được thành lập. Các lĩnh vực công nghiệp ứng dụng phương
pháp kỹ thuật mới. Năm 1853 nhà thuốc Lão đức ở Thượng hải đã chế được thuốc tây,
nhà máy xà phòng Mỹ Tra làm được xà phòng. Năm 1876 nhà máy Đạm thủy Đài
loan bắt đầu dùng máy móc đào than. Năm 1878 dùng phương pháp Tây phương đế
khai thác dầu. Năm 1861 người Anh dùng máy kéo tơ. Năm 1889 Cục dệt vải Thượng
hải sử dụng kỹ thuật Tây phương để dệt vải. Năm 1892 Cục dệt vải Hồ bắc cũng có
xưởng dệt quy mô lớn. Năm 1881 kỹ thuật chế tạo giấy bằng máy được du nhập, năm
1890 nhà máy giấy Long chương được thành lập tại Thượng hải, năm 1882 kỹ thuật
chế tạo da được nhập vào. Năm 1880 tại Thượng hải bắt đầu sản xuất hộp quẹt, năm
1891 sản xuất thuốc lá cuốn bằng máy. Năm 1864 nhà máy khí than Thượng hải ra
đời, năm 1881 có nhà máy nước, năm 1882 có nhà máy bóng đèn điện. Trước năm

1880 điện báo đã được đưa vào Trung quốc, năm 1872 đường dây điện tín giữa Hồng
Kông và Thượng Hải được khai thông. Ngành in ấn dùng kỹ thuật in của phương tây.
Năm 1872 báo Buổi sáng ở Thượng hải đã nhập máy in bánh xe. Năm 1873 Cục in ấn
được thành lập. Năm 1906 máy in cuốn chạy điện được nhập vào Trung quốc. Phương
pháp in thạch nhập vào năm 1876, kỹ thuật karô nhập vào đầu thời Quang tự. Thông
thương vụ đại thần Tam khẩu Sùng Hậu đề nghị phát triển thủy lợi ở miền đông Trực
lệ, và tuần phủ Giang tây Thẩm Bảo Trinh đề nghị thay đổi phương pháp thu thuế đất
ở Giang tây, đều nhằm giảm gánh nặng cho dân. Mặc dầu còn có nhiều hạn chế nhưng
những hoạt động của phái Dương Vụ trên thực tế đã kích thích phần nào chủ nghĩa tư
bản ở Trung Quốc phát triển. Bên cạnh đó các nước Âu Mỹ cũng cho xây nhiều bệnh
viện. Năm 1844 Anh xây dựng bệnh viện ở Thượng hải, sau đó ở Bắc kinh, Thẩm
dương. Mỹ cũng xây bệnh viện ở Thượng hải, Sán đầu. Các tổ chức giáo hội xây dựng
khoảng 70 bệnh viện. Lĩnh vực dân sinh. Năm 1888 Lý Hồng Chương lập Tổng y viện
trực thuộc Hải quân Bắc dương, có Tây y học đường, bệnh viện thực hành, kho thuốc,
bổ nhiệm một người Anh làm Y quan. Các tổ chức giáo hội mở trường y ở Trung quốc
có Quảng châu Hạt Cát Y học viện năm 1899, Thượng hải Thần đán Y học viện năm
1903, Bắc kinh Hiệp hòa Y học viện năm 1906, Tứ xuyên Thành đô Hoa tây Hiệp hòa
Đại học Y học viên năm 1910. Năm 1902 Công ty nước sạch Thiên tân hoạt động,
năm 1904 Thiên tân có Công ty Xe điện của Bỉ hoạt động. Năm 1895 Thịnh Tuyên
Hoài thành lập trường Trung Tây học đường ở Thiên tân.
Phong trào Tây dương vụ.
Những người hăng hái thực hiện những biện pháp canh tân đều là các quan lại
đã trải qua cuộc nội dậy Thái bình thiên quốc cho rằng muốn chống cự với phương
Tây thì phải có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải luyện tập theo lối của
họ. Vài người Mãn như Cung Thân vương, Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn
với Văn Tường, Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tôn Đường. Họ đồng ý với
nhau rằng "muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh
thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới".
Ngày 13/1/1861 vua Hàm Phong ra chỉ dụ thừa nhận phong trào Dương Vụ,
khuyến khích tự lực tự cường, làm theo phương Tây để tăng cường quyền lực và phát

triển kinh doanh. Phong trào Tây dương vụ ra đời, do Cung thân vương Dịch Hân, em
vua Hàm Phong giữ chức Nghị chính vương kiêm Quân cơ xứ lĩnh bang đại thần khởi
xướng. Phong trào kéo dài từ 1860 – 1895. Năm 1862, họ giao cho Lý Hồng Chương
thi hành.
Năm 1861 Tổng đốc Lưỡng giang Tăng Quốc Phiên thành lập An khánh quân
giới cục tại tỉnh An huy.
Năm 1862 Tuần phủ Giang tô Lý Hồng Chương và Tăng Quốc Phiên đồng
sáng lập Cục pháo binh và Tổng cục chế tạo cơ khí Giang nam ở Thượng hải, Cục làm
pháo Tây dương ở Tô châu, Cục cơ khí Kim lăng ở Nam kinh.
Năm 1866 Tổng đốc Mân Triết Tả Tôn Đường mở Cục thuyền Mã vĩ ở Phúc
kiến, do Thuyền chính đại thần Thẩm Bảo Trinh làm Giám đốc, đặt nền móng cho hải
quân Trung quốc. Tả Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung
Quốc tại Phúc Kiến mang tên Mã vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên
khi ông làm tổng đốc ở đây. Khi chuyển đến vùng Tây bắc giữ chức Tổng đốc Thiểm
Cam, Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh
tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới,
thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây bắc như : Lan châu cơ khí chức ni
cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung quốc dùng máy móc của Đức, thành
lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A khắc tô, Lan châu chế tạo cục thành lập năm 1871,
Tây an cơ khí cục thành lập năm 1869.
Năm 1867 tại Thiên tân Sùng Hậu Thông thương vụ đại thần Tam khẩu mở 2
cơ khí cục chuyên sản xuất cơ khí quân dụng, sau đó năm 1872 Luân thuyền chiêu
thương cục mở chi nhánh tại đây, năm 1877 mỏ than Khai bình được đưa vào khai
thác, năm 1888 tuyến đường sắt Thiên tân Đường sơn hoàn thành, năm 1896 Bưu điện
Đại Thanh hoạt động tại đây, năm 1903 thành lập Tổng cục Công nghệ Trực lệ. Tả
Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung Quốc tại Phúc Kiến
mang tên Mã vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên khi ông làm tổng đốc
ở đây.
Tổng cục chế tạo Giang nam.
Năm 1865 Đinh Nhữ Xương, cựu tướng lĩnh Hoài quân được bổ nhiệm

làm Giám đốc Cục chế tạo cơ khí Giang nam (về sau được cử làm đô đốc hạm đội hải
quân Bắc dương). Lúc đầu kinh phí mua sắm máy móc chỉ có 25 vạn lạng bạc (35 vạn
đô la) được lấy từ nguồn thu thuế quan tại Thượng hải. Tổng cục chế tạo cơ khí Giang
nam mua các máy móc của Mỹ gồm lò nấu, máy hơi nước, động cơ, máy đục, máy
vặn ốc đủ các loại máy móc để chế tạo súng trường và pháo, thủy lôi, đạn dược, máy
móc đóng tàu, là xí nghiệp quân sự lớn nhất do phái Dương vụ thành lập, về quy mô là
một trong những công xưởng quân sự lớn nhất châu Á lúc bấy giờ. Đến giữa năm
1867 mỗi ngày công xưởng sản xuất 14 khẩu súng trường và hàng trăm thùng đạn,
cung ứng cho mặt trận Thiểm Cam của Tả Tông Đường. Đến năm 1873 mới sản xuất
được 4200 khẩu súng trường Remington. Năm 1874 sản xuất được 110 đại bác theo
kiểu của cơ xưởng Amstrong (Anh) với các loại cỡ nòng 120 mm, 170 và 200 mm. Về
sau Lý Hồng Chương cho áp dụng kỹ thuật của Đức thay cho của Anh, dùng nhiều sản
phẩm của hãng Krupp. Năm 1861 nhà khoa học Từ Thọ (1818 – 1888) người Vô Tích,
Giang tô đã nghiên cứu chế tạo tàu hơi nước, đến năm 1862 chế tạo thành công tàu
Hoàng cốc là chiếc tàu hơi nước đầu tiên của Trung quốc được làm bằng gỗ. Máy móc
chủ yếu là bánh chuyển động bằng hơi nước, xi lanh dài 2 thước, đường kính dài 1
thước, chiều dài của tàu là 55 thước, nặng 25 tấn, vận tốc đạt 6 hải lý/giờ. Năm 1868
Từ Thọ đến làm việc tại Quảng phiên viện quán (nhà phiên dịch của Tổng cục chế tạo
Giang nam) lần lượt dịch 13 loại thư tịch khoa học Tây phương như “Khí cơ phát
nhẫn”, “Doanh trận đề yếu”, “Tây nghệ tri tân”. Năm 1868 chiếc tàu đầu tiên của nhà
máy tàu thuyền Giang nam là Huệ Cát được hạ thủy. Đến năm 1876 Giang nam công
xưởng cho hạ thủy 7 chiếc tàu hơi nước, trong đó chiếc tàu lớn nhất có tải trọng 2800
tấn. Quy mô của Giang nam công xưởng vượt xa xưởng đóng tàu Yokosuda của Nhật
mãi đến năm 1887 mới bắt đầu sản xuất tàu cỡ lớn. Năm 1869 nhà máy chế tạo tàu
thuyền Mã vĩ (Phúc châu) bắt đầu đóng loại tàu mới, sử dụng máy móc và kỹ thuật cơ
khí của Pháp do Thẩm Bảo Trinh nguyên tuần phủ Giang tây làm Giám đốc. Kinh phí
ban đầu là 40 vạn lạng bạc (55 vạn đô la) được huy động từ các tỉnh Phúc kiến, Chiết
giang, Quảng đông. Trong thời gian 1866 – 1874 chi phí của xưởng lên tới 540 vạn
lạng bạc (750 vạn đô la). Số nhân công của xưởng Mã vĩ lúc cao nhất đạt tới 3000
công nhân, quy mô lớn hơn Giang nam chế tạo cơ khí chế tạo tổng cục. Năm 1890

Tổng cục chế tạo cơ khí Giang nam bắt đầu lập xưởng luyện thép, có lò 15 tấn mỗi
ngày luyện được 3 tấn, đó là lò luyện thép (lò thường) đầu tiên của Trung quốc. Năm
1892 quy mô của Giang nam công xưởng đạt tới diện tích 73 acre đất, 1974 nhà xưởng
và 2982 công nhân. Máy móc của công xưởng có 1037 máy, sản xuất ra 47 loại sản
phẩm dưới sự giám sát của kỹ thuật viên nước ngoài. Đến những năm 1890 hoạt động
của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật; các kiểu đạn pháo do Tổng
cục chế tạo Giang nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ khí nhập khẩu của phương
Tây. Cục cơ khí Thiên tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ khí quân dụng. Kinh phí xây
dựng 3 cục cơ khí Giang nam, Thiên tân, Kim lăng lên tới 2454 vạn lạng bạc, chiếm
50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Ngoài ra còn có các công xưởng
quân khí khác được xây dựng ở Tây an (Thiểm tây, năm 1869), Lan châu (Cam túc,
năm 1871), Quảng châu (năm 1874), Hồ nam và Sơn đông (năm 1875), Thành đô (Tứ
xuyên, năm 1877), Cát lâm (năm 1881), Bắc kinh (năm 1883), Vân nam (năm 1884),
Hàng châu và Đài loan (năm 1885). Các trường quân sự cũng được thành lập: năm
1867 trường hải quân được thành lập ở Phúc châu (Phúc kiến), Thiên tân (Trực lệ)
năm 1880, Hoàng phố (Quảng đông) năm 1887, Nam kinh (Giang tô) năm 1890, Yên
đài (Sơn đông) năm 1903.
Kinh phí xây dựng 3 cục cơ khí Giang nam, Thiên tân, Kim lăng lên tới
2454 vạn lạng bạc, chiếm 50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Đến
những năm 1890 hoạt động của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật;
các kiểu đạn pháo do Tổng cục chế tạo Giang nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ
khí nhập khẩu của phương Tây. Cục cơ khí Thiên tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ
khí quân dụng.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×