Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thuyết Tân Cổ Điển Và Cải Cách Cận Biên pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.33 KB, 19 trang )

Thuyết Tân Cổ Điển Và Cải Cách Cận Biên
từ kinh tế chính trị đến khoa học kinh tế
"Cuộc cách mạng" tân cổ điển bao gồm việc từ bỏ học thuyết giá
trị lấy lao động hay công việc làm trọng tâm trong sản xuất vật
chất và việc thay thế học thuyết này bằng một quan điểm về "lợi
ích" đạt được khi của cải vật chất được tiêu thụ. Đồng thời, họ
cũng đã đưa phân tích về cả hai mặt sản xuất và tiêu thụ dưới
dạng "cận biên" và toán học, từ đó có thể lập ra một bảng phân
loại mới hoàn toàn về những phương pháp phân tích và toán học.
Những thay đổi này không chỉ bao gồm sự thay đổi trọng tâm
nghiên cứu của học thuyết mà còn giới hạn lại phạm vi của cái
mà người ta cứ gọi là "kinh tế học" chứ không phải "kinh tế chính
trị".
Heilbronner thể hiện sự giới hạn này bằng cách bắt đầu thay đổi
từ những quan điểm của cả thế giới và cố "làm sáng tỏ cả con
đường dẫn đến một xã hội đang tiến triển tốt đẹp" nhằm chuyên
môn hoá nghề nghiệp và "giải thích" một cách chi tiết hơn về
những công việc làm trong nền kinh tế. Ông ta cho rằng, thay đổi
này diễn ra khi thế giới ngày càng phát triển, làm tăng mức
lương, giảm giờ làm, do đó đây là một thế giới "đầy hy vọng và
hứa hẹn".
Tiếc thay, cũng giống như nghiên cứu của những nhà kinh tế học
tân thời mà ông đang miêu tả, thì phần tính toán của ông lại bỏ
xót đi phần cốt lõi nhất của sự phát triển đó, cái phần đen tối và
nhuốm đầy máu, đó là cuộc đấu tranh giai cấp chống lại công
việc một địa thế về những cuộc đình công, những hành động
phá hoại của công nhân, về cuộc bạo động chống tư bản, sự phát
triển đó sử dụng những kẻ đánh thuê nói riêng và đàn áp của
cảnh sát nói chung. Tình thế xung đột giữa công nhân và tư bản
mang tính địa phương đó ngày càng trãi rộng ra cùng với sự phát
triển của hệ thống xã hội này. Một mặt công nhân tự mình đứng


lên thành lập công đoàn và phát động những phong trào chính trị,
và mặt khác, tư bản lại cố gắng nổ lực chống lại những thử thách
này, bao gồm luôn mọi thứ từ việc hợp tác với chủ nghĩa đế quốc
thực dân trong nước đến hợp tác với chủ nghĩa thực dân nước
ngoài.
Tiêu chuẩn sống gia tăng, giờ làm việc giảm, Heilbroner cho rằng
những nhà kinh tế học đã bỏ qua những vấn đề lớn này, chúng
không phải là một thứ sản phẩm phụ tất yếu phát sinh trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà là sự thắng lợi trong thế
trận công nghiệp và chính trị. Hơn nữa, khi doanh nghiệp trong
nước gặp thất bại thì họ cũng phải nhượng bộ bởi vì họ đã có
những thắng lợi riêng của mình ở nước ngoài trong những cuộc
xâm chiếm đẫm máu và bốc lột công nhân ở những nước thuộc
địa Châu Âu. Tóm lại, "những vấn đề lớn" ở đây vẫn chưa được
giải quyết và chúng còn liên quan đến nhiều người và hàng trăm
phạm vi mâu thuẫn ngày càng mở rộng thêm.
Nhưng vẫn tồn tại một vấn đề bất ổn, đó là những nhà kinh tế
(ngoại trừ John Hobson) không muốn đương đầu với những vấn
đề sản xuất và công ăn việc làm mang đầy tính bạo lực, mà họ
chỉ quan tâm đến sự phát triển "khoa học" nhằm tối đa hoá lợi ích
và lợi nhuận một vấn đề ngày càng phát triển và mang tính êm
đềm hơn. Nói chung, "cuộc cải cách biên tế" là cả một quá trình
bắt đầu từ những lời dự báo về cuộc cải cách đến khi tiến hành
những thay đổi biên tế. Còn vấn đề mang tính bạo lực không
được quan tâm kia đã được những nhà quản trị khoa học (như
Frederick Taylor), những công nhân nhà máy, những nhà xã hội-
công nghiệp học và những nhà tâm lý học quan tâm và đảm
trách.
Chúng ta có thể tìm thấy những quan điểm của các nhà kinh tế
học về khía cạnh "lợi ích"[1] hay "hạnh phúc"[2] trong những

nhóm tác giả: một là của những tác giả người Ý vào thế kỷ 18 và
hai là những tác giả người Anh nổi tiếng, thuộc trường phái
"thuyết vị lợi"[3], những người rất tin vào tác phẩm của Jeremy
Bentham.
Nhóm tác phẩm của những tác giả người Ý ít được biết đến trong
các nước nói tiếng Anh. Điều này có nhiều nguyên do. Thứ nhất,
trong số đó có rất ít tác phẩm được dịch sang tiếng Anh; thứ hai,
hầu như người ta chỉ biết đến những tác giả trường phái tân cổ
điển bắt nguồn từ Bentham và những tác phẩm của họ được trích
dẫn nhiều trong các tác phẩm khác. Tuy nhiên, tác phẩm trước
đó của Galiani, của Beccaria và Verri cũng đã được biết đến và
bạn có thể tham khảo phiên bản tiếng Anh, bài viết của Cesar
Beccaria về vấn đề tội phạm và mức xử phạt, trong đó những gì
ông ta đưa ra nay đã trở thành cách thức nổi tiếng. Cách thức đó
là chính sách công cộng, chính sách này trực tiếp mang lại "niềm
hạnh phúc lớn lao nhất cho đại đa số mọi người". Lập luận của
Beccaria về việc quy định mức xử phạt ra sao để có được kết
quả như trên cũng mang tính "vị lợi", ông viết: "niềm hạnh phúc
và sự đau đớn là những động cơ hành động của con người duy
nhất được tạo ra bằng cảm giác". Do vậy, việc tính toán mức
phạt ra sao phải tương ứng với mức độ phạm tội để có thể đạt
được sự hợp lý nhất và nhằm giảm thiểu tình hình phạm tội cũng
như tối đa hoá hạnh phúc xã hội, hoặc giả tối đa hoá những cái
mà sau này gọi là "phúc lợi xã hội".
Để biết thêm về những tác phẩm khác của các tác giả người Ý
trong phạm vi "thuyết vị lợi", xin xem bảng tóm tắt tại trang web
cepa hay có thể tra cứu thêm hướng giải quyết vấn đề của
Joseph Schumpeter trong quyển Lịch Sử Phân Tích Kinh Tế.
Việc tìm hiểu thêm về các tác giả người Ý một phần nào đó cũng
mang ý nghĩa thiết thực bởi vì những tác phẩm của Jeremy

Bentham (1748-1832) - một triết gia, kinh tế gia, luật gia người
Anh - có phần nào đó ảnh hưởng bởi những gì ông đọc từ
Beccaria. Từ nhỏ ông đã là một cậu bé phi thường, năm ông 12
tuổi đã bước chân và trường đại học Oxford, ông học chuyên
ngành luật và sau đó trở thành luật sư, ông viết về những vấn đề
cải cách luật và cố gắng để cho chúng được thực hiện. Ít ra phần
nào đó trong tác phẩm của mình ông cũng có trích dẫn từ tác
phẩm của Beccaria. Bản thân Bentham cũng biết rằng ông đã
từng đọc phiên bản tiếng Anh quyển Tội Phạm Và Mức Xủ Phạt
(năm 1767) của Beccaria và ông đã tiếp thu nhiều quan điểm cơ
bản từ tác phẩm đó trong bài viết của mình.
Tác phẩm đầu tiên của Bentham là Giới Thiệu Những Nguyên Lý
Về Đạo Đức và Pháp Chế, quyển này xuất bản vào năm 1780.
Trong đó tôi chỉ muốn bạn đọc chương 4 về đo lường nỗi đau và
niềm vui, bạn có thể nhận thấy được rằng ông đã tiếp thu quan
điểm từ Beccaria như thế nào và từ những khái niệm cơ bản về
nỗi đau và niềm hạnh phúc, ông đã phát triển thêm thành khái
niệm "lợi ích" và sáng tạo ra phương pháp tính toán mang tính
chất "đem lại hạnh phúc" để đo mức độ hạnh phúc và đau đớn
cũng như đánh giá mức cân bằng trong bất kỳ những hành động
có liên quan. Như Bentham đã ghi chú ngay từ "lời nói đầu",
(Beccaria cũng vậy) quyển sách này nhằm phục vụ cho việc áp
dụng vào bộ luật hình sự. [Nổi bật nhất trong tác phẩm của
Bentham về "mức xử phạt" là loại hình nhà tù "xây tròn" - trong
đó cho phép những giám ngục luôn để mắt đến các tù nhân bên
trong xà lim.]
Trong những bài viết như vậy, Bentham đã đưa ra định nghĩa về
"lợi ích" mà dù ít hay nhiều nó vẫn còn được sử dụng đến bây
giờ (trong những giáo trình kinh tế học vi mô): "Lợi ích nghĩa là
quyền sở hữu bất kỳ vật gì, nhờ đó mà ta có được lợi ích, thuận

lợi, niềm vui , sự hạnh phúc […]."[4] Cùng với sự phát triển của
kinh tế học, khái niệm này cũng đã được sử dụng trong cải cách
hay đưa ra những thuật ngữ toán học.
Augustin Cournot: Nhu Cầu Không Cần Đến Lợi ích
Augustin Cournot (1801-1877), bắt đầu viết từ năm 1838, và
trong suốt hơn 30 năm trước khi "cải cách cận biên" xuất hiện
vào đầu những năm 1870, ông đã có thể đưa ra những ý tưởng
về vấn đề trao đổi, về vấn đề thị trường, và vấn đề cạnh tranh với
mức độ chính xác gần như những nghiên cứu của các sinh viên
kinh tế học vi mô trung cấp của thời đại ngày nay.
Cournot nhận thức rất rõ khi bản thân là một nhà cải cách áp
dụng toán học vào vấn đề kinh tế chính trị. Và đến nổi ông cảm
thấy rằng cần phải chứng minh bằng hành động của mình. Trong
lời mở đầu quyển Những Nguyên Lý Toán Học Về Tài Sản
(1838), ông có nhận xét về những nét mới trong đề xuất của
mình:
"Tôi thừa nhận rằng, việc chỉ trích các học giả nổi tiếng là bắt đầu
từ tôi. Tôi muốn họ phải so sánh đối chiếu những dạng thức toán
học, và chắc chắn ngày nay chúng ta rất khó khắc phục lại những
định kiến mà đã được nhân rộng bởi những nhà tư tưởng như
Smith và những tác giả hiện đại khác.
[…]
Hầu hết những tác giả đã cống hiến hết cho kinh tế chính trị, tất
cả họ dường như đều co chung một cái nhìn sai lầm khi áp dụng
những phân tích toán học vào giả thuyết về tài sản. Họ chỉ nghĩ
rằng việc tính toán ra các con số chỉ bao gồm những ký hiệu và
công thức mà thôi, và chúng ta đều biết rõ rằng đối với việc định
giá trị bằng những con số mà chỉ sử dụng lý thuyết một cách đơn
thuần thì đúng là không thích hợp chút nào, do vậy có thể rút ra
kết luận: nếu việc tính toán chuẩn xác hay không có sai sót gì thì

bộ máy toán học sau cùng cũng vô ích và mang tính mô phạm
mà thôi. Nhưng những nhà phân tích toán học cũng biết rằng đối
tượng phân tích không chỉ đơn thuần là tính toán những con số,
mà còn là phải tìm ra những mối quan hệ giữa những gì chưa
được thể hiện bằng con số và giữa những hàm số mà quy luật
của chúng vẫn không được thể hiện bằng biểu thức đại số.
[…]
Cái tôi muốn nói đến trong bài này là giải pháp cho những vấn đề
chung phát sinh ra giả thuyết về tài sản này, không chỉ lệ thuộc
vào môn đại số sơ đẳng mà còn tuỳ thuộc vào những khía cạnh
phân tích của nó bao gồm những hàm số bị ràng buộc bởi
những điều kiện nhất định nào đó. Do ở đây tôi chỉ xét đến những
điều kiện rất cơ bản, nên để hiểu về bài tiểu luận này, bạn chỉ cần
có kiến thức về những nguyên tắc tích phân và vi phân là đủ.
Điều này có nghĩa là Cournot cũng đưa ra những hạn chế trong
bài viết của mình. Trong "Lời mở đầu", ông có giải thích là ông
không "đề ra một luận thuyết kinh tế chính trị một cách trọn vẹn
và mang tính giáo điều; tôi cũng không đề cập đến những vấn đề
mà không có áp dụng phân tích toán học, cũng như những vấn
đề mà theo tôi chúng đã quá rõ ràng." Trong chương IV bài viết
của mình, ông lập lại:
[…] chúng ta không không đồng hành với những tác giả tự biện
theo đuổi tìm hiểu cái nôi của con người; chúng ta không giải
thích nguồn gốc của tài sản hay nguồn gốc của hệ thống trao đổi
hay phân chia lao động. Tất cả những vấn đề này là thuộc về lĩnh
vực lịch sử nhân loại, nhưng nó cũng không ảnh hưởng đến giả
thuyết được áp dụng trong nền văn minh tiên tiến, thời kỳ (sử
dụng những ngôn ngữ toán học) không còn bị những ảnh hưởng
của các điều kiện sơ khởi."
Nói chung, ông có điểm sơ qua về tư tưởng lịch sử và đạo đức

trong tác phẩm Tài Sản Quốc Gia và Lý Thuyết về Tình Cảm Đạo
Đức của Adam Smith, hay quyển Tư Bản của Karl Marx để tập
trung miêu tả kỷ lưỡng về những vấn đề đó. Trong khi ông không
nói đến những gì mà ông cho là đã quá rõ ràng, thì lập luận của
ông hơi đáng ngờ khi những điều kiện sơ khởi của các loại
hình toán học có thể không phát triển nữa nhưng có liên quan
đến việc phát triển của các biến số của nó, thì việc tái sản xuất
liên tục của một loại hình đặc biệt nào đó trong xã hội cũng có
liên quan đến việc tái sản xuất liên tục của những đặc tính đã tạo
ra nó từ lúc bắt đầu. Do vậy bỏ qua vấn đề này có thể bỏ xót cả
những khía cạnh trung tâm và quan trọng của những mối quan hệ
xã hội hiện hữu cần được phân tích.
Với phạm vi nghiên cứu trong vòng một học kỳ, chúng ta sẽ chỉ
tìm hiểu một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất mà
Cournot đưa ra: nhu cầu thị trường[5].
Như chúng ta đã biết, những nhà quan sát và những học giả
nghiên cứu về thị trường đã tranh cãi nhiều về "nhu cầu" hàng
hoá trong suốt nhiều năm qua. Nhưng không một ai đưa ra được
bản liệt kê nhu cầu hay hàm nhu cầu gì cả. Nhiều người không
biết rằng Cournot đã làm được điều đó cách hàng mấy thập kỷ
trước khi nó được đưa ra lần nữa.
Trong chương 4 quyển Những Nguyên Tắc Toán Học Về Tài Sản
(1838), Cournot bắt đầu tranh luận về nhu cầu với một "tiên đề" là
"một người cố gắng có được những giá trị lớn nhất có thể từ
hàng hoá hay sức lao động của mình". Sau đó vào những năm
1870, những câu phát biểu về thuật ngữ "giá trị" được thay bằng
thoả dụng; nhưng vào năm 1838, ông lại định nghĩa đơn giản hơn
và trưc tiếp hơn: mỗi người cố gắng để có được phần lợi nhuận
từ đồng tiền của mình. Quan điểm về mức cầu của ông xuất phát
từ trực giác bản thân: nếu vật dụng rẻ hơn, người ta sẽ mua

nhiền hơn, tôi thiểu ở mức: "báo càng rẻ, người ta hàng ngày đều
mua cả."
Quan điểm này đã thay thế quan điểm thông thường trong thời
đại của ông, cái mà người ta quan niệm rằng giá cả "tỷ lệ trực
tiếp" với lượng hàng hoá theo mức cầu. Thay vì thể hiện mối
quan hệ giữa mức giá và mức cầu bằng hàm số p=f(D), trong đó
mức cầu là biến độc lập, thì ông lại viết là D=f(p) trong đó số
lượng hàng hoá theo mức cầu do mức giá quy định. Dĩ nhiên,
đây là một khái niệm hiện tại thể hiện mối quan hệ đó bằng hàm
số, và ta luôn có dD/dp<0.
Nhưng có điều, Cournot lại không phân biệt rõ được giữa mức
cầu và số lượng theo mức cầu tại một mức giá cho sẳn, nghĩa là
toàn bộ hàm số với số lượng theo mức cầu tại những mức giá
khác nhau. Bởi vì nếu chúng ta giải thích câu "mức giá hàng hoá
… tỷ lệ trực tiếp với số lượng hàng hoá theo mức cầu" như sau:
nếu "mức cầu" (toàn bộ hàm số) gia tăng (hay dịch chuyển về
phía bên phải) thì (giả định đường cong hướng lên thể hiện mức
cung) mức giá cũng sẽ tăng theo; thì phát biểu của Cournot là
sai.
Theo cách ông nhìn nhận vấn đề này, thì ông đã đồng hoá mức
cầu với doanh số bán ra: "doanh số bán hay mức cầu (đối với
chúng ta thì cả hai từ nay là đồng nghĩa, và giả thuyết không cần
tính đến mức cầu khi tính doanh số) gia tăng khi mức giá giảm."
Mặc dù Cournot tiếp tục triển khai đường cong cầu, nhưng chúng
ta đều thấy rằng, khi bàn về vấn đề này, ông ta không cho rằng
đường cong cầu - tập hợp những điểm thể hiện số lượng theo
mức cầu, sẽ cắt đường cong cung - tập hợp số lượng theo mức
cung, và ông cũng không cho rằng mức "doanh số" sẽ được
quyết định bởi giao điểm của hai đường này cũng như vị trí điểm
cân bằng và "khoảng trống" của thị trường.

Tuy nhiên, Cournot không đưa ra công thức mức cầu mà chúng
ta vẫn sử dụng ngày nay: D=F(p) trong đó D là mức cầu (hay
doanh số hàng năm), p là mức giá hàng hoá- là ẩn số. Ông gọi
công thức này là luật cầu.
Khi thử vẽ ra đường cong từ giả thuyết bao gồm cả những thói
quen và tập quán, những giá trị sử dụng, phân phối thu nhập và
những nguyên nhân đạo đức, và giả thuyết này được cho là
không khả thi (chính xác là rút ra từ lợi ích), ông cho rằng một
người có thể biết được hình dạng thực của những đường cong
đó bằng cách nghiên cứu quan sát những gì diễn ra trên thị
trường.
Ông nói là ta có thể kẻ ra "một bảng những giá trị tương ứng của
D và p; sau đó dùng những phương pháp nội suy hay vẽ hình thì
có thể vẽ được một đường cong hay viết được một công thức
thực nghiệm thể hiện được hàm số chưa biết đó." Phương pháp
ông đang nghĩ sau này được tiếp nhận trong những nghiên cứu
toán học kinh tế, ví dụ như phương pháp thống kê, như phép
phân tích hồi quy để tìm đường cong nào là "thích hợp" nhất hay
có thể thể hiện được những tình huống quan sát được. Tuy nhiên
do "gặp khó khăn để có được những quan sát thích hợp và chính
xác" nên ông vẫn không chắc lắm về tính khả thi của những
phương pháp nghiên cứu như vậy và lại tiếp tục cho là hình thức
liệt kê chi tiết các số liệu toán học vẫn cho ta những kết quả chính
xác.
Khi ứng dụng những công thức này, ông quan niệm rằng ta có
thể giả định là trong một xã hội tư bản phát triển toàn diện có
nhiều người tiêu thụ và nhiều loại thị trường, thì hàm cầu F(p) đó
sẽ mang tính liên tục. Tính chất liên tục này ám chỉ những thay
đổi "cận biên" chỉ là những thay đổi nhỏ, và ta có một cách tính
mới:

Nếu hàm số F(p) mang tính liên tục, thì những hàm số cùng chức
năng khác cũng như thế, và nhiều ứng dụng quan trọng của phép
phân tích toán học sẽ dựa vào: sự thay đổi mức cầu sẽ tỷ lệ với
sự thay đổi mức giá đồng thời đây là những phần thay đổi nhỏ so
với mức giá gốc.
Do vậy, ông ta có thể tranh biện về hình dạng của hàm cầu
D=F(p) và cho rằng hầu hết hình dạng gốc - những hình dạng cũ
của chúng - có độ lồi theo những biên độ thích hợp. Ông quan
niệm chúng có thể tối đa hoá giá trị tổng doanh số bán pF(p), tức
là mức độ rộng lớn của thị trường tại những mức giá khác nhau
và ông sử dụng những số theo thứ tự phái sinh thứ nhất và thứ
hai để xác lập cực đại và cực tiểu. Điều không rõ duy nhất trong
phần giải thích của ông là phần nghịch đảo trục, trong đó mức giá
nằm trên trục hoành và số lượng nằm trên trục tung.
Nên chú ý rằng Cournot cũng nhận biết được những thay đổi này
mà sau này ta gọi là độ co giãn của mức cầu - có thể gọi là độ
thay đổi nhạy bén của mức cầu theo giá.
Mức cầu có thể tỉ lệ nghịch với mức giá; thông thường nó tăng
hay giảm theo tỷ lệ nhanh hơn - quan sát này có thể áp dụng vào
sản xuất mọi mặt hàng. Ngược lại, trong các trường họp còn lại,
mức cầu thay đổi chậm hơn.
Ông nói về vấn đề này như sau:
Giả sử khi mức giá bằng p+dp [trong đó dp thể hiện sự thay đổi
nhỏ của p], thì mức tiêu thụ hàng năm theo thống kê - được ghi
nhận từ từng hộ gia đình sẽ bằng D-dD [trong đó dD thể hiện sự
thay đổi nhỏ của D]. Tuỳ theo dD/dp hay D/p, khi mức giá tăng,
dp sẽ làm tăng hoặc giảm sản phẩm pF(p), và do đó ta sẽ biết
được thông số này dù hai giá trị p và d+dp giảm xuống thấp hay
trên mức giá mà làm cho sản phẩm được xem là đạt giá trị tối đa.
Như Clarence Morrison gần đây đã chỉ ra trong bài Báo Kinh Tế

Atlantic mùa hè 2003: nếu chúng ta chia dD/dp hay D/p cho D/p,
chúng ta sẽ có được công thức co giãn giống nhau: (dD/D)/(dp/p)
< hay >1. Phát hiện về tính co giãn này giúp cho Alfred Marshall
đặt tên đó cho nó sau này.
Vậy là chúng ta đã điểm qua những quan điểm của những nhà
kinh tế tân cổ điển, và những bình luận của họ về "mức cầu" của
tầng lớp công nhân có đủ để họ sinh sống hay không hoặc có đủ
để có thể ngăn chặn khủng hoảng kinh tế và tình trạng mức
lương bị giảm.

×