Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tổng cầu Số nhân và Cân bằng chi tiêu docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 20 trang )

Tổng cầu
Số nhân và Cân bằng chi tiêu
Định nghĩa chính xác của số nhân là:

Chúng ta sẽ minh chứng một số ví dụ của số nhân trên, nhưng
chúng ta cũng có thể chỉ ra nó bằng cách sử dụng Hình 9 dưới
đây (tương tự với Hình 8).
● Cân bằng ban đầu là điểm R0 cắt đường 450 tại Y*.
● Sự tăng lên chi tiêu đầu tư được biểu thị bởi DA > 0, làm dịch
chuyển hàm chi tiêu sang điểm E1.
● Chúng ta biết ràng một cân bằng mới diễn ra tại đường E1 cắt
đường 450, trong trường hợp này là tại Y1*.

● Như chúng ta đã nói ở trên, chi tiêu tăng thêm kéo theo một
mức sản lượng tăng thêm = thu nhập tăng thêm.
● Như đồ thị đã chỉ ra, thu nhập tăng thêm cuối cùng (bằng với
chi tiêu tăng thêm cuối cùng), phải lớn hơn sự tăng lên ban đầu
về đầu tư.
● Để cho dễ hiểu được, hãy nhớ lại rằng Y = C + I +G, điều này
hàm ý rằng DY = DC + DI (bởi vì DG = 0).
● Bởi vì DC phải lớn hơn không (> 0), do có sự tăng lên về thu
nhập, điều này hàm ý rằng DY lớn hơn DI, nhưng điều này cũng
tương đương với cách nói rằng số nhân (=DY/DI trong trường
hợp này) lớn hơn 1.
Công thức Số nhân
Chúng ta có thể suy ra một cách chính xác giá trị của số nhân
trong trường hợp này bằng cách áp dụng toán học.
● Trước đó, khi chúng ta tìm ra giá trị sau đầu cho GDP thực tế:
(16) Y
0
= .


● Trong trường hợp này chúng ta đang xem xét Hình 9, nguồn
gốc của cú sốc là sự thay đổi trong I0, với t0 và Gc không đổi.
● Do đó, chúng ta có I = I
0
+ DI.
● Hơn nữa, chúng ta có thể thấy rằng chúng ta có một mức mới
Y1 = Y0 +DY.
● Do đó chúng ta có thể viết biểu thức sau đây cho Y1:
(17) .
Đem so sánh biểu thức (17) với biểu thức (16), ta có:
, hay
, hay
(18) .
Từ công thức này chúng ta có thể suy ra số nhân đầu tư (k) bằng
cách chia hai vế cho DI:
(19)
Do đó chúng ta có thể thấy rằng giá trị của số nhân phụ thuộc vào
giá trị của khuynh hướng chi tiêu biên - thực tế, giá trị của xu
hướng tiêu dùng biên càng cao, thì số nhân càng lớn.
● Chúng ta có thể thấy điều này bằng việc nhìn vào ví dụ trên
đây, với MPC = 0.60.
● Trong trường hợp này, số nhân có thể được tính như sau:
.
● Giá trị này xác nhận lại giá trị mà chúng ta đã tìm ra ở trên.
● Chúng ta có thể lưu ý rằng nếu khuynh hướng tiêu dùng biên
cao lên, thì giá trị của số nhân cũng tăng lên.
● Ví dụ, với MPC bằng 0.75, chúng ta có số nhân là 4.0:
.
● Lý do của việc số nhân tăng lên là với một số nhân tăng lên, tại
cấp thứ hai và những cấp sau của quy trình số nhân, chúng ta có

mức giảm sút chi tiêu cao hơn, và do đó có DY cao hơn.
Nguyên nhân của Chu kỳ kinh tế
Số nhân có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào về sự vận
hành của chu kỳ kinh tế.
● Chu kỳ kinh doanh cho chúng ta thấy được những giai đoạn
tăng lên thay thế trong GDP thực tế và giảm GDP thực tế.
● Những thay đổi này bắt đầu bằng một đột biến, ví dụ như sự
suy thoái ở Hoa Kỳ làm giảm xuất khẩu của chúng ta và tổng chi
tiêu, hoặc một sự suy giảm trong niềm tin của người tiêu dùgn
trong tương lai làm giảm tiêu dùng hiện tại.
● Sự giảm xuống chi tiêu ban đầu dẫn đến một sự giảm xuống
lớn hơn trong GDP thực tế do hiệu ứng số nhân tiêu cực, làm
chúng ta bị suy giảm GDP thực tế và tăng thất nghiệp, khi các
doanh nghiệp cho công nhân nghỉ việc khi họ cắt giảm sản xuất.
● Cuối cùng, tại tận cùng của chu kỳ kinh tế chúng ta có được
một sự tăng lên về chi tiêu (điều này có thể do một chính sách
đặc biệt, mà chúng ta sẽ thấy) điều này dẫn đến thu nhập tăng
lên, và hiệu ứng số nhân tích cực dẫn đến tăng lên GDP thực tế
và giảm thất nghiệp, khi doanh nghiệp thuê thêm nhân công để
sản xuất thêm hàng hoá và dịch vụ đang có nhu cầu.
9) Số nhân Chính sách Tài chính.
Các số nhân giúp chúng ta giải thích cách thức một cú sốc
khuyếch trương hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế, nhưng nó
cũng giúp chúng ta tìm hiểu chính sách tài khoá được xây dựng
để ngăn cản những hiệu ứng tiêu cực này.
● Chúng ta sẽ tìm hiểu chính sách tài chính về chi tiết trong
chương 6, khi chúng ta đã xây dựng được mô hình đầy đủ ở phía
cầu.
● Tuy nhiên, chúng ta có thể nói tóm tắt các khái niệm ở đây.
Chính sách tài chính được thực hiện bởi chính phủ liên bang

hoặc một tỉnh nào đó trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giảm thất nghiệp và lạm phát.
● Nó liên quan đến những nỗ lực có mục đích để biến đổi chi tiêu
chính phủ và/hoặc thuế để cố gắng ổn định nền kinh tế.
● Điều này được thực hiện trong ngân sách tỉnh hoặc liên bang.
Ngân sách là báo cáo hàng năm về thu nhập và chi tiêu dự kiến
của chính phủ trong một năm tài khoá.
● Chính phủ sẽ có rất nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô (ví dụ, giúp đỡ
những nông dân, xây dựng thêm các con đường, tăng học bổng).
Họ cũng có mục tiêu kinh tế vĩ mô nhằm thúc đầy kinh tế tăng
trưởng và giảm thất nghiệp và việc làm.
● Những thay đổi trong chi tiêu chính phủ (G) sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến tổng chi tiêu ( hãy nhớ rằng EP = C + I +G). Do đó, nếu
chính phủ muốn tăng thu nhập trong nước và tăng việc làm, họ
có thể tăng mua sắm, và hiệu ứng số nhân có một tác động lớn
hơn đối với tổng GDP thực tế.
● Những thay đổi về thuế ảnh hưởng gián tiếp đến tổng chi tiêu.
Ví dụ, một sự cắt giảm thuế sẽ làm tăng thu nhập sau thuế của
người tiêu dùng, và sẽ làm tăng chi tiêu cho tiêu dùng nói chung
(cũng như làm tăng tiết kiệm), dẫn đến hiệu ứng số nhân của
GDP thực tế cao hơn và số lượng việc làm cũng lớn hơn.
● Chúng ta thường thấy những lời kêu gọi chính phủ tăng chi tiêu
để giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái.
Lập luận thuyết phục nhất về chính sách tài chính xuất phát từ
cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930.
● Trong Đại Khủng hoảng, thị trường chứng khoán sụp đổ dẫn
đến sự giảm sút khổng lồ trong chi tiêu đầu tư và chi tiêu cho tiêu
dùng, kết hợp với sự cắt giảm trong chi tiêu chính phủ và thương
mại quốc tế.
● Ở Canada, GDP thực tế giảm khoảng 30%, và thất nghiệp tăng

từ 2% lên đến khoảng 20%.
● Điều này tiếp tục diễn ra trên toàn thế giới cho đến cuối những
năm 1930.
● Tuy nhiên năm 1936, J. M. Keynes, trong cuốn sách của ông tự
đề Lý thuyết chung về Việc làm, Lãi suất, và Tiền tệ, lần đầu tiên
đưa ra ý tưởng về hệ số nhân mà chúng ta thấy ở đây.
● Sau đó, rất ngẫu nhiên, lý thuyết của ông ít nhiều đã được
chứng minh trong những năm 1940 khi có một sự tăng lớn trong
chi tiêu quốc phòng cho Thế chiến II dẫn đến sự tăng mạnh GDP
thực tế, và giảm mạnh thất nghiệp (thất nghiệp ở Canada giảm
xuống mức gần 2%).
Chúng ta hãy xem xét tại sao những thay đổi trong chi tiêu chính
phủ và thuế có thể thay đổi GDP thực tế, bằng cách trở lại với mô
hình chi tiêu của chúng ta.
● Chúng ta bây giờ đưa ra một công thức đầy đủ của hàm tiêu
dùng, với các khoản thuế dẫn dụ và tự định:
(7) C = a - bt0 + b(1-t)Y.
Thay thế biểu thức này vào mối quan hệ chi phí (E = C +I0 +G0):
(20) E = .
● Trong cân bằng: E = Y:
Y* = .
● Ta có Y*:
(21) Y* = .
● Nếu chúng ta cho thuế và/hoặc chi tiêu chính phủ thay đổi,[7]
chúng ta có thể thấy rằng:
(22) .
Chúng ta có thể sử dụng đẳng thức (22) để tính số nhân chính
sách tài chính sau đây:
● Số nhân mua sắm của chính phủ
(23) ,

Với b<1 và t<1. Ví dụ, nếu MPC = 0.8 và t =0.25, thì số nhân
bằng 2.5.
● Số nhân thuế tự định:
(24) ,
với 0 < b < 1 và t < 1. Ví dụ, nếu MPC = 0.8 và t =0.25, thì số
nhân này là -2.0 - giảm thuế làm tăng GDP thực tế.
Nghiên cứu tình huống: Đề xuất giảm thuế của "Đảng Cải
Cách"
Chính phủ liên bang sẽ đưa ra dự thảo ngân sách tài khoá trong
vài tuần nữa, và nhiều đảng phái và nhóm chính trị liên quan đã
đề xuất nhiều sự cắt giảm thuế khác nhau và tăng chi tiêu, căn cứ
trên mức hiện tại chính phủ sẽ có được sự thặng dư ngân sách
(thu thuế > chi tiêu dự kiến).
● Một bài báo đăng trên Globe and Mail nói tóm tắt về đề xuất
của Đảng Cải cách đối với vấn đề thuế đồng loạt.
● Chương trình này sẽ thay đổi cách thu thuế, và giảm mức thuế
thu (có lợi hơn cho những hộ gia đình có thu nhập cao).
● Như bài báo cho rằng, cũng như số nhân thuế tự định đã chỉ ra,
cắt giảm thuế sẽ thúc đẩy tổng chi tiêu, và tăng GDP thực tế
trong cân bằng.
● Những phân tích của chúng ta cung cấp căn cứ cơ ban để hiểu
được điều này.
● Tuy nhiên, chúng ta nên lưu ý rằng có rất nhiều sự phức tạp
chúng ta cần giải quyết trong những chương tiếp theo.
● Ví dụ như, tăng chi tiêu chính phủ có thể tăng tỷ lệ lãi suất và
cắt giảm chi tiêu tư nhân, và nó có thể tăng mức giá cả và tạo
nên áp lực lạm phát.
10) Thương mại quốc tế và số nhân
Trong câu chuyện của chúng ta, chúng ta đã bỏ qua yếu tố nước
ngoài.

● Bây giờ chúng ta có thể giải quyết bằng cách thêm vào chi tiêu
dự kiến, điều này độc lập với mức GDP thực tế ở Canada, mặc
dù có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác ở Hoa Kỳ và phần
còn lại của thế giới: EXP = EX0.
● Chúng ta cũng có thể đưa vào nhập khẩu dự kiến, điều này phụ
thuộc vào các yếu tố tự định như là giá trị của tỷ lệ hối đoái
(chương 7), nhưng lại phụ thuốc tỷ lệ thuận với mức thu nhập ở
Canada: IMP = IM0 +mY.
● Xu hướng nhập khẩu biên là m (0<m<1).
● Nếu chúng ta thêm vào những mối quan hệ này vào hàm tổng
chi tiêu dự kiến, chúng ta sẽ có:
(25) E = a - bt0 +(1-t)Y +I0 + G0 + EX0 - IM0 - mY.
● Nếu chúng ta cho E = Y, và tính cho Y*, chúng ta sẽ có giá trị
sau đây của GDP thực tế trong cân bằng:
(26) Y* =
● Chúng ta có thể thấy rằng GDP thực tế cân bằng bây giờ phụ
thuộc vào những cú sốc xuất khẩu và nhập khẩu, cũng như
những biến trước đó của chúng ta.
● Hơn nữa, chúng ta có thể thấy rằng những số nhân tương tự
nhau, ngoại trừ bây giờ chúng phụ thuộc vào xu hướng biên xuất
khẩu:
(23') ,
(24') ,
Lưu ý rằng giá trị của m càng lớn, thì giá trị của số nhân càng
nhỏ, điều này dẫn đến trường hợp mà chúng ta nghiên cứu.
Nghiên cứu tình huống: Số nhân Saskatchewan.
Câu chuyện báo chí năm 1995 trên tờ Lead-Post đã trình bày một
ví dụ hoàn hảo về quan điểm của hệ số nhân trong hoạt động, và
tầm quan trọng tiềm năng của chính phủ.
● Trong cuộc bầu cử năm 1995, Đảng Tự do lập luận rằng cắt

giảm thuế bán hàng $100 tỷ mỗi năm (t0 sẽ giảm) sẽ làm tăng chi
tiêu cho tiêu dùng, tạo thêm 50,00 việc là và tăng mức tăng
trưởng GDP thực tế lên đến 8% mỗi năm.
● Công ty tư vấn Infometrica làm một việc tương tự bằng cách sử
dụng một mô hình vĩ mô ở quy mô lớn (một phiên bản lớn hơn
mô hình mà chúng ta đang sử dụng), và phát hiện ra một tác
động rất nhỏ - nó sẽ tạo ra 414 việclàm, và tăng GDP thực tế lên
khoảng 0.5%.
● Tin xấu từ sự mâu thuẫn này đã góp phần làm mất đi cơ hội
thắng cử của đảng Tự do, và cuối cùng Haverstock lên làm lãnh
đạo.
Tại sao lại có sự khác biệt này trong ước tính?
● Đảng tự do đã làm công việc dự đoán, và không có ý tưởng
thực tế nào về số nhân hoạt động như thế nào.
● Nếu bạn đọc câu chuyện một cách kỹ càng, bạn sẽ thấy rằng
cắt giảm thuế bán hàng có ảnh hưởng lớn đến việc bán hàng của
những thứ có giá trị lớn như là ô tô hoặc thiết bị khác.
● Hầu hết những sản phẩm này được sản xuất ngoài tỉnh, do đó
ảnh hưởng nội bộ là nhỏ.
● Thực tế, Saskatchewan là một tỉnh nhỏ, có xu hướng nhập
khẩu biên cao, m cao.
● Những ước đoán của tôi là m khoảng trên 0.50 đối với
Saskatchewan, do đó số nhân rất nhỏ.
● Do đó, cắt giảm thuế có ảnh hưởng rất ít.
● Điều này chỉ ra rằng - bạn cần phải hiểu rõ nền kinh tế của
nước bạn?
11) Kết luận
Chúng ta đã phát triển được một mô hình cơ bản về tổng chi tiêu,
tập trung xung quanh một mô hình của hàm tiêu dùng.
● Chúng ta đã bắt đầu bằng cách giả định mức giá là cố định.

● Chúng ta đã sửdụng mô hình này để tìm ra mức cân bằng chi
tiêu và GDP thực tế, và tiếp đó lại sử dụng mô hình này để giải
thích điều gì xảy ra đối với phần chi tiêu của dòng luân chuyển
nếu có một cú sốc ngoại sinh đối với hệ thống.
● Hơn nữa, chúng ta đã sử dụng khái niệm về số nhân để giải
quyết vấn đề ảnh hưởng của các cú sốc ngoại sinh đối với chính
sách tài khoá lớn đến mức nào.
Tuy nhiên, mô hình của chúng ta vẫn còn rất đơn giản.
● Chúng ta có đầu tư ngoại sinh, xuất khẩu ngoại sinh.
● Chúng ta cần phát triển những quan hệ này, đặc biệt là tỷ lệ lãi
suất ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào.
● Bên cạnh đó, chúng ta cần tìm hiểu điều gì xảy ra một khi giá
cả tăng lên.
● Trong trường hợp này, tăng chi tiêu sẽ làm tăng mức giá của
nhiều loại hàng hoá nói chung, điều này lại dẫn đến cắt giảm tổng
lượng chi tiêu, dẫn đến hiệu ứng số nhân giảm đi ở khía cạnh
tăng GDP thực tế.

[1] Mọi dữ liệu bình quân dựa trên giá trị bình quân từ năm 1981-
1985, trích từ cơ sở dữ liệu CANSIM, Thống kê Canada, bảng
7416, trong khi mức độ thay đổi được tính từ bản 6840.
[2] Nếu bạn gặp khó khăn trong việc tìm hiểu đồ thị, bạn có thể
tham khảo "Các kỹ năng Toán học để Tìm hiểu Kinh tế học: Giới
thiệu về Đồ thị", một tài liệu về đồ thị và kinh tế học, bạn có thể
xem tại
[3] Lưu ý rằng chúng ta có thể biểu diễn một cách tổng quát biểu
thức (4) từ biểu thức (2) với lưu ý rằng:
S = YD - C; S = YD - C = YD - (a+bYD) = -a + (1-b)YD.
[4] Trích từ "Thời đại sống trên vay mượn" Báo Nhà kinh tế học,
ngày 6, tháng Mười một, 1999.

[5] Trích từ Thống kê Canada. The Daily.
[6] Bạn hãy thử tính, nếu không tin vào tôi - hãy duy trì việc tính
sách giá trị, thêm chúng vào, và bạn sẽ thấy kết quả là 2.50.
[7] Thay vào đó, chúng ta có thể sử dụng phương pháp tích phân
trực tiếp đối với biểu thức (21)


×