Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tổng Kết Hợp Về Thời Gian-PHẦN 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.8 KB, 20 trang )

Tổng Kết Hợp Về Thời Gian-PHẦN 2
Nếu các thế hệ tương lai là "một hàng hoá công cộng", thì những thị
trường tư nhân sẽ cung cấp hàng hoá đó không đủ. (TQ hiệu đính: thế hệ
tương lai không chỉ con ruột của mình, mà là tất cả mọi người đồng lứa
tuổi con của mình. Bao nhiêu người trong chúng ta lo cho con nhà hàng
xóm).
1. Những thị trường vốn có hoàn hảo không? Nghĩa là, PRTP=i=POCR
hay không?
Có thể ở những thành phố lớn có nhiều khoản tiền lớn, nhưng không phải
ở những thị trường có số lượng hạn chế những phương tiện tài chính hay
ngân hàng.
Những người tiêu dùng tiết kiệm được thêm nhiều tiền cho đến khi tỷ lệ
ưu tiên thời gian của họ bằng với tỷ lệ lãi suất họ có thể kiếm được từ
các khoản tiền tiết kiệm của mình (PRTP=i
tiền tiết kiệm
) trong khi đó các thể
chế tài chính tiến hành cho vay bổ sung cho đến khi chi phí cơ hội của họ
bằng với lợi nhuận họ thu lại được từ các khoản cho vay đó (POCR=i
khoản
cho vay
).
Nếu i
tiền tiết kiệm
= i
khoản cho vay
thì tính hiệu dụng năng động có giá trị. Điều này
không đúng, nhưng đối với hầu hết người dân ở Mỹ và ở một số nước phát
triển khác, điều này có thể gần sát. Đối với những người sống ở các thị
trấn hay các nước nhỏ không có các thể chế tài chính vững chắc, đó có
thể không phải là một phép xấp xỉ hợp lý. Nghĩa là, tỷ lệ lãi suất áp cho các
khoản vay có thể cao hơn nhiều tỷ lệ lãi suất mọi người nhận được từ tiền


tiết kiệm của mình.
Trên thực tế, đối với các thể chế tài chính đang hoạt động, có thể đúng là
POCR=i
khoản cho vay
> PRTP=i
tiền tiết kiệm
.
(TQ hiệu đính: vì các thể chế tài chánh và ngân hàng kiếm lời,tỷ lệ lợi
nhuận cho vay lớn hơn tỷ lệ tiền tiết kiệm họ phải trả cho bà con. Trong
những thành phố có nhiều thể chế tài chánh cạnh tranh, thì hai tỷ lệ này sai
biệt rất ít, như 6.5% và 5.7%. Còn ở những thị trấn nhỏ, tỷ lệ mượn nợ thì
cao, trong khi tỷ lệ tiền tiết kiệm thì quá thấy, hay không đáng kể).
2. SRTP=PRTP hay không?
Có thể không. Nhìn chung, người ta cho rằng SRTP < PRTP
Chúng ta không quan tâm đúng mức đến các thế hệ tương lai.
Mọi người đều cận thị, thiếu kiên nhẫn một cách vô lý.
Nếu các thế hệ tương lai là "một hàng hoá công cộng", thì những thị
trường tư nhân sẽ cung cấp hàng hoá đó không đủ. (TQ hiệu đính: thế hệ
tương lai không chỉ con ruột của mình, mà là tất cả mọi người đồng lứa
tuổi con của mình. Bao nhiêu người trong chúng ta lo cho con nhà hàng
xóm).
3. POCR=SOCR hay không?
Không nếu có thuế đánh vào lợi nhuận biên thu từ được việc bán các
khoản đầu tư hay tài sản. POCR là tỷ lệ sau thuế trong khi SOCR là tỷ lệ
trước thuế, hay
POCR = (1-t)SOCR
Do đó POCR < SOCR
Kết quả của tất cả những điều này là chúng ta có thể kết luận rằng:
SRTP < PRTP < POCR < SOCR
Do vậy, vì SRTP nhỏ hơn SOCR, chúng ta có thể đang đầu tư/tiết kiệm

quá ít.
Nếu bạn, vì một lý do nào đó, có tất cả những con số này, thì SRTP là tỷ lệ
nên được áp dụng để chiết khấu lợi nhuận ròng từ một dự án.
(TQ hiệu đính: PRTP là Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Cá Nhân, và thường thì
tỷ lệ này nhỏ hơn Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội ~ SOCR)
Nói chung, các tỷ lệ lãi suất thị trường (mà có thể bằng với các tỷ lệ chi phí
cơ hội cá nhân) sẽ quá cao. Điều này có nghĩa là các tỷ lệ đó sẽ chiết khấu
tương lai quá nhiều, hoặc gắn giá trị quá thấp cho các chi phí và lợi nhuận
tương lai.
Các Thất Bại của Thị Trường Ngăn Cản Tính Hiệu Dụng Năng Động
Một loạt các thất bại của thị trường được chỉ rõ để phân biệt giữa hai tỷ lệ
lãi suất dễ thấy, POCR và PRTP cũng như giữa hai tỷ lệ khó nhận thấy
hơn nhưng lại tồn tại về mặt lý thuyết là SRTP và SOCR. Trong số những
thất bại của thị trường này bao gồm:
1. Thuế đánh vào thu nhập doanh nghiệp
Thuế đánh vào thu nhập doanh nghiệp làm giảm mức lợi nhuận mà những
cá nhân đi vay có thể hoàn trả cho những nhà đầu tư của họ từ (như trình
bày trong Hình 10.3) r
z
xuống i.
2. Thuế đánh vào thu nhập từ tiền lãi hay đầu tư
Thuế đánh vào thu nhập từ tiền lãi hay đầu tư làm giảm lợi nhuận sau thuế
của các cá nhân thu được từ tiền tiết kiệm của họ từ i (là mức mà người đi
vay đã trả sau khi đã đóng thuế cho lợi nhuận của mình) xuống (như trình
bày trong Hinh 10.3) p
z
.
3. Thiếu sự tham gia của các thế hệ tương lai
Do các thế hệ tương lai vẫn chưa thực sự bày tỏ bất kỳ quan điểm nào,
nên chúng ta không biết chúng muốn chúng ta đánh giá như thế nào mức

tiêu dùng của chúng tương ứng với mức tiêu dùng của chúng ta. Nếu
chúng muốn mức tiêu dùng của mình được đánh giá nhiều hơn mức hiện
nay chúng ta đang làm, thì tác động sẽ là làm cho đường cong đẳng dụng
xã hội thẳng hơn, làm cho điểm tối ưu không phải là X mà là điểm gì đó
giống Y hơn.

4. Rủi Ro và Tính Bấp Bênh
Các dự án tư nhân phải hoàn trả lại một tỷ lệ phần trăm hơi cao hơn một
chút cho các nhà đầu tư của mình do một thực tế là có những rủi ro liên
quan đến mỗi dự án. Xét từ góc độ xã hội, có một số lượng đủ lớn những
dự án đầu tư tiềm năng đối với rủi ro tránh được hoàn toàn.
Để xem xét kỹ hơn các vấn đề tỷ lệ lãi suất, hãy xem xét biểu đồ dưới đây
được trình bày lại từ sách của Boardman et al. Cung và cầu ban đầu là D
0

và S
0
, và chúng bị giảm xuống là D
I
và S
S
do thuế đánh vào lợi nhuận
doanh nghiệp và thu nhập tiền lãi. Tại điểm cân bằng mới, tỷ suất lợi
nhuận từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp là r
z
trong khi tỷ lệ mà các hộ
gia đình nhận được từ tiền tiết kiệm là p
z
.
Một dự án của chính phủ cần khoản vay rất lớn sẽ làm tăng nhu cầu về tín

dụng tới mức D
I
' đồng thời kéo theo làm tăng tổng số tiền tín dụng trên thị
trường. Cho vay chính phủ được cấu thành bởi mức tăng về tiết kiệm của
các hộ gia đình (tương đương với mức giảm về tiết kiệm của các hộ gia
đình) và mức giảm về đầu tư tư nhân. Mức tăng của tiết kiệm hộ gia đình
được định giá theo đường cong cung, S
0
, trong khi mức giảm về đầu tư tư
nhân được định giá theo tỷ lệ chi phí cơ hội cá nhân, r
z
.

Năm Giải Pháp Đề Xuất
Có năm giải pháp đối với các vấn đề nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu nào
được đề xuất trong phần văn bản:
1. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận trước thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (r
z
)
• Nếu chính phủ dự định sắp huy động tiền cho một dự án, thì dự án đó
nên làm tốt ít nhất cũng bằng mức mà một dự án đầu tư khu vực tư nhân
sẽ làm.
• Các tỷ lệ tư nhân bao gồm phí bảo hiểm rủi ro có thể không thích hợp
trong bối cảnh khu vực công cộng với số lượng đủ lớn các dự án có thể
• Tỷ lệ hiệu dụng ở đây là khoảng 8%
2. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận sau thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (p
z
)
• Đây là tỷ lệ mà tại đó các cá nhân thoả hiệp đổi cái này lấy cái kia giữa
mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai, do đó có thể đó cũng là

một tỷ lệ xã hội thích hợp.
• Tỷ lệ này khiến người ta hơi khó hiểu một chút do các cá nhân thực tế
phải đối mặt với hàng loạt các tỷ lệ lãi suất sau thuế.
• Các cá nhân hiện nay đang sống có thể không chú trọng nhiều lắm về
phúc lợi của các thế hệ tương lai
• Tỷ lệ hiệu dụng ở đây là khoảng 2%, mặc dù muốn phân tích độ nhạy tốt
sẽ cần phải cân nhắc các tỷ lệ từ 0% đến 4%.
3. Sử dụng tổ hợp r
z
, p
z
và tỷ lệ vay dài hạn i của chính phủ (khoảng 4%)
trong đó mức giảm về đầu tư được chiết khấu với tỷ lệ cao nhất là r
z

mức giảm về tiêu dùng được chiết khấu với tỷ lệ thấp hơn là p
z
.
• Tổ hợp này thật thú vị, nhưng có thể quá phức tạp để áp dụng thực sự
4. Sử dụng giá bóng của vốn
• Giá bóng của vốn[3] là giá trị của một đơn vị đầu tư vốn. Việc này mang
lại một dòng lợi nhuận r
z
lợi tức hưởng suốt đời mà giá trị hiện tại của nó,
được chiết khấu với tỷ lệ p
z
chính là giá bóng của vốn,

• Đây có vẻ gì đó là một phiên bản đơn giản hoá của giá bóng của vốn, và
cuốn sách kết thúc bằng việc gợi ý một giá trị bằng khoảng 2.

• Về cơ bản, để sử dụng giá này, hãy nhân các mức thay đổi của đầu tư
khu vực tư nhân phát sinh bởi dự án với giá bóng của vốn, cộng với các
mức thay đổi của tiêu dùng cá nhân và sau đó tính chiết khấu áp dụng tỷ lệ
p
z
.
• Một lần nữa, giá này thực sự quá phức tạp để áp dụng.
5. Sử dụng các tỷ lệ chiết khấu theo thời gian giảm dần
• Đây là một gợi ý khá thực tế. Về cơ bản, bạn nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu
thấp hơn (có thể bằng 0 hoặc thậm chí âm) để tính chiết khấu các năm xa
nữa trong tương lai.
• Điều này cho phép bạn tránh được những kết quả lúng túng như một giá
trị hiện tại tương đối nhỏ gắn với sự huỷ diệt của thế giới sau này, ví dụ là
500 năm (ở mức 2%, hệ số chiết khấu là 1.02
-500
=0.00005).
• Weitzman tìm thấy thang đối chiếu của
4% cho các năm từ 1 đến 5
3% cho các năm từ 6 đến 25
2% cho các năm từ 26 đến 75
1% cho các năm từ 76 đến 200
0% cho các năm từ 200 trở lên
Thực Tế
Trong thực tế, nếu bạn tiến hành các nghiên cứu chi phí - lợi nhuận trong
một thế giới thực, có thể bạn sẽ được cho một tỷ lệ chiết khấu để áp dụng
mà có thể có hoặc không có ý nghĩa gì cả. Dự án bạn đang phân tích có
thể quá tốt hoặc quá tồi đến mức mà tỷ lệ áp dụng để tính chiết khấu các
chi phí và lợi nhuận tương lai có thể không tạo nên bất kỳ sự khác biệt nào
cả.
Nếu là như vậy, việc thử hàng loạt các tỷ lệ và báo cáo các kết quả thu

được của bạn cho tất cả sẽ giúp bất kỳ ai đọc báo cáo của bạn có ý niệm
về các kết quả quả của bạn nhạy cảm như thế nào đối với các thay đổi về
tỷ lệ chiết khấu được áp dụng. Đây cũng là một cách tốt để đánh giá tác
giả của báo cáo có trách nhiệm đến mức nào.
Cuối cùng, cách đây một trăm năm, nhiều người dân ở nước Mỹ phải sống
trong những căn nhà với sàn nhà bẩn thỉu và không có hệ thống ống nước
trong nhà. Cách đây năm trăm năm, điều kiện sống thậm chí còn tồi tệ hơn
thế nhiều. Nếu các bậc tiền bối tổ tiên của chúng ta có cơ hội làm cho cuộc
sống dễ chịu hơn một chút nào đó so với chúng ta, và nếu tôi, với tư cách
là một người dân thuộc về tương lai đầu thế kỷ 21 có điều gì để nói về điều
đó, tôi sẽ khuyến khích họ tiến lên và thực hiện ngay cơ hội này. (TQ hiệu
đính, chúng ta là thế hệ tương lai của các vị tiền bối, và đời sống của các
vị tiền bối 100 trước rất là khó khăn, chúng ta không có quyền đòi hỏi các
vị tiền bối phải nghĩ cho thế hệ tương lai là chúng ta. Vậy thế hệ tương lai
của chúng ta là bậc con cháu chúng ta, có quyền đòi hỏi chúng ta hy sinh
hay không???)
Các Kiểu PCC Khác Nhau
Phương thức đúng đắn để xác định xem nếu một dự án đáng để thực hiện
là hãy nhìn vào Giá Trị Ròng Hiện Tại NPV. Nếu bạn phải lựa chọn giữa
hai hoặc nhiều hơn các dự án độc quyền lẫn nhau, thì hãy lựa chọn dự án
có NPV cao nhất.
Tuy nhiên cũng có những chỉ số khác. Đó là tỷ lệ chi phí/ lợi nhuận và tỷ
suất lợi nhuận nội hoàn.
Tỷ Lệ Chi Phí/ Lợi Nhuận (B/C):
Đây là giá trị hiện tại của lợi nhuận chia cho giá trị hiện tại của chi phí. Nếu
B/C > 1, thì dự án nên được thực hiện.
Tỷ Suất Lợi Nhuận Nội Hoàn (Internal Rate of Return ~ IRR):
Đây là tỷ lệ lãi suất mà khiến cho NPV=0. Tỷ suất lợi nhuận nội hoàn được
so sánh với tỷ lệ tới hạn i. Nếu IRR > i, thì dự án nên được thực hiện.
Trong khi NPV luôn cho những câu trả lời đúng, thì B/C và IRR lại không

như vậy.
B/C sẽ xác định chính xác các dự án đáng để thực hiện, nhưng IRR sẽ chỉ
làm được điều này nếu dòng lợi nhuận ròng là thông thường, nghĩa là nếu
lợi nhuận ròng bắt đầu âm và sau đó chuyển sang dương và giữ ở mức
dương.
Cả B/C và IRR sẽ không cần thiết phải lựa chọn chính xác trong số một vài
các dự án độc quyền lẫn nhau.
Các Vấn Đề Với B/C
1. Có thể được vận dụng bằng cách thay đổi các phân loại chi phí và lợi
nhuận. Hơi ngẫu nhiên khi coi một thứ gì đó là chi phí dương hoặc lợi
nhuận âm và ngược lại. Việc thay đổi này sẽ làm thay đổi B/C đã tính toán,
nhưng sẽ không ảnh hưởng tới quyết định về việc liệu dự án có đáng để
thực hiện hay không. Điều này sẽ chỉ làm thay đổi các so sánh giữa các dự
án.
2. Quy mô tỷ lệ bị bỏ qua khi tính toán B/C, vì vậy bạn không thể nói gì nếu
bạn đang tìm kiếm một dự án lớn hay một dự án nhỏ.
VD:
Đập Nước Nhỏ

Đập Nước Lớn

Mức Nước Gia Tăng

Lợi nhuận (B)

1500 6500 5000
Chi phí (C) 1000 5000 4000
B-C 500 1500*
B/C 1.5* 1.3
Đập Nước Nhỏ có tỷ lệ chi phí/lợi nhuận cao hơn, nhưng Đập Nước Lớn

lại có giá trị hiện tại ròng lớn hơn.
Cách B/C sẽ lựa chọn Đập Nước Nhỏ, mặc dù nó tạo ra tỷ lệ lợi nhuận
ròng nhiều hơn và là dự án đáng thực hiện hơn.
Tại sao B/C được áp dụng thường xuyên như vậy?
1. Nó có thể giúp bạn có khái niệm hiểu về biên sai số (margin error) có ý
nghĩa quan trọng đối với quyết định
Dự án 1

Dự án 2
Lợi nhuận 2 1,000,000,002

Chi phí 1 1,000,000,000

Giá trị Hiện tại Ròng

1 2
B/C 2 1.000000002
Vì vậy B/C đem lại cho bạn cảm nhận về ý nghĩa quan trọng của biên sai
số. Một biên sai số nhỏ trong Dự án 2 (chi phí cao hơn một chút hoặc lợi
nhuận nhỏ hơn một chút) có thể khiến nó là một dự án tồi.
2. Đồng thời, các kỹ sư thích những con số phi đo lường và B/C không sự
đo lường. Nó không được thể hiện bằng đồng đôla hay bảng Anh hay bất
kỳ cái gì tương tự. Nó đơn giản chỉ là một con số thô.
Tỷ Suất Lợi Nhuận Nội Hoàn
IRR là tỷ lệ chiết khấu mà làm cho Giá trị Hiện tại Ròng NPV = 0
VD: Hãy tìm giá trị r.

r = 0.16 (xấp xỉ)
Một công cụ hữu ích nên sử dụng để làm bài toán dạng này là chọn
Microsoft Excel's Tools/GoalSeek.

Các Vấn Đề Với IRR
1. Sẽ chỉ xác định liệu một dự án có đáng để thực hiện nếu dòng lợi nhuận
ròng là thông thường truyền thống.
VD: Hãy xem xét một dự án tạo ra lợi nhuận ngay bây giờ và phát sinh ra
chi phí về sau này.
Lợi nhuận Ròng trong Năm 0 = 1000, Lợi nhuận Ròng trong Năm 1 = -
1100.
IRR = 10%
Nếu IRR > i thì đây là dự án nên được thực hiện
Nếu i=0.01 (1%) Giá trị Hiện tại Ròng NPV là âm, thâm chí dù IRR > i.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, IRR lớn hơn i=0.01 và do vậy, nó cho kết
quả sai.
2. Nó không có quy mô tỷ lệ. Nó không cho phép bạn nói bất kỳ điều gì về
dự án lớn đến mức nào.
3. IRR có thể cho nhiều hơn một kết quả nếu dòng lợi nhuận là không
thông thường
VD:
Năm 0 1

2
Lợi nhuận ròng

-1

5

-6


hàm ý rằng hoặc r=1.00 hoặc r=2.00.

4. Khi lựa chọn giữa hai dự án, IRR thậm chí không cho bạn kết quả đúng.
Hãy xem xét hai dự án độc quyền lẫn nhau, A và B. Mỗi dự án có một số
chi phí ban đầu và lợi nhuận tương lai, và kết quả là, Giá Trị Hiện Tại Ròng
NPV của mỗi dự án này sẽ giảm khi tỷ lệ chiết khấu áp dụng tăng.
Chúng ta có thể tưởng tượng biểu đồ NPV của hai dự án này được biểu
diễn như một hàm tỷ lệ chiết khấu áp dụng:



Việc IRR của dự án A nhỏ hơn IRR của dự án B là không liên quan. Dự án
nào được ưu đãi hơn tuỳ thuộc vào tỷ lệ lãi suất áp dụng để tính toán NPV.
Với các tỷ lệ thấp hơn, dự án A là tốt hơn trong khi với các tỷ lệ cao hơn thì
dự án B là tốt hơn.
Xem Xét Các Loại Lợi Nhuận
Một xem xét bổ sung là, nếu tính hiệu dụng năng động không đạt được, thì
giá trị biên mức tiêu dùng của xã hội có thể nhỏ hơn giá trị biên mức đầu
tư. Về bản chất, nếu có ý kiến mạnh mẽ rằng chi phí hay lợi nhuận có thể
bị lệch so với mức tiêu dùng hay mức đầu tư, thì đáng để đo những giá trị
này khác nhau và thay đổi trong tính toán Giá Trị Hiện Tại Ròng NPV.
Ví dụ, nếu người ta cho rằng mức đầu tư bổ sung có giá trị 20% nhiều hơn
mức tiêu dùng bổ sung, thì bất kỳ lợi nhuận hay chi phí nào làm tăng hoặc
giảm mức đầu tư sẽ được đo là 20% nặng hơn so với những lợi nhuận hay
chi phí làm ảnh hưởng đến mức tiêu dùng.
Câu hỏi: Phương trình 6A.7 (trang 147) cho rằng, "Nếu lợi nhuận ban đầu
B
1
tăng vô hạn định với một tỷ lệ cố định g và nếu tỷ lệ lãi suất bằng i, thì
PV (giá trị hiện tại) được tính bằng … ":

if i>g

Giá trị hiện tại là bao nhiêu nếu i < g ?
Tính Trung Bình Hàng Năm[4]
Một phương án thay thế để tính toán giá trị hiện tại ròng của một dự án là
tính toán lợi nhuận ròng trung bình hàng năm. Bí quyết của việc này là tìm
hiểu luận ra cách phân bổ như thế nào các chi phí ban đầu (chi phí khởi
động hay chi phí ban đầu để thi công một dự án) qua một số năm. Cách
làm này cũng tương tự như cách tìm giá trị hiện tại, nhưng có một vấn đề
cố hữu về độ dài thời gian mà qua đó các chi phí khởi động sẽ được tính
theo hàng năm. Nếu bạn có thể sử dụng đầu vào ban đầu trong thời gian
càng dài, thì giá trị hiện tại ròng của dự án có thể càng cao
Tính trung bình theo hàng năm cũng được áp dụng rất nhiều trong trường
hợp các chi phí của dự án biến đổi qua một năm. Nếu mỗi năm dự án cần
thiết phải thực hiện lại dự án, thì đơn giản chỉ cần nhìn vào chi phí và lợi
nhuận trong một năm là cách tiếp cận hợp lý có cơ sở để phân tích dự án.



×