Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Ổ đĩa cứng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.04 KB, 27 trang )

ổ đĩa cứng (Hard Disk Drive : HDD )
HDD là thiết bị chứa chương trình để giúp máy vi tính hoạt động và lưu dữ
liệu của người sử dụng. HDD có nhiều chuẩn, loại, dung lượng Một máy
vi tính có thể gắn nhiều HDD, số lượng tùy theo số đầu cắm trên
Mainboard cho phép.
Lịch sử phát triển
Năm 1956, ổ đĩa cứng (HDD) đầu tiên trên thế giới có tên là IBM 350 do
Reynold Johnson thiết kế. Ổ này có tới 50 tấm đĩa kích thước 24 inch với
tổng dung lượng là 5 triệu ký tự 7-bit (tương đương 4,4MB). Do sử dụng
duy nhất một đầu từ để truy nhập tất cả các tấm đĩa, tốc độ truy nhập
trung bình khá thấp.
Năm 1961, ổ HDD IBM 1301 ra mắt và bắt đầu sử dụng một đầu từ cho
mỗi mặt đĩa. Ổ HDD đầu tiên có bộ phận lưu trữ tháo lắp được là IBM
1311 ra đời năm 1962. Ổ này sử dụng đĩa IBM 1316 có dung lượng 2 triệu
ký tự.
Năm 1973, IBM giới thiệu hệ thống đĩa 3340 Winchester. Đây là ổ HDD
đầu tiên sử dụng kỹ thuật lắp ráp đóng hộp. Ổ HDD này ban đầu có tên
“nội bộ” là “30-30” vì sử dụng 2 module 30MB có thể tháo được. Sau đó,
nó đã được kỹ sư trưởng dự án Kenneth Haughton đặt tên chính thức
theo tên của loại súng trường Winchester 30-30 nổi tiếng thời đó. Cũng từ
đây xuất hiện công nghệ Winchester mà sau đó trở thành một thiết kế
chuẩn cho các nhà chế tạo HDD. Đây là công nghệ cho phép đầu từ có
thể hạ xuống và nhấc lên khỏi phiến đĩa khi ổ đĩa quay.
Ban đầu, do có kích thước lớn và cồng kềnh cũng như tiêu thụ lượng điện
năng rất lớn nên HDD chỉ thích hợp với môi trường của các trung tâm dữ
liệu, không phù hợp với văn phòng nhỏ hoặc nhà riêng. Trước thập niên
1980, hầu hết ổ HDD có các tấm đĩa cỡ 8 inch (20cm)
hoặc 14 inch (35cm), cần một diện tích sàn chứa đáng
kể. Trong nhiều trường hợp, chúng cần tới điện cao áp
hoặc thậm chí điện ba pha cho những môtơ lớn mà
chúng dùng. Mãi đến tận năm 1980, khi Seagate


Technology cho ra đời HDD ST-506 - ổ đĩa 5,25 inch
đầu tiên có dung lượng 5MB, HDD mới bắt đầu được
ứng dụng vào máy PC.
Thập niên 1990
Đa số các ổ đĩa cứng cho máy vi tính đầu thập kỷ 1980 không bán trực
tiếp cho người dùng cuối bởi nhà sản xuất mà bởi các OEM như một phần
của thiết bị lớn hơn (như Corvus Disk System và Apple ProFile). Chiếc
IBM PC/XT được bán ra đã có một ổ đĩa cứng lắp trong nhưng xu hướng
tự cài đặt nâng cấp bắt đầu xuất hiện. Các công ty chế tạo ổ đĩa cứng bắt
đầu tiếp thị với người dùng cuối bên cạnh OEM và đến giữa thập niên
1990, ổ đĩa cứng bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng bán lẻ.
Ổ đĩa lắp trong ngày càng được sử dụng nhiều trong PC trong khi các ổ
đĩa lắp ngoài tiếp tục phổ biến trên máy Macintosh của hãng Apple và các
nền tảng khác. Mỗi máy Mac sản xuất giữa giữa các năm 1986 và 1998
đều có một cổng SCSI phía sau khiến cho việc lắp đặt thêm phần cứng
mới trở nên dễ dạng; tương tự như vậy, "toaster" (máy nướng bánh) Mac
không có chỗ cho ổ đĩa cứng (hay trong Mac Plus không có chỗ lắp ổ đĩa
cứng), các đời tiếp theo cũng vậy thế nên ổ SCSI lắp ngoài là có thể hiểu
được. Các ổ đĩa SCSI lắp ngoài cũng phổ biến trong các máy vi tính cổ
như loạt Apple II và Commodore 64, và cũng được sử dụng rộng rãi trong
máy chủ cho đến tận ngày nay. Sự xuất hiện vào cuối thập niên 1990 của
các chuẩn giao tiếp ngoài như USB và FireWire khiến cho ổ đĩa cứng lắp
ngoài trở nên phổ biến hơn trong người dùng thông thường đặc biệt đối
với những ai cần di chuyển một khối lượng lớn dữ liệu giữa hai địa điểm.
Vì thế, phần lớn các ổ đĩa cứng sản xuất ra đều có trở thành lõi của các vỏ
lắp ngoài.
Ngày nay
Dung lượng ổ đĩa cứng tăng trưởng
theo hàm mũ với thời gian. Đối với
những máy PC thế hệ đầu, ổ đĩa

dung lượng 20 megabyte được coi là
lớn. Cuối thập niên 1990 đã có những
ổ đĩa cứng với dung lượng trên 1
gigabyte. Vào thời điểm đầu năm
2005, ổ đĩa cứng có dung lượng
khiêm tốn nhất cho máy tính để bàn
còn được sản xuất có dung lượng lên
tới 40 gigabyte còn ổ đĩa lắp trong có dung lượng lớn nhất lên tới một nửa
terabyte (500 GB), và những ổ đĩa lắp ngoài đạt xấp xỉ một terabyte. Cùng
với lịch sử phát triển của PC, các họ ổ đĩa cứng lớn là MFM, RLL, ESDI,
SCSI, IDE và EIDE, và mới nhất là SATA. Ổ đĩa MFM đòi hỏi mạch điều
khiển phải tương thích với phần điện trên ổ đĩa cứng hay nói cách khác là
ổ đĩa và mạch điều khiền phải tương thích. RLL (Run Length Limited) là
một phương pháp mã hóa bit trên các tấm đĩa giúp làm tăng mật độ bit.
Phần lớn các ổ đĩa RLL cần phải tương thích với bộ điều khiển nó làm việc
với. ESDI là một giao diện được phát triển bởi Maxtor làm tăng tốc trao đổi
thông tin giữa PC và đĩa cứng. SCSI (tên cũ là SASI dành cho Shugart
(sic) Associates), viết tắt cho Small Computer System Interface, là đối thủ
cạnh tranh ban đầu của ESDI. Khi giá linh kiện điện tử giảm (do nhu cầu
tăng lên) các chi tiết điện tử trước kia đặt trên cạc điều khiển đã được đặt
lên trên chính ổ đĩa cứng. Cải tiến này được gọi là ổ đĩa cứng tích hợp linh
kiện điện tử (Integrated Drive Electronics hay IDE). Các nhà sản xuất IDE
mong muốn tốc độ của IDE tiếp cận tới tốc độ của SCSI. Các ổ đĩa IDE
chậm hơn do không có bộ nhớ đệm lớn như các ổ đĩa SCSI và không có
khả năng ghi trực tiếp lên RAM. Các công ty chế tạo IDE đã cố gắng khắc
phục khoảng cách tốc độ này bằng phương pháp đánh địa chỉ logic khối
(Logical Block Addressing - LBA). Các ổ đĩa này được gọi là EIDE. Cùng
lúc với sự ra đời của EIDE, các nhà sản xuất SCSI đã tiếp tục cải tiến tốc
độ SCSI. Những cải tiến đó đồng thời khiến cho giá thành của giao tiếp
SCSI cao thêm. Để có thể vừa nâng cao hiệu suất của EIDE vừa không

làm tăng chi phí cho các linh kiện điện tử không có cách nào khác là phải
thay giao diện kiểu "song song" bằng kiểu "nối tiếp", và kết quả là sự ra
đời của giao diện SATA. Tuy nhiên, hiệu suất làm việc của các ổ đĩa cứng
SATA thế hệ đầu và các ổ đĩa PATA không có sự khác biệt đáng kể.
Phân loại:
 ổ đĩa cứng gắn trong máy tính.
 ổ đĩa cứng gắn ngoài máy tính:
HDD Mobil Rack
° Là một hộp chứa đĩa cứng di dộng.
Phần khung được gắn vào thùng máy như một
ổ đĩa CD-ROM thông thường nhưng phần ruột
là một hộp chứa đĩa cứng có tay cầm phía trước.
External HDD
° Size-Là ổ đĩa cứng
được gắn bên ngoài thùng máy
tính. Đĩa cứng được để trong một
hộp gọi là External HDD box (hộp chứa đĩa
cứng gắn ngoài) - là hộp cho phép gắn đĩa
cứng dạng IDE/SCSI, có đầu nối dây nguồn
AC và có cổng nối cáp vào cổng LPT (giao
diện song song) hoặc SCSI (giao diện SCSI) của máy tính.
Cấu tạo
Ổ đĩa cứng gồm các thành phần, bộ phận có thể liệt kê cơ bản và giải
thích sơ bộ như sau:
Cụm đĩa: Bao gồm toàn bộ các đĩa, trục quay và động cơ.
• Đĩa từ.
• Trục quay: truyền chuyển động của đĩa từ.
• Động cơ: Được gắn đồng trục với trục quay và các đĩa.
Cụm đầu đọc
• Đầu đọc (head): Đầu đọc/ghi dữ liệu

• Cần di chuyển đầu đọc (head arm hoặc actuator arm).
Cụm mạch điện
• Mạch điều khiển: có nhiệm vụ điều khiển động cơ đồng trục, điều
khiển sự di chuyển của cần di chuyển đầu đọc để đảm bảo đến
đúng vị trí trên bề mặt đĩa.
• Mạch xử lý dữ liệu: dùng để xử lý những dữ liệu đọc/ghi của ổ đĩa
cứng.
• Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer): là nơi tạm lưu dữ liệu trong quá
trình đọc/ghi dữ liệu. Dữ liệu trên bộ nhớ đệm sẽ mất đi khi ổ đĩa
cứng ngừng được cấp điện.
• Đầu cắm nguồn cung cấp điện cho ổ đĩa cứng.
• Đầu kết nối giao tiếp với máy tính.
• Các cầu đấu thiết đặt (tạm dịch từ jumper) thiết đặt chế độ làm việc
của ổ đĩa cứng: Lựa chọn chế độ làm việc của ổ đĩa cứng (SATA
150 hoặc SATA 300) hay thứ tự trên các kênh trên giao tiếp IDE
(master hay slave hoặc tự lựa chọn), lựa chọn các thông số làm việc
khác
Vỏ đĩa cứng:
Vỏ ổ đĩa cứng gồm các phần: Phần đế chứa các linh kiện gắn trên
nó, phần nắp đậy lại để bảo vệ các linh kiện bên trong.
Vỏ ổ đĩa cứng có chức năng chính nhằm định vị các linh kiện và
đảm bảo độ kín khít để không cho phép bụi được lọt vào bên trong
của ổ đĩa cứng.
Ngoài ra, vỏ đĩa cứng còn có tác dụng chịu đựng sự va chạm (ở
mức độ thấp) để bảo vệ ổ đĩa cứng.
Do đầu từ chuyển động rất sát mặt đĩa nên nếu có bụi lọt vào trong
ổ đĩa cứng cũng có thể làm xước bề mặt, mất lớp từ và hư hỏng
từng phần (xuất hiện các khối hư hỏng (bad block)) Thành phần
bên trong của ổ đĩa cứng là không khí có độ sạch cao, để đảm bảo
áp suất cân bằng giữa môi trường bên trong và bên ngoài, trên vỏ

bảo vệ có các hệ lỗ thoáng đảm bảo cản bụi và cân bằng áp suất.
Đĩa từ
Đĩa từ (platter): Đĩa thường cấu tạo bằng nhôm hoặc thuỷ tinh, trên bề mặt
được phủ một lớp vật liệu từ tính là nơi chứa dữ liệu. Tuỳ theo hãng sản
xuất mà các đĩa này được sử dụng một hoặc cả hai mặt trên và dưới. Số
lượng đĩa có thể nhiều hơn một, phụ thuộc vào dung lượng và công nghệ
của mỗi hãng sản xuất khác nhau.
Mỗi đĩa từ có thể sử dụng hai mặt, đĩa cứng có thể có nhiều đĩa từ, chúng
gắn song song, quay đồng trục, cùng tốc độ với nhau khi hoạt động.
Track
Trên một mặt làm việc của đĩa từ chia ra nhiều vòng tròn đồng tâm thành
các track.
Track có thể được hiểu đơn giản giống các rãnh ghi dữ liệu giống như các
đĩa nhựa (ghi âm nhạc trước đây) nhưng sự cách biệt của các rãnh ghi
này không có các gờ phân biệt và chúng là các vòng tròn đồng tâm chứ
không nối tiếp nhau thành dạng xoắn trôn ốc như đĩa nhựa. Track trên ổ
đĩa cứng không cố định từ khi sản xuất, chúng có thể thay đổi vị trí khi
định dạng cấp thấp ổ đĩa (low format ).
Khi một ổ đĩa cứng đã hoạt động quá nhiều năm liên tục, khi kết quả
kiểm tra bằng các phần mềm cho thấy xuất hiện nhiều khối hư hỏng
(bad block) thì có nghĩa là phần cơ của nó đã rơ rão và làm việc
không chính xác như khi mới sản xuất, lúc này thích hợp nhất là
format cấp thấp cho nó để tương thích hơn với chế độ làm việc của
phần cơ
Sector
Khu vực
Số
sector/track
Số
byte/track

Tốc độ
truyền dữ liệu
(MBps)
0 720 368.640 44,24
1 704 360.448 43,25
2 696 356.352 42,76
3 672 344.064 41,29
4 640 327.680 39,32
5 614 314.368 37,72
6 592 303.104 36,37
7 556 284.672 34,16
8 528 270.336 32,44
9 480 245.760 29,49
10 480 245.760 29,49
11 456 233.472 28,02
12 432 221.184 26,54
13 416 212.992 25,56
14 384 196.608 23,59
15 360 184.320 22,12
Trên track chia thành những phần nhỏ bằng các đoạn hướng tâm thành
các sector. Các sector là phần nhỏ cuối cùng được chia ra để chứa dữ
liệu. Theo chuẩn thông thường thì một sector chứa dung lượng 512 byte.
Số sector trên các track là khác nhau từ phần rìa đĩa vào đến vùng tâm
đĩa, các ổ đĩa cứng đều chia ra hơn 10 vùng mà trong mỗi vùng có số
sector/track bằng nhau.
Bảng sau cho thấy các khu vực với các thông số khác nhau và sự ảnh
hưởng của chúng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ cứng Các khu vực ghi
dữ liệu của ổ đĩa cứng Hitachi Travelstar 7K60 2,5".
Cylinder
Tập hợp các track cùng cùng bán kính (cùng số hiệu trên) ở các mặt đĩa

khác nhau thành các cylinder. Nói một cách chính xác hơn thì: khi đầu
đọc/ghi đầu tiên làm việc tại một track nào thì tập hợp toàn bộ các track
trên các bề mặt đĩa còn lại mà các đầu đọc còn lại đang làm việc tại đó gọi
là cylinder (cách giải thích này chính xác hơn bởi có thể xảy ra thường
hợp các đầu đọc khác nhau có khoảng cách đến tâm quay của đĩa khác
nhau do quá trình chế tạo).
Trên một ổ đĩa cứng có nhiều cylinder bởi có nhiều track trên mỗi mặt đĩa
từ.
Trục quay
Trục quay là trục để gắn các đĩa từ lên nó, chúng được nối trực tiếp với
động cơ quay đĩa cứng. Trục quay có nhiệm vụ truyền chuyển động quay
từ động cơ đến các đĩa từ.
Trục quay thường chế tạo bằng các vật liệu nhẹ (như hợp kim nhôm) và
được chế tạo tuyệt đối chính xác để đảm bảo trọng tâm của chúng không
được sai lệch - bởi chỉ một sự sai lệch nhỏ có thể gây lên sự rung lắc của
toàn bộ đĩa cứng khi làm việc ở tốc độ cao, dẫn đến quá trình đọc/ghi
không chính xác.
Đầu đọc/ghi
Đầu đọc đơn giản được cấu tạo gồm lõi ferit (trước đây là lõi sắt) và cuộn
dây (giống như nam châm điện). Gần đây các công nghệ mới hơn giúp
cho ổ đĩa cứng hoạt động với mật độ xít chặt hơn như: chuyển các hạt từ
sắp xếp theo phương vuông góc với bề mặt đĩa nên các đầu đọc được
thiết kế nhỏ gọn và phát triển theo các ứng dụng công nghệ mới.
Đầu đọc trong đĩa cứng có công dụng đọc dữ liệu dưới dạng từ hoá trên
bề mặt đĩa từ hoặc từ hoá lên các mặt đĩa khi ghi dữ liệu.
Số đầu đọc ghi luôn bằng số mặt hoạt động được của các đĩa cứng, có
nghĩa chúng nhỏ hơn hoặc bằng hai lần số đĩa (nhỏ hơn trong trường hợp
ví dụ hai đĩa nhưng chỉ sử dụng 3 mặt).
Cần di chuyển đầu đọc/ghi
Cần di chuyển đầu đọc/ghi là các thiết bị mà đầu đọc/ghi gắn vào nó. Cần

có nhiệm vụ di chuyển theo phương song song với các đĩa từ ở một
khoảng cách nhất định, dịch chuyển và định vị chính xác đầu đọc tại các vị
trí từ mép đĩa đến vùng phía trong của đĩa (phía trục quay).
Các cần di chuyển đầu đọc được di chuyển đồng thời với nhau do chúng
được gắn chung trên một trục quay (đồng trục), có nghĩa rằng khi việc
đọc/ghi dữ liệu trên bề mặt (trên và dưới nếu là loại hai mặt) ở một vị trí
nào thì chúng cũng hoạt động cùng vị trí tương ứng ở các bề mặt đĩa còn
lại.
Sự di chuyển cần có thể thực hiện theo hai phương thức:
• Sử dụng động cơ bước để truyền chuyển động.
• Sử dụng cuộn cảm để di chuyển cần bằng lực từ.
Hoạt động
Giao tiếp với máy tính
Toàn bộ cơ chế đọc/ghi dữ liệu chỉ được thực hiện khi máy tính (hoặc các
thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) có yêu cầu truy xuất dữ liệu hoặc cần ghi dữ
liệu vào ổ đĩa cứng. Việc thực hiện giao tiếp với máy tính do bo mạch của
ổ đĩa cứng đảm nhiệm.
Ta biết rằng máy tính làm việc khác nhau theo từng phiên làm việc, từng
nhiệm vụ mà không theo một kịch bản nào, do đó quá trình đọc và ghi dữ
liệu luôn luôn xảy ra, do đó các tập tin luôn bị thay đổi, xáo trộn vị trí. Từ
đó dữ liệu trên bề mặt đĩa cứng không được chứa một cách liên tục mà
chúng nằm rải rác khắp nơi trên bề mặt vật lý. Một mặt khác máy tính có
thể xử lý đa nhiệm (thực hiện nhiều nhiệm vụ trong cùng một thời điểm)
nên cần phải truy cập đến các tập tin khác nhau ở các thư mục khác nhau.
Như vậy cơ chế đọc và ghi dữ liệu ở ổ đĩa cứng không đơn thuần thực
hiện từ theo tuần tự mà chúng có thể truy cập và ghi dữ liệu ngẫu nhiên tại
bất kỳ điểm nào trên bề mặt đĩa từ, đó là đặc điểm khác biệt nổi bật của ổ
đĩa cứng so với các hình thức lưu trữ truy cập tuần tự (như băng từ).
Thông qua giao tiếp với máy tính, khi giải quyết một tác vụ, CPU sẽ đòi hỏi
dữ liệu (nó sẽ hỏi tuần tự các bộ nhớ khác trước khi đến đĩa cứng mà thứ

tự thường là cache L1-> cache L2 ->RAM) và đĩa cứng cần truy cập đến
các dữ liệu chứa trên nó. Không đơn thuần như vậy CPU có thể đòi hỏi
nhiều hơn một tập tin dữ liệu tại một thời điểm, khi đó sẽ xảy ra các trường
hợp:
1. Ổ đĩa cứng chỉ đáp ứng một yêu cầu truy cập dữ liệu trong một thời
điểm, các yêu cầu được đáp ứng tuần tự.
2. Ổ đĩa cứng đồng thời đáp ứng các yêu cầu cung cấp dữ liệu theo
phương thức riêng của nó.
Trước đây đa số các ổ đĩa cứng đều thực hiện theo phương thức 1, có
nghĩa là chúng chỉ truy cập từng tập tin cho CPU. Ngày nay các ổ đĩa
cứng đã được tích hợp các bộ nhớ đệm (cache) cùng các công nghệ riêng
của chúng (TCQ, NCQ) giúp tối ưu cho hành động truy cập dữ liệu trên bề
mặt đĩa nên ổ đĩa cứng sẽ thực hiện theo phương thức thứ 2 nhằm tăng
tốc độ chung cho toàn hệ thống.
Đọc và ghi dữ liệu trên bề mặt đĩa
Sự hoạt động của đĩa cứng cần thực hiện đồng thời hai chuyển động:
Chuyển động quay của các đĩa và chuyển động của các đầu đọc.
Sự quay của các đĩa từ được thực hiện nhờ các động cơ gắn cùng trục
(với tốc độ rất lớn: từ 3600 rpm cho đến 15.000 rpm) chúng thường được
quay ổn định tại một tốc độ nhất định theo mỗi loại ổ đĩa cứng.
Khi đĩa cứng quay đều, cần di chuyển đầu đọc sẽ di chuyển đến các vị trí
trên các bề mặt chứa phủ vật liệu từ theo phương bán kính của đĩa.
Chuyển động này kết hợp với chuyển động quay của đĩa có thể làm đầu
đọc/ghi tới bất kỳ vị trí nào trên bề mặt đĩa.
Tại các vị trí cần đọc ghi, đầu đọc/ghi có các bộ cảm biến với điện trường
để đọc dữ liệu (và tương ứng: phát ra một điện trường để xoay hướng các
hạt từ khi ghi dữ liệu).
Dữ liệu được ghi/đọc đồng thời trên mọi đĩa. Việc thực hiện phân bổ dữ
liệu trên các đĩa được thực hiện nhờ các mạch điều khiển trên bo mạch
của ổ đĩa cứng.

Các công nghệ sử dụng ổ đĩa cứng
S.M.A.R.T
S.M.A.R.T (Self-Monitoring, Analysis, and Reporting Technology) là công
nghệ tự động giám sát, chuẩn đoán và báo cáo các hư hỏng có thể xuất
hiện của ổ đĩa cứng để thông qua BIOS, các phần mềm thông báo cho
người sử dụng biết trước sự hư hỏng để có các hành động chuẩn bị đối
phó (như sao chép dữ liệu dự phòng hoặc có các kế hoạch thay thế ổ đĩa
cứng mới).
Trong thời gian gần đây S.M.AR.T được coi là một tiêu chuẩn quan trọng
trong ổ đĩa cứng. S.M.A.R.T chỉ thực sự giám sát những sự thay đổi, ảnh
hưởng của phần cứng đến quá trình lỗi xảy ra của ổ đĩa cứng (mà theo
hãng Seagate thì sự hư hỏng trong đĩa cứng chiếm tới 60% xuất phát từ
các vấn đề liên quan đến cơ khí): Chúng có thể bao gồm những sự hư
hỏng theo thời gian của phần cứng: đầu đọc/ghi (mất kết nối, khoảng cách
làm việc với bề mặt đĩa thay đổi), động cơ (xuống cấp, rơ rão), bo mạch
của ổ đĩa (hư hỏng linh kiện hoặc làm việc sai).
S.M.A.R.T không nên được hiểu là từ "smart" bởi chúng không làm
cải thiện đến tốc độ làm việc và truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng.
Người sử dụng có thể bật (enable) hoặc tắt (disable) chức năng này
trong BIOS (tuy nhiên không phải BIOS của hãng nào cũng hỗ trợ
việc can thiệp này).
Ổ cứng lai
Ổ cứng lai (hybrid hard disk drive) là các ổ đĩa cứng thông thường được
gắn thêm các phần bộ nhớ flash trên bo mạch của ổ đĩa cứng. Cụm bộ
nhớ này hoạt động khác với cơ chế làm việc của bộ nhớ đệm (cache) của
ổ đĩa cứng: Dữ liệu chứa trên chúng không bị mất đi khi mất điện.
Trong quá trình làm việc của ổ cứng lai, vai trò của phần bộ nhớ flash như
sau:
• Lưu trữ trung gian dữ liệu trước khi ghi vào đĩa cứng, chỉ khi máy
tính đã đưa các dữ liệu đến một mức nhất định (tuỳ từng loại ổ cứng

lai) thì ổ đĩa cứng mới tiến hành ghi dữ liệu vào các đĩa từ, điều này
giúp sự vận hành của ổ đĩa cứng tối hiệu quả và tiết kiệm điện năng
hơn nhờ việc không phải thường xuyên hoạt động.
• Giúp tăng tốc độ giao tiếp với máy tính: Việc đọc dữ liệu từ bộ nhớ
flash nhanh hơn so với việc đọc dữ liệu tại các đĩa từ.
• Giúp hệ điều hành khởi động nhanh hơn nhờ việc lưu các tập tin
khởi động của hệ thống lên vùng bộ nhớ flash.
• Kết hợp với bộ nhớ đệm của ổ đĩa cứng tạo thành một hệ thống
hoạt động hiệu quả.
Những ổ cứng lai được sản xuất hiện nay thường sử dụng bộ nhớ flash
với dung lượng khiêm tốn ở 256 MB bởi chịu áp lực của vấn đề giá thành
sản xuất. Do sử dụng dung lượng nhỏ như vậy nên chưa cải thiện nhiều
đến việc giảm thời gian khởi động hệ điều hành, dẫn đến nhiều người sử
dụng chưa cảm thấy hài lòng với chúng. Tuy nhiên người sử dụng thường
khó nhận ra sự hiệu quả của chúng khi thực hiện các tác vụ thông thường
hoặc việc tiết kiệm năng lượng của chúng.
Hiện tại (2007) ổ cứng lai có giá thành khá đắt (khoảng 300 USD cho dung
lượng 32 GB) nên chúng mới được sử dụng trong một số loại máy tính
xách tay cao cấp. Trong tương lai, các ổ cứng lai có thể tích hợp đến vài
GB dung lượng bộ nhớ flash sẽ khiến sự so sánh giữa chúng với các ổ
cứng truyền thống sẽ trở lên khác biệt hơn.
Thông số và đặc tính
Dung lượng
Dung lượng ổ đĩa cứng (Disk capacity) là một thông số thường được
người sử dụng nghĩ đến đầu tiên, là cơ sở cho việc so sánh, đầu tư và
nâng cấp. Người sử dụng luôn mong muốn sở hữu các ổ đĩa cứng có
dung lượng lớn nhất có thể theo tầm chi phí của họ mà có thể không tính
đến các thông số khác.
Dung lượng ổ đĩa cứng được tính bằng: (số byte/sector) × (số
sector/track) × (số cylinder) × (số đầu đọc/ghi).

Dung lượng của ổ đĩa cứng tính theo các đơn vị dung lượng cơ bản thông
thường: byte, kB MB, GB, TB.
Theo thói quen trong từng thời kỳ mà người ta có thể sử dụng đơn vị nào,
trong thời điểm năm 2007 người người ta thường sử dụng GB. Ngày nay
dung lượng ổ đĩa cứng đã đạt tầm đơn vị TB nên rất có thể trong tương lai
– theo thói quen, người ta sẽ tính theo TB.
Đa số các hãng sản xuất đều tính dung lượng theo cách có lợi (theo
cách tính 1 GB = 1000 MB mà thực ra phải là 1 GB = 1024 MB) nên
dung lượng mà hệ điều hành (hoặc các phần mềm kiểm tra) nhận ra
của ổ đĩa cứng thường thấp hơn so với dung lượng ghi trên nhãn
đĩa (ví dụ ổ đĩa cứng 40 GB thường chỉ đạt khoảng 37-38 GB).
Tốc độ quay của ổ đĩa cứng
Tốc độ quay của đĩa cứng thường được ký hiệu bằng rpm (viết tắt của từ
tiếng Anh: revolutions per minute) số vòng quay trong một phút.
Tốc độ quay càng cao thì ổ càng làm việc nhanh do chúng thực hiện
đọc/ghi nhanh hơn, thời giam tìm kiếm thấp.
Các tốc độ quay thông dụng thường là:
• 3.600 rpm: Tốc độ của các ổ đĩa cứng đĩa thế hệ trước.
• 4.200 rpm: Thường sử dụng với các máy tính xách tay mức giá
trung bình và thấp trong thời điểm 2007.
• 5.400 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng 3,5” sản xuất cách đây 2-
3 năm; với các ổ đĩa cứng 2,5” cho các máy tính xách tay hiện nay
đã chuyển sang tốc độ 5400 rpm để đáp ứng nhu cầu đọc/ghi dữ
liệu nhanh hơn.
• 7.200 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng sản xuất trong thời gian
hiện tại (2007)
• 10.000 rpm, 15.000 rpm: Thường sử dụng cho các ổ đĩa cứng trong
các máy tính cá nhân cao cấp, máy trạm và các máy chủ có sử
dụng giao tiếp SCSI
Các thông số về thời gian trong ổ đĩa cứng

Thời gian tìm kiếm trung bình
Thời gian tìm kiếm trung bình (Average Seek Time) là khoảng thời gian
trung bình (theo mili giây: ms) mà đầu đọc có thể di chuyển từ một cylinder
này đến một cylinder khác ngẫu nhiên (ở vị trí xa chúng). Thời gian tìm
kiếm trung bình được cung cấp bởi nhà sản xuất khi họ tiến hành hàng
loạt các việc thử việc đọc/ghi ở các vị trí khác nhau rồi chia cho số lần
thực hiện để có kết quả thông số cuối cùng.
Thông số này càng thấp càng tốt.
Thời gian tìm kiếm trung bình không kiểm tra bằng các phần mềm bởi các
phần mềm không can thiệp được sâu đến các hoạt động của ổ đĩa cứng.
Thời gian truy cập ngẫu nhiên
Thời gian truy cập ngẫu nhiên (Random Access Time): Là khoảng thời
gian trung bình để đĩa cứng tìm kiếm một dữ liệu ngẫu nhiên. Tính bằng
mili giây (ms).
Đây là tham số quan trọng do chúng ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc
của hệ thống, do đó người sử dụng nên quan tâm đến chúng khi lựa chọn
giữa các ổ đĩa cứng. Thông số này càng thấp càng tốt.
Tham số: Các ổ đĩa cứng sản xuất gần đây (2007) có thời gian truy cập
ngẫu nhiên trong khoảng: 5 đến 15 ms.
Thời gian làm việc tin cậy
Thời gian làm việc tin cậy MTBF: (Mean Time Between Failures) được tính
theo giờ (hay có thể hiểu một cách đơn thuần là tuổi thọ của ổ đĩa cứng).
Đây là khoảng thời gian mà nhà sản xuất dự tính ổ đĩa cứng hoạt động ổn
định mà sau thời gian này ổ đĩa cứng có thể sẽ xuất hiện lỗi (và không
đảm bảo tin cậy).
Một số nhà sản xuất công bố ổ đĩa cứng của họ hoạt động với tốc độ
10.000 rpm với tham số: MTBF lên tới 1 triệu giờ, hoặc với ổ đĩa cứng
hoạt động ở tốc độ 15.000 rpm có giá trị MTBF đến 1,4 triệu giờ thì những
thông số này chỉ là kết quả của các tính toán trên lý thuyết. Hãy hình dung
số năm mà nó hoạt động tin cậy (khi chia thông số MTBF cho (24 giờ/ngày

× 365 ngày/năm) sẽ thấy rằng nó có thể dài hơn lịch sử của bất kỳ hãng
sản xuất ổ đĩa cứng nào, do đó người sử dụng có thể không cần quan tâm
đến thông số này.
Bộ nhớ đệm
Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer) trong ổ đĩa cứng cũng giống như RAM
của máy tính, chúng có nhiệm vụ lưu tạm dữ liệu trong quá trình làm việc
của ổ đĩa cứng.
Độ lớn của bộ nhớ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất hoạt động
của ổ đĩa cứng bởi việc đọc/ghi không xảy ra tức thời (do phụ thuộc vào
sự di chuyển của đầu đọc/ghi, dữ liệu được truyền tới hoặc đi) sẽ được
đặt tạm trong bộ nhớ đệm.
Đơn vị thường bính bằng kB hoặc MB.
Trong thời điểm năm 2007, dung lượng bộ nhớ đệm thường là 2 hoặc 8
MB cho các loại ổ đĩa cứng dung lượng đến khoảng 160 GB, với các ổ đĩa
cứng dụng lượng lớn hơn chúng thường sử dụng bộ nhớ đệm đến 16 MB
hoặc cao hơn. Bộ nhớ đệm càng lớn thì càng tốt, nhưng hiệu năng chung
của ổ đĩa cứng sẽ chững lại ở một giá trị bộ nhớ đệm nhất định mà từ đó
bộ nhớ đệm có thể tăng lên nhưng hiệu năng không tăng đáng kể.
Hệ điều hành cũng có thể lấy một phần bộ nhớ của hệ thống (RAM)
để tạo ra một bộ nhớ đệm lưu trữ dữ liệu được lấy từ ổ đĩa cứng
nhằm tối ưu việc xử lý đối với các dữ liệu thường xuyên phải truy
cập, đây chỉ là một cách dùng riêng của hệ điều hành mà chúng
không ảnh hưởng đến cách hoạt động hoặc hiệu suất vốn có của
mỗi loại ổ đĩa cứng. Có rất nhiều phần mềm cho phép tinh chỉnh các
thông số này của hệ điều hành tuỳ thuộc vào sự dư thừa RAM trên
hệ thống.
Chuẩn giao tiếp
Các chuẩn giao tiếp của ổ đĩa cứng
Giao tiếp
(viết tắt)

Tên tiếng Anh đầy đủ
Tốc độ
truyền dữ liệu
SCSI
Small Computer
System Interface
Nhiều loại, xem thêm
Ultra160 SCSI 160 MBps
Ultra320 SCSI 320 MBps
ATA
Advanced
Technology Attachment
Max = 133 MBps
SATA 150 Serial ATA 150 150 MBps
SATA 300 Serial ATA 300 300 MBps
SATA 600 Serial ATA 600 600 MBps
Có nhiều chuẩn giao tiếp khác nhau giữa ổ đĩa cứng với hệ thống phần
cứng, sự đa dạng này một phần xuất phát từ yêu cầu tốc độ đọc/ghi dữ
liệu khác nhau giữa các hệ thống máy tính, phần còn lại các ổ giao tiếp
nhanh có giá thành cao hơn nhiều so với các chuẩn thông dụng.
Trước đây, các chuẩn ATA và SATA thế hệ đầu tiên được sử dụng phổ
biến trong máy tính cá nhân thông thường trong khi chuẩn SCSI và Fibre
Channel có tốc độ cao hơn được sử chủ yếu nhiều trong máy chủ và máy
trạm. Gần đây, các chuẩn SATA thế hệ tiếp theo với tốc độ giao tiếp cao
hơn đang được sử dụng rộng rãi trong các máy tính cá nhân sử dụng các
thế hệ chipset mới.
Bảng dưới đây so sánh các chuẩn ATA thường sử dụng nhiều với ổ đĩa
cứng trong thời gian gần đây.
Chuẩn
Standar

d
Phát
triển
(năm
)
Công
bố
(năm
)
Loại
bỏ
(năm
)
PIO
Mode
s
DMA
Mode
s
UDM
A
Mode
s
Paralle
l
Speed
(MBps)
Serial
Speed
(MBps

)
Đặc tính
ATA-1 1988 1994 1999 02 0 8,33
Hộ trợ lên
tới 136.9GB;
BIOS issues
not
addressed
ATA-2 1993 1996 2001 04 02 16,67
Faster PIO
modes;
CHS/LBA
BIOS
translation
defined up
to 8.4GB;
PC-Card
ATA-3 1995 1997 2002 04 02 16,67 SMART;
improved
signal
integrity;
LBA support
mandatory;
eliminated
single-word
DMA modes
ATA-4 1996 1998 04 02 02 33,33
Ultra-DMA
modes;
ATAPI

Packet
Interface;
BIOS hỗ trợ
tới 136.9GB
ATA-5 1998 2000 04 02 04 66,67
Faster
UDMA
modes; 80-
pin cable
with
autodetectio
n
ATA-6 2000 2002 04 02 05 100
100MBps
UDMA
mode;
extended
drive and
BIOS
support up
to 144PB
ATA-7 2001 2004 04 02 06 133 150
133MBps
UDMA
mode; Serial
ATA
ATA-8 2004 04 02 06 133 150 Phiên bản
phụ
SMART = Self-Monitoring, Analysis, and Reporting Technology
ATAPI = AT Attachment Packet Interface

MB = Megabyte; million bytes
GB = Gigabyte; billion bytes
PB = Petabyte; quadrillion bytes
CHS = Cylinder, Head, Sector
LBA = Logical block address
PIO = Programmed I/O
DMA = direct memory access
UDMA = Ultra DMA
Tốc độ truyền dữ liệu
Tốc độ của các chuẩn giao tiếp không có nghĩa là ổ đĩa cứng có thể đáp
ứng đúng theo tốc độ của nó, đa phần tốc độ truyền dữ liệu trên các chuẩn
giao tiếp thấp hơn so với thiết kế của nó bởi chúng gặp các rào cản trong
vấn đề công nghệ chế tạo.
Các thông số sau ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng:
• Tốc độ quay của đĩa từ.
• Số lượng đĩa từ trong ổ đĩa cứng: bởi càng nhiều đĩa từ thì số lượng
đầu đọc càng lớn, khả năng đọc/ghi của đồng thời của các đầu từ
tại các mặt đĩa càng nhiều thì lượng dữ liệu đọc/ghi càng lớn hơn.
• Công nghệ chế tạo: Mật độ sít chặt của các track và công nghệ ghi
dữ liệu trên bề mặt đĩa (phương từ song song hoặc vuông góc với
bề mặt đĩa): dẫn đến tốc độ đọc/ghi cao hơn.
• Dung lượng bộ nhớ đệm: Ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu tức
thời trong một thời điểm.
Bảng so sánh sau tốc độ giữa các vùng ở các ổ cứng khác nhau dưới đây
sẽ giúp chúng ta nhận ra một số yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ
liệu của ổ đĩa cứng.
Ổ đĩa cứng Ultra-ATA/100 Hitachi (IBM) Deskstar 120GXP
Vùng Sectors/Track
Tốc độ quay
(vòng/phút)

Tốc độ
truyền dữ
liệu (MB/giây)
Vùng ngoài 928 7.200 57,02
Vùng trong 448 7.200 27,53
Trung bình 688 7.200 42,27
Ổ đĩa cứng Maxtor DiamondMax D540X-4G120J6 120GB ATA
Vùng ngoài 896 5.400 41,29
Vùng trong 448 5.400 20,64
Trung bình 672 5.400 30,97
Như vậy ta thấy rằng tốc độ truyền dữ liệu thực sự ở mức trung bình
42,27 MBps ở ổ đĩa có giao tiếp Ultra-ATA/100 (với tốc độ thiết kế truyền
dữ liệu 100 MBps) chỉ gần bằng 1/2 so với tốc độ giao tiếp.
Kích thước
Kích thước của ổ đĩa cứng được chuẩn hoá tại một số kích thước để đảm
bảo thay thế lắp ráp vừa với các máy tính. Kích thước ổ đĩa cứng thường
được tính theo inch (")
Kích thước vỏ ngoài các loại ổ đĩa cứng: xem bảng.
Sự sử dụng điện năng
Đa số các ổ đĩa cứng của máy tính cá nhân sử dụng hai loại điện áp
nguồn: 5 Vdc và 12 Vdc (DC hoặc dc: Loại điện áp một chiều). Các ổ đĩa
cứng cho máy tính xách tay có thể sử dụng chỉ một loại điện áp nguồn 5
Vdc. Các ổ đĩa cứng gắn trong các thiết bị số cầm tay khác có thể sử dụng
các nguồn có mức điện áp thấp hơn với công suất thấp.
Điện năng cung cấp cho các ổ đĩa cứng phần lớn phục vụ cho động cơ
quay các ổ đĩa, phần còn lại nhỏ hơn cung cấp cho bo mạch của ổ đĩa
cứng. Tuỳ từng loại động cơ mà chúng sử dụng điện áp 12V hoặc 5 Vdc
hơn (thông qua định mức tiêu thụ dòng điện của nó tại các mức điện áp
này). Trên mỗi ổ đĩa cứng đều ghi rõ các thông số về dòng điện tiêu thụ
của mỗi loại điện áp sử dụng để đảm bảo cho người sử dụng tính toán

công suất chung.
Ổ đĩa cứng thường tiêu thụ điện năng lớn nhất tại thời điểm khởi động của
hệ thống (hoặc thời điểm đĩa cứng bắt đầu hoạt động trở lại sau khi tạm
nghỉ để tiết kiệm điện năng) bởi sự khởi động của động cơ đồng trục quay
các đĩa từ, cũng giống như động cơ điện thông thường, dòng điện tiêu thụ
đỉnh cực đại của giai đoạn này có thể gấp 3 lần công suất tiêu thụ bình
thường.
Ổ cứng thông thường lấy điện trực tiếp từ nguồn máy tính, với các ổ đĩa
cứng ngoài có thể sử dụng các bộ cung cấp điện riêng kèm theo hoặc
chúng có thể dùng nguồn điện cung cấp qua các cổng giao tiếp USB.
Các thông số khác
KÍCH THƯỚC VỎ CÁC LOẠI Ổ CỨNG
CAO RỘNG DÀI THỂ TÍCH
Loại 5,25
Dùng trong các máy tính các thế hệ trước
3,25" (82,6mm) 5,75" (146,0mm) 8" (203,2mm) 149,5 ci (2449,9 cc)
1,63" (41,3mm) 5,75" (146,0mm) 8" (203,2mm) 74,8 ci (1224,9 cc)
Loại 3,5”
Thường sử dụng đối với máy tính cá nhân, máy trạm, máy chủ
1,63" (41,3mm) 4" (101,6mm) 5,75" (146,0mm) 37,4 ci (612,5 cc)
1,00" (25,4mm) 4" (101,6mm) 5,75" (146,0mm) 23,0 ci (376,9 cc)
Loại 2,5”
Thường sử dụng đối với máy tính xách tay
19,0mm
(0,75")
70,0mm (2,76") 100,0mm (3,94") 133,0 cc (8,1 ci)
17,0mm
(0,67")
-nt- -nt- 119,0 cc (7,3 ci)
12,7mm (0,50") -nt- -nt- 88,9 cc (5,4 ci)

12,5mm (0,49") -nt- -nt- 87,5 cc (5,3 ci)
9,5mm (0,37") -nt- -nt- 66,5 cc (4,1 ci)
8,5mm (0,33") -nt- -nt- 59,5 cc (3,6 ci)
Loại 1,8"
hoặc nhỏ hơn dùng trong các thiết bị kỹ thuật số cá nhân
9,5mm (0,37") 70,0mm (2,76") 60,0mm (2,36") 39,9 cc (2,4 ci)
7,0mm (0,28") -nt- -nt- 29,4 cc (1,8 ci)
Loại 1,8" PC Card
8,0mm (0,31") 54,0mm (2,13") 78,5mm (3,09") 33,9 cc (2,1 ci)
5,0mm (0,20") -nt- -nt- 21,2 cc (1,3 ci)
Loại 1,0" Micro Device
5,0mm (0,20") 42,8mm (1,69") 36,4mm (1,43") 7,8 cc (0,5 ci)
Các thông số dưới đây những người sử dụng thường ít chú ý bởi chúng
thường không ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất làm việc của ổ cứng. Các
thông số này không nên lấy làm chỉ tiêu so sánh giữa các ổ đĩa cứng trong
sự lựa chọn trong sự sử dụng thông thường.
Độ ồn
Độ ồn của ổ đĩa cứng là thông số được tính bằng dB, chúng được đo khi ổ
đĩa cứng đang làm việc bình thường.
Ổ đĩa cứng với các đặc trưng hoạt động là các chuyển động cơ khí của
các đĩa từ và cần di chuyển đầu đọc, do đó chúng không tránh khỏi phát
tiếng ồn. Do ổ đĩa cứng thường có độ ồn thấp hơn nhiều so với bất kỳ một
quạt làm mát hệ thống nào đang làm việc nên người sử dụng có thể không
cần quan tâm đến thông số này.
Những tiếng “lắc tắc” nhỏ phát ra trong quá trình làm việc của ổ
cứng một cách không đều đặn được sinh ra bởi cần đỡ đầu đọc/ghi
di chuyển và dừng đột ngột tại các vị trí cần định vị để làm việc. Âm
thanh này có thể giúp người sử dụng biết được trạng thái làm việc
của ổ đĩa cứng mà không cần quan sát đèn trạng thái HDD.
Chu trình di chuyển

Chu trình di chuyển của cần đọc/ghi (Load/Unload cycle) được tính bằng
số lần chúng khởi động từ vị trí an toàn đến vùng làm việc của bề mặt đĩa
cứng và ngược lại. Thông số này chỉ một số hữu hạn những lần di chuyển
mà có thể sau số lần đó ổ đĩa cứng có thể gặp lỗi hoặc hư hỏng.
Sau mỗi phiên làm việc (tắt máy), các đầu từ được di chuyển đến
một vị trí an toàn nằm ngoài các đĩa từ nhằm tránh sự va chạm có
thể gây xước bề mặt lớp từ tính, một số ổ đĩa có thiết kế cần di
chuyển đầu đọc tự động di chuyển về vị trí an toàn sau khi ngừng
cấp điện đột ngột. Nhiều người sử dụng năng động có thói quen
ngắt điện trong một phiên làm việc trên nền DOS (bởi không có sự
tắt máy chính thống) rồi tháo ổ đĩa cứng cho các công việc khác,
quá trình di chuyển có thể gây va chạm và làm xuất hiện các khối
hư hỏng (bad block).
Chu trình di chuyển là một thông số lớn hơn số lần khởi động máy tính
(hoặc các thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) bởi trong một phiên làm việc, ổ đĩa
cứng có thể được chuyển sang chế độ tạm nghỉ (stand by) để tiết kiệm
điện năng nhiều lần.
Chịu đựng sốc
Chịu đựng sốc (Shock - half sine wave): Sốc (hình thức rung động theo
nửa chu kỳ sóng, thường được hiểu là việc giao động từ một vị trí cân
bằng đến một giá trị cực đại, sau đó lại trở lại vị trí ban đầu) nói đến khả
năng chịu đựng sốc của ổ đĩa cứng khi làm việc.
Với các ổ cứng cho máy tính xách tay hoặc các thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ
cá nhân hay các ổ đĩa cứng ngoài thì thông số này càng cao càng tốt, với
các ổ đĩa cứng gắn cho máy tính cá nhân để bàn thì thông số này ít được
coi trọng khi so sánh lựa chọn giữa các loại ổ cứng bởi chúng đã được
gắn cố định nên hiếm khi xảy ra sốc.
Nhiệt độ và sự thích nghi
Tất cả các thiết bị dựa trên hoạt động cơ khí đều có thể bị thay đổi thông
số nếu nhiệt độ của chúng tăng lên đến một mức giới hạn nào đó (sự giãn

nở theo nhiệt độ luôn là một đặc tính của kim loại), do đó cũng như nhiều
thiết bị khác, nhiệt độ là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình làm việc của
ổ đĩa cứng nhất là bên trong nó các chuyển động cơ khí cần tuyệt đối
chính xác.
Nhiệt độ làm việc của ổ đĩa cứng thường là từ 0 cho đến 40 độ C, điều
này thường phù hợp với nhiều môi trường khác nhau, tuy nhiên không chỉ
có vậy: độ ẩm là yếu tố liên quan và kết hợp với môi trường tạo thành một
sự phá hoại ổ đĩa cứng.
Ổ cứng thường có các lỗ (chứa bộ lọc không khí) để cân bằng áp suất với
bên ngoài, do đó nếu như không khí trong môi trường chứa nhiều hơi
nước, sự ngưng tụ hơi nước thành các giọt hoặc đóng băng ở đâu đó bên
trong ổ đĩa cứng có thể làm hư hỏng ổ nếu ta hình dung được tốc độ quay
của nó lớn thế nào và khoảng cách giữa đầu từ với bề mặt làm việc của
đĩa từ nhỏ đến đâu.
Chính vì vậy trước khi đưa một ổ đĩa cứng vào làm việc lần đầu tiên (tháo
bỏ vỏ nhựa bọc kín nó khi sản xuất) trong thiết bị hoặc ổ đĩa cứng đã sử
dụng được đưa đến từ một môi trường khác đến một nơi làm việc mới (có
nhiệt độ môi trường cao hơn), nên đặt nó vào khoang chứa trong một số
thời gian nhất định trước khi kết nối các dây cấp nguồn và cáp dữ liệu để
chúng làm việc.
Thời gian thích nghi đủ lớn để để đảm bảo cho:
1. Các giọt nước bị bay hơi hoặc các cụm băng tuyết biến thành hơi
nước và cân bằng với môi trường bên ngoài.
2. Đảm bảo sự đồng đều về môi trường
bên trong và bên ngoài của ổ đĩa cứng,
tránh sự biến đổi (do nhiệt độ thay đổi
đột ngột) với các thiết bị cơ khí bên
trong khi nhiệt độ của ổ đĩa cứng tăng
lên sau một thời gian hoạt động.
Thời gian thích nghi cần thiết: xem bảng.

Tương tự việc đưa một máy tính xách
tay từ ngoài trời ở xứ lạnh vào trong
phòng làm việc ấm áp cũng nên để thời
gian chờ như vậy bởi trong máy tính
xách tay cũng có các ổ đĩa cứng - trừ
trường hợp khi ở ngoài trời (xứ lạnh)
máy đang hoạt động (đảm bảo nó không
bị đóng băng tuyết bên trong ổ đĩa
cứng).
Với nhiệt độ theo bảng ta có thể thấy rằng khí hậu ở Việt Nam hoặc
các nước gần xích đạo khác có nhiệt độ trung bình cao có lẽ ít cần
có thời gian thích ứng trước khi đưa ổ đĩa cứng vào sử dụng (trừ
những vùng có thể có nhiệt độ thấp và xuất hiện tuyết như Sa Pa ở
Việt Nam)
Với sự làm mát ổ đĩa cứng, xem thêm phần thông tin thêm của bài.
Các số thông số về sản phẩm
Phần dưới đây giải thích một số thông số khác của các ổ đĩa cứng.
Model: Ký hiệu về kiểu sản phẩm của ổ đĩa cứng, model có thể
được sử dụng chung cho một lô sản phẩm cùng loại có các đặc tính
Nhiệt độ
trước khi
hoạt động
Thời gian
cần thích
nghi (giờ)
+40°F (+4°C) 13
+30°F (-1°C) 15
+20°F (-7°C) 16
+10°F (-12°C) 17
0°F (-18°C) 18

-10°F (-23°C) 20
-20°F (-29°C) 22
-30°F (-34°C)
hoặc nhỏ hơn
27

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×