Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Thuyết Tân Cổ Điển Và Cải Cách Cận Biên docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.38 KB, 16 trang )

Thuyết Tân Cổ Điển Và Cải Cách Cận Biên
từ kinh tế chính trị đến khoa học kinh tế-
PHẦN2
Jevons và Lợi Ích Biên Tiệm Giảm
Trong khi Cournot nghiên cứu những đường cầu mà không cần
đến thuyết vị lợi, thì William Stanley Jevons (1835-1882) ứng
dụng những lập luận "biên tế" vào thuyết đó. Cha của Jevons là
thương nhân ngành sắt, và từng nghiên cứu hoá học tại trường
đại học, Jevons bắt đầu chú tâm đến kinh tế học vì nhiều lý do:
khi quan sát những người nghèo, hay khi xảy ra vụ nổ đường sắt
năm 1847 làm cha ông khánh kiệt, và khi ông có nhiều kinh
nghiệm lúc làm ở Sở Đúc Tiền tại Úc. Phần lớn ông tự học môn
kinh tế học, trước khi ông tốt nghiệp, ông có viết bài về Thuyết
Toán Học Tổng Quát Về Kinh Tế Chính Trị, ông đã trình bài viết
này đến Hội Đồng Phát Triển Khoa Học Anh vào năm 1862.
Giống như Cournot, Jevons nhận ra rằng đề xuất của mình về
"Thuyết Toán Học Tổng Quát" là một xuất phát từ thực tiễn chung
của những nhà kinh tế chính trị học và đề xuất này cần phải có
phần giải thích cụ thể và phải đưa ra được những dự báo trước.
Trong bài luận trước đó, ông viết: "Tuy nhiên tôi không cho rằng
do nền kinh tế đang ứng dụng những hình thức toán học nên làm
cho việc tính toán các vấn đề trở nên khắc khe nghiêm ngặc.
Những nguyên lý toán học có thể mang tính chính thống và kiên
định, trong khi đó những dữ liệu riêng biệt của nó một số vẫn còn
chưa chính xác." Sau này, khi giải thích, Jevons thêm vào: "Dĩ
nhiên những phương trình được nói đến ở đây chỉ đơn thuần là lý
thuyết mà thôi. Đối với những quy luật phức tạp như thế cũng
giống như những quy luật kinh tế, ta không thể truy nguyên một
cách chính xác trong từng trường hợp. […] Chúng ta phải hiểu là
những hình thức quy luật này là đã hoàn thiện và mang tính chất
phức tạp; trong thực tế, chúng ta nên tạm bằng lòng với những


quy luật mang tính gần đúng và thực nghiệm." Trong chương
cuối "Nhận xét chung" sách của Jevons, ngoài những tình huống
quan sát theo phương pháp luận, ông còn lên án mạnh mẽ đối
với những đoạn văn của Karl Marx - "những ảnh hưởng xấu từ
phía chính quyền", trong đó công kích một số nhà kinh tế học có
những tư tưởng giáo điều thiên về một bên nào đó mà lại đi phê
bình những tư tưởng đã được công nhận. Trong thời của ông, tín
ngưỡng mà ông đang xem xét là "trường phái Ricardian chính
thống", nhưng việc mà ông ta kêu gọi phản biện lại nó có theo
nhằm mục đích thu hẹp lại "thuyết về mức giá theo trường phái
tân cổ điển" mà thuyết này một phần ông có công sáng lập ra,
hoặc giả thu hẹp lại "thuyết tổng hợp tân cổ điển" sau này trong
giai đoạn đại nhị thế chiến, hoặc giả hạn chế sự quá tin vào thị
trường của những nhà kinh tế học theo trường phái tân tự do.
Trong bài luận "Thuyết Toán Học Tổng Quát", Jevons cũng tự đặt
mình vào trong trường hợp của những người theo thuyết vị lợi,
ông có đưa ra hai nhận định sau: thứ nhất: "một học thuyết kinh
tế thật sự là một học thuyết xuất phát từ chính những động cơ
hành động của con người những cảm giác vui suớng cũng như
đau đớn." (Jevons cố gắng viết lại nghiên cứu của Bentham về
những loại cảm giác vui sướng hay đau đớn dưới dạng những
thuật ngữ toán học: "Như nhiều tác giả khác đã nhắc đến trước
đây, cảm giác có hai loại (hai chiều hướng), cường độ và thời
gian. Một cảm giác vui sướng hay đau đớn có thể yếu hay mãnh
liệt […] nó cũng có thể tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn
hay dài. […] Do đó nếu khoảng thời gian tồn tại của cảm giác
được thể hiện bằng đường cong nằm trong hệ toạ độ Đề-Các, thì
cường độ của cảm giác sẽ là tung độ, và số lượng của cảm giác
sẽ là phần diện tích nằm trong trục toạ độ đó.")
Và nhận định thứ hai của ông là: "phần thứ hai của thuyết này

xuất phát từ cảm giác đối với những vật thể đem lại lợi ích hay
cảm giác đối với độ dụng (cảm giác khi có được lợi ích) mà thông
qua đó cảm giác vui sướng được gia tăng và cảm giác đau đớn
mất đi. Một vật thể được xem là đem lại lợi ích khi vật thể đó
trong lúc đó có tác động tốt đến giác quan của con người, hay khi
người đó có thể thấy trước rằng vật đó trong tương lai sẽ mang
đến lợi ích".
Nhưng đối với những gì ông viết trong thuyết này - và những gì
khiến ông trở thành một trong những người sáng lập ra môn kinh
tế học tân cổ điển đều nằm trong những đoạn văn sau:
"8. Mức độ dụng (mức độ được lợi) tương đương với mức độ vui
sướng có được. Nhưng khi vật hữu dụng ấy cứ tạo ra mức độ
dụng liên tiếp không đổi, thì nó sẽ không còn tạo ra mức độ vui
sướng như cũ được nữa. Từng cảm giác hay ham muốn dần trở
nên chán ngấy. Mỗi một mức thoả dụng ta nhận được từ vật hữu
dụng đó , thì nó cũng mang đến cho ta một cảm giác khác đi,
thậm chí là chán ghét. Từng mức thoả dụng nhận được liên tục
sẽ làm cho cường độ về cảm giác giảm đi so với trước. Do đó
mức thoả dụng nhận được sau cùng luôn luôn giảm đi, hoặc làm
giảm cả những mức thoả dụng nhận được trước đó. Sự thay đổi
này về mặt lý thuyết là rất ít, nhưng chúng ta phải trừ hao đi một
phần nhỏ đó, và chúng ta có thể gọi hệ số độ thoả dụng là tỉ sổ
giữa lượng hay những phần nhỏ nhận được từ vật thể, và mức
độ cảm giác vui sướng do nhận được định lượng đó từ vật thể,
và tất nhiên là cả hai thông số này đều được ước lượng bằng
những đơn vị thích hợp.
9. Do vậy, nói chung, hệ số lợi ích là một hệ số giảm dần theo số
lượng của vật thể được tiêu thụ. Đây là một quy tắc quan trọng
của cả thuyết này."[6]
Đây là những thay đổi rất nhỏ về lợi ích theo thuyết của Cournot,

chứ không phải thay đổi về mức cầu, và chúng đang có khuynh
hướng giảm dần. Dĩ nhiên, "hệ số lợi ích" của Jevons được tính
bằng cách lấy đạo hàm dU/dx của hàm số U=f(x) trong đó U là lợi
ích có được từ việc tiêu thụ hàng hoá x. Và dU/dx<0, khi x tăng ít,
thì lợi ích cũng giảm ít.
Xin chú ý rằng ở đây đang nói đến việc tính toán lợi ích sao cho
chính xác. Hàm thoả dụng của Jevons không phải thể hiện lợi ích
"ít hay nhiều", mà nó chỉ đo lường mức độ xác thực là ít hay
nhiều mà thôi. Do đó ta phải cần đến một đơn vị để đo, đó là util.
Thuyết của Jevons bao gồm "số các yếu tố trong một tập hợp" và
được sắp xếp dưới dạng "số lợi ích trong một tập hợp", nghĩa là
thuyết của ông muốn nói rằng chúng ta có thể biết một cách
chính xác lợi ích nhiều hay ít mà người ta có được khi tiêu thụ
một đơn vị sản phẩm x nào đó.
Khi sang tiếp đến vấn đề lao động, vấn đề trao đổi trên thị trường
và vấn đề nguồn vốn (tư bản), Jevons đã không nhắc đến về mức
cung và mức cầu, ông cho rằng ta có thể biết được hai thông số
này khi xét đến mối quan hệ giữa lợi ích biên đạt được và những
tổn thất biên. Ví dụ như trong trường hợp vấn đề lao động:
"Do công nhân làm việc với một cường độ và thời gian nào đó
cho đến khi lượng đau đớn mà anh ta cảm thấy vượt quá những
gì anh ta có được - lượng vui sướng , thì anh ta sẽ ngừng lại,
nhưng đến lúc này, anh ta đã có được một lượng vui sướng dư
ra."
Lập luận của ông đã quá rõ, duy chỉ có "lượng vui sướng dư ra"
là hơi mơ hồ. Khi nói rằng "lượng đau đớn nhiều hơn so với
lượng vui sướng có được" chính là ám chỉ rằng tự bản thân
người công nhân "cảm thấy đau đớn" hay không vui sướng. Và
thường trong xã hội tư bản, "những gì anh ta có được" chính là
tiền lương được trả trong một khoản thời gian nào đó khi công

việc hoàn tất - ý nghĩa của câu này là, khi anh ta làm như thế,
đến lúc anh ta dừng công việc thì anh ta có được "một lượng vui
sướng dư ra", đó chính là anh ta biết trước phần lương mà trong
tương lai anh ta nhận được thì lúc này lượng vui sướng của anh
ta sẽ lớn hơn lượng đau đớn khi anh ta làm việc.
Còn đối với vấn đề trao đổi trên thị trường, ông cho rằng người ta
trao đổi nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và do dó việc trao đổi
xảy ra khi và chỉ khi họ sẽ có được một lợi ích nào đó khi tiến
hành trao đổi. Ông cho là việc trao đổi sẽ diễn ra cho đến khi "lợi
ích mất đi và lợi ích có được theo mức độ giới hạn của số lượng
hàng được trao đổi" bằng với nhau. Điểm cân bằng này có thể
tính được nếu ta biết được những hàm thoả dụng tương ứng của
những người trao đổi và những tình huống trao đổi diễn ra. Ông
cho rằng giả thuyết này có thể được mở rộng ra từ sự trao đổi hai
mặt hàng giữa hai người cho đến bất kỳ (nhiều) sự thay đổi - có
thể trong hay ngoài nước.
Sau cùng là đến vấn đề nguồn vốn, ông định nghĩa nó như sau:
nó "bao gồm tất cả các sự vật mang lại lợi ích cho người dùng
nó, nó mang đến cho người công nhân những ước muốn, nhu
cầu, những vật như thế này làm cho anh ta có thể thực hiện công
việc của mình, và kết quả công việc tuỳ thuộc vào thời gian ít hay
nhiều." Nói cách khác, khi mô tả đặc điểm này ông có nhắc lại
thời kinh tế cổ điển, Jevons cho là nguồn vốn "chẳng là gì cả
ngoài tác dụng duy trì giữ công nhân lại việc làm."
Tuy nhiên, ông vẫn hiểu rằng tư bản (nguồn vốn) là một nhân tố
cơ bản của sản xuất mà lợi nhuận của nó có thể tính được và
bằng với năng suất biên của nó: "tỷ lệ lợi nhuận luôn được xác
định bởi sản lượng gia tăng làm phát sinh thêm vốn chia cho số
lượng sản xuất ra từ số vốn đó." Và lợi nhuận biên giảm dần là
một điều không thể tránh khỏi do phải trả thêm cho việc thuê lao

động, ông giải thích thêm "thực ra lợi nhuận vốn luôn có khuynh
hướng giảm rất nhanh do lượng vốn gia tăng tỷ lệ với số lao động
mà nó phải chi trả".
Sau năm 1862, Jevons có sửa chữa bổ sung thêm giả thuyết cuả
mình về lợi ích và mức cầu và cho xuất bản quyển "Học Thuyết
Kinh Tế Chính Trị" vào năm 1871, trong đó chương III nói về
"thuyết lợi ích". Trong chương này, những công thức toán học
tổng quát mà ông có đề cập trong bài luận năm 1862 của mình đã
được ông xác lập lại với độ chính xác cao hơn và có cả minh hoạ
bằng đồ thị. Cũng như Cournot, về vấn đề mức cầu, Jevons giả
định rằng hàm thoả dụng mang tính liên tục và những thay đổi
biên của lượng hàng hoá tương đương được tiêu thụ. Vì thế nếu
U=f(x) thì Jevons xem lim (mức giới hạn) của deta u/deta x khi x
tiến đến 0 là du/dx hay còn gọi là "mức lợi ích". Đối với lợi ích
biên của "tập hợp những lượng vốn nhỏ công thêm vào số vốn
ban đầu" thì ông gọi là "mức lợi ích cuối cùng". Và ông phát biểu
"quy luật chung" của lợi ích biên (cuối cùng) giảm dần như sau:
"mức lợi ích thay đổi theo số lượng hàng hoá và sau cùng lợi ích
này sẻ giảm khi số lượng hàng hoá gia tăng".
Jevons đã giải thích rất rõ về những gì ông tiếp thu được từ
Bentham và trong lời mở đầu tranh luận của ông về "những quy
luật về ước vọng của con người" một sự bắt đầu mang tính
tổng quát và đầy triết lý. Ông cũng có trích dẫn "quy luật biến đổi"
của Nassau Senior trong đó nhấn mạnh rằng con người không
những quan tâm đến số lượng mà còn cả về sự thay đổi chất
lượng (như Jevons có nhấn mạnh là lợi ích biên của mức tiêu thụ
sẽ giảm khi mức tiêu thụ tăng). Và Jevons cũng có đề cập đến
"mức độ không thể mãn được" khi chúng thay đổi. Khi thuyết tân
cổ điển được xem là một thuyết chính thức, thì sẽ xuất hiện một
loại giả thuyết về mức độ không thể mãn được mà trong đó nó

cho rằng nhu cầu con người luôn luôn gia tăng, lợi ích gia tăng
khi lượng hàng tiêu thụ tăng, dù là lợi ích biên của từng mặt hàng
giảm.
Sau khi trích dẫn nhu cầu của con người được chia xếp theo cấp
bậc của Banfield, Jevons nhấn mạnh đến tính tương đối của lợi
ích đối với người có nhu cầu. Ông lưu ý rằng những vật thể "thực
chất" không có lợi ích, mà chúng chỉ có một mối liên đới nào đó
đối với những nhu cầu cần thoả mãn. Điều này cũng có nghĩa là
cùng một loại hàng nhưng đối với từng người có thể có "những
lợi ích" khác nhau (ví dụ như một chiếc ôtô đối với người này nó
là phương tiện đi lại, nhưng đối với người kia nói lại thể hiện vị
thế của người đó), nhưng Jevons không quan tâm đến ý nghĩa
này cho lắm, mà ông chỉ lấy đó làm nền tảng cho những biện luận
của mình về lợi ích biên giảm dần. Vì thế vấn đề "lợi ích biến đổi"
chủ yếu là bàn luận về mức tiêu thụ của từng người ,và ở đây
ông lấy ví dụ là "thực phẩm" để minh hoạ cho tổng lợi ích (hay
ông còn gọi là "cường độ" hay "mức độ" thoả dụng) của từng cá
nhân giảm dần. (Ngoại trừ khi lợi ích của thực phẩm có được từ
hình thức bên ngoài và vị thế của loại thực phẩm đó đem lại hơn
là mức độ dinh dưỡng hay mức độ hài lòng khi sử dụng nó. Ví dụ
trong các buổi dạ tiệc hay tiệc cưới, khi đó các món ăn không
những đa dạng mà số lượng cũng nhiều, qua đó gia chủ chứng tỏ
được sự giàu có của mình và gây ấn tượng với khách mời.)
Hơn nữa, khi thuyết của ông phát triển về mặt toán học trong đó
có liên quan đến những đường cong thoả dụng được chia làm hai
phần, thì Jevons cũng nhận ra rằng lợi ích biên không chỉ giảm
mà nó còn có thể mang dấu âm và do đó ông phải tính đến "độ
không thoả dụng" hay được thể hiện bằng một đường cong cắt
trục hoành và hướng xuống góc phần tư bên phải. Nói cách khác,
bên phần còn lại, thì điểm cố định (điểm giao nhau) làm "mất đi"

lợi ích. Thậm chí Jevons còn liệt những loại hàng như thế vào
danh mục "phi hàng hoá"[7] - những loại mà chỉ gây hại và gây
bất tiện khi sử dụng. Vậy là chúng ta đã khảo sát qua hàm số
thoả dụng, từ "thoả dụng biên giảm dần" qua giao điểm với trục
hoành (điểm "không thoả dụng" -theo như nguyên văn của
Jevons) rồi đến phần diện tích "không thoả dụng". Giả sử đường
cong lại tiếp tục giảm, thì có thể nói rằng chúng ta đang ở phần
diện tích "không thoả dụng biên giảm dần". Theo như ví dụ mà
Jevons đưa ra về lợi ích của mức tiêu thụ càng nhiều thực phẩm,
trong trường hợp này ta lấy ví dụ là ăn nhiều miếng táo, khi ăn
một vài miếng đầu sẽ cho cảm giác ngon miệng, nhưng với tỷ lệ
giảm dần, và đến một mức nào đó bạn sẽ chán và nếu tiếp tục ăn
thêm nữa có lẽ sẽ phát bệnh (gây bệnh - theo nghĩa đen).
Jevons khép lại chương này bằng một vài câu nhận xét về yếu tố
thời gian của lợi ích và ông đưa ra một số sự so sánh những
khác biệt giữa lợi ích thực, lợi ích tương lai, và lợi ích tiềm năng.
Đối với yếu tố thời gian thì ông giải thích là cần có những phép
phân tích thống kê, còn đối với sự khác biệt giữa các lợi ích thì
ông gợi nhớ lại về Bentham nhằm giúp hiểu rõ hơn về tính phức
tạp của lợi ích.
Quan Điểm của Jevons về Tư Bản (nguồn vốn), Lao Động, và
Đấu Tranh Giai Cấp
Như đã được đề cập ở trên, Jevons định nghĩa về nguồn vốn
"bao gồm tất cả các sự vật mang lại lợi ích cho người dùng nó,
nó mang đến cho người công nhân những ước muốn, nhu cầu,
những vật như thế này làm cho anh ta có thể thực hiện công việc
của mình, và kết quả công việc tuỳ thuộc vào thời gian ít hay
nhiều." Trong phần ông viết về vấn đề "tư bản hoá", Jevons đưa
ra quan điểm của mình là bất cứ thứ gì được dùng nhằm mục
đích khiến cho công nhân phải làm việc và duy trì giữa họ ở lại

tiếp tục sản xuất ra nhiều của cải vật chất thì chính những thứ đó
tạo nên "nguồn vốn". Ở đây ông lấy ví dụ là ổ bánh mì cho "người
thợ xây làm việc cực nhọc". Ông cho rằng "Bản chất ổ bánh
chẳng là gì cả, nhưng tác dụng của nó là được dùng để thuê
mướn người thợ, chúng ta nên quán triệt quan điểm về tư bản
hay tư bản hoá này".
Quan điểm này của ông song hành cùng với những phân tích của
Marx về tiến trình đầu tư mà trong đó ông xem số tiền tăng thêm -
một phần là tiền lương thuê công nhân và đây được xem như
một phần của nguồn vốn (và phần còn lại của số tiền tăng thêm
đó là những máy móc, phương tiện sản xuất). Nhưng quan điểm
này chỉ song hành cùng với Marx cho đến khi Jevons biện luận
rằng mức tiêu thụ của người công nhân dùng để duy trì họ trong
suốt quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, mức tiêu thụ này chính
là một phần của quá trình tư bản hoá. Còn khả năng tự tái sản
xuất của người công nhân là một phần của quá trình tự tái sản
xuất tư bản. Đây là điều mà Marx không đưa vào thoả luận về
đầu tư, nhưng ông hoàn toàn hiểu rõ nó thuộc hệ thống "tái sản
sản xuất", hệ thống này minh hoạ quá trình tự tái sản xuất tư bản
bao gồm khả năng tự tái sản xuất của tất cả các thành phần của
tư bản kể cả lao động (hay năng lực lao động - theo như nguyên
văn của Marx).

×