Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

. Toàn bộ Bài thi tìm hiểu 1000 năm Thăng Long Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 40 trang )

Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Bài thi tìm hiểu "Thăng Long - Hà Nội nghìn năm
Văn hiến và Anh hùng"
Câu 1: Trong bài "Chiếu dời đô", Hoàng đế Lý Thái Tổ đã xác định
những lợi thế nào của đất Thăng Long?
Trả lời: Được thế rồng cuộn hổ ngồi.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Năm 1010, nghĩa là ngay sau khi Ngoạ Triều vừa mất, Lý Công Uẩn được
tôn lên ngôi báu, đó là Lý Thái Tổ, vị vua khai sinh ra triều Lý (1010 - 1225).
Công việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là dời đô. Sách Đại Việt sử kí toàn thư
(bản kỉ, quyển 2, tờ 2 a-b và tờ 3-a) chép rằng:
“Vua thấy Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương,
muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: “Ngày xưa, nhà Thương
(Trung Quốc) tính đến đời Bàn Canh là năm lần dời đô, nhà Chu (Trung Quốc)
tính đến Thành Vương là ba lần dời đô; há phải các vua đời tam đại ấy (tam đại
gồm Hạ, Thương và Chu) theo ý riêng mà tự dời đô, không tính toán gì đâu.
Làm thế chẳng qua cũng cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho
con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo dân, xem có chỗ tiện thì
dời đô, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê
lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của các nhà
Thương, Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số
ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất lấy làm đau đớn,
không thể không dời đô. Huống chi Đại La là thành cũ của Cao Vương (chỉ Cao
Biền) ở giữa trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi, chính giữa đông
tây nam bắc, tiện núi sông sau trước, rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng
sủa, dân không khổ về ngập lụt tối tăm, muôn vật tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt ta, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của tứ phương,
đúng là đất đóng đô mãi mãi đến muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định
nơi ở, các khanh nghĩ thế nào ?”. Bầy tôi đều nói “Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế
dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được
đông đúc giàu có, ai dám không theo ?”. Vua nghe vậy cả mừng.


Mùa thu tháng bảy (năm 1010), Vua từ thành Hoa Lư dời đô ra phủ thành
Đại La. Khi thuyền Vua đang tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền
ngự. Vua nhân đó đổi gọi thành Đại La là Thăng Long”.
Lời bàn: Thời ấy, nhìn từ bất cứ góc độ nào thì Thăng Long cũng là trung
tâm của đất nước. Vả chăng, trước triều Lý nhiều thế kỉ, Thăng Long cũng đã
từng là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của đất nước rồi. Sớm muộn tuy
có khác nhau, nhưng định đô ở Thăng Long, Lý Thái Tổ thực đã nối được chí
lớn của An Dương Vương, của Lý Nam Đế, của Ngô Quyền, và của các bậc anh
hùng thuở trước rồi đó vậy.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Sáng suốt thay, người chọn đất đóng đô. Tuyệt vời thay, người đặt tên kinh đô.
Chút huyền bí đượm nồng thi vị ấy đã góp phần tôn vẻ đẹp có thật của Thăng
Long, để ngàn năm sau, đất ấy vẫn là niềm tự hào của dân tộc
Câu 2: Tòa nhà cổ nhất trên đất Thủ đô là tòa thành nào?
Trả lời: Thành cổ Hà Nội.
Mặt tiền Hoàng thành Thăng Long (2009)
Năm 1010, sau khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa
Lư về thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Thực hiện Chiếu chỉ của triều đình,
nhân dân Thăng Long đã tham gia đắp đất, xây thành.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Ngay từ đầu, thành Thăng Long được chia thành hai phần: Hoàng thành và Kinh
thành, trong đó Hoàng thành nằm trong lòng Kinh thành-là nơi Vua ở và làm
việc của Triều đình. Trong Hoàng thành lại ngăn
thành một nơi gọi là Cấm thành, có tường xây
kiên cố và bảo vệ nghiêm ngặt, thời Lý gọi là
Long thành, thời Trần gọi là Long Phượng
thành.
Trong Hoàng thành các đời vua đều cho
xây dựng những cung điện nguy nga, tráng lệ.
Ngoài ra, các Vua Lý còn cho đắp nhiều ngọn

núi đất trong đó có nơi trở thành danh thắng như
núi Nùng, núi Thái Hòa…
Dưới thời nhà Lý, ngoài những đợt xây dựng quy mô lớn vào các năm
1011, 1029, 1203 Hoàng thành thường xuyên được tu sửa, xây mới hầu như đời
vua nào cũng làm, năm nào cũng làm.
Kinh thành Thăng Long thời Lê vẫn là kinh thành Thăng Long thời Lý,
Trần… những công trình cũ đã hư hại thì được sửa chữa lại, công trình nào bị
phá hủy thì được xây mới, tất cả đều mang đặc điểm, phong cách kiến trúc, mỹ
thuật thời Lê.
Các vua thời Lê cho mở rộng Hoàng thành vào các năm 1473, 1490,
1514.
Chính giữa Hoàng thành là điện Kính Thiên xây dựng năm 1428, là nơi
Vua cùng triều thần bàn việc nước. Bên phải điện Kính Thiên là điện Chí Kính,
phía sau chếch về bên trái là điện Vạn Thọ. Trước điện Kính Thiên là điện Thị
Triều-nơi quan lại chuẩn bị vào chầu Vua. Phía ngoài điện Thị Triều là Đoan
Môn có hai cửa Đông Tràng An và Tây Tràng An ở hai bên ăn thông ra hai
hướng đông và tây trong Hoàng thành.
Sang thế kỷ XVIII, Hoàng thành bị sụt lở nhiều, khi nhà Tây Sơn ra
Thăng Long, các cửa thành đã đổ gần hết chỉ còn lại hai cửa Đại Hưng ở
Xây trên một phần nền Điện
Kính Thiên, Nhà con rồng là
di tích lịch sử quân sự hàng
đầu của thời đại Hồ Chí Minh
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
phía nam và Đông Hoa ở phía đông. Nhà Nguyễn lên ngôi, Thăng Long từ
vị trí Kinh đô của quốc gia trở thành trấn thành rồi tỉnh thành.
Mất vai trò trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế… các công trình trong Hoàng
thành phải thay đổi quy mô.
Năm 1805, vua Gia Long lệnh phá bỏ thành cũ, xây lại theo kiến trúc của
Pháp. Các công trình trong thành được bố trí kế thừa những di tích của triều đại

trước: Chính giữa vẫn là điện Kính Thiên. Thềm điện Kính Thiên cao ba cấp, có
chạm những con rồng bằng gỗ. Gần điện có Hành Cung là nơi Vua ngự mỗi khi
kinh lý Bắc thành. Từ điện Kính Thiên đi ra là Đoan môn, cấu trúc gồm ba cửa
trong đó cửa chính giữa dành cho nhà Vua, hai cửa nhỏ dành cho các quan lại.
Hai đàn Xã và Tắc để tế trời đặt bên trái ngoài Đoan Môn cùng một Đình bia ghi
công trạng của vua Gia Long.
Năm 1805 Vua Gia Long cho xây dựng Kỳ Đài (Cột Cờ) gần Đình bia.
Để xứng tầm với một “tỉnh thành”, năm 1831 Vua Minh Mạng ra lệnh hạ thấp
tường thành và đổi tên là thành Hà Nội.
Năm 1848, Vua Tự Đức cho phá dỡ các cung điện còn lại trong thành,
những đồ chạm khắc mỹ thuật bằng gỗ, đá đều đưa về Huế, chỉ còn sót lại rồng
đá ở điện Kính Thiên…
Qua bao thăng trầm của lịch sử, Hoàng thành đã chịu nhiều biến cố, tác
động xấu đến diện mạo, quy mô các công trình kiến trúc. Phong kiến phương
bắc nhiều lần tiến công cướp phá Thăng Long và để lại những hậu quả nặng nề,
các công trình kiến trúc bị phá hủy, tư liệu vật thể bị cướp.
Cuối thế kỷ 13, quân Nguyên-Mông nhiều lần cướp phá Thăng Long.
Sang thế kỷ XIV (năm 1371 đến 1378), quân Chiêm Thành đã bốn lần
đem quân tấn công đốt phá kinh thành. Trong tình trạng hoang tàn ấy,
nhà Hồ (năm 1397) lại quyết định dời đô về Thanh Hóa…
Đặc biệt trong 20 năm xâm lược, nhà Minh đã phá nát cung điện, đền
chùa, bảo tháp… lấy đồng đúc vũ khí…
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Khi giặc Pháp đóng chiếm trong điện Kính Thiên, củng cố tường chung
quanh thành pháo đài kiên cố. Chúng cho phá điện, xây nhà chỉ huy pháo binh,
Đoan Môn bị Pháp sửa biến thành trại lính…
Cuối cùng, năm 1893, thực dân Pháp lại quyết định phá bỏ toàn bộ tường
thành. Trong 62 năm (từ 1892 đến 1954) đóng quân trong thành, người Pháp với
tư tưởng thực dân đã biến Thành cổ Hà Nội thành một khu quân sự, một trại
lính. Hầu như tất cả các công trình cổ còn lại đã bị biến thành nhà ở hoặc phá bỏ

lấy đất, gạch xây các công trình quân sự, nhà ở cho các sĩ quan, binh lính, kho
tàng…
Từ Hoàng thành trở thành trại lính Pháp, diện mạo kiến trúc Thành cổ đã
bị phá nát gần như hoàn toàn. May mắn còn sót lại cho đến nay dấu vết của Kỳ
Đài (Cột Cờ), Đoan môn, nền điện Kính Thiên, Bắc Môn thời Nguyễn vì
chúng được sử dụng vào mục đích quân sự

Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực
Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ
băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên
vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay
lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ
đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại
văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.
[16]
Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh
sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với
thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ 3 trước Công Nguyên, trong
cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là
huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ
Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã
hội.

Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Câu 3: Ngôi "Làng hai Vua" ở phía Tây Thủ đô - là quê hương của Bố
Cái Đại Vương Phùng Hưng và Ngô Vương Quyền, tên là gì?
Trả lời: Đường Lâm
LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM – ĐẤT 2 VUA
Nằm cách Hà Nội khoảng 50 km về phía Tây, làng Đường Lâm (thị xã Sơn Tây,

tỉnh Hà Tây) với kiến trúc đường làng đặc trưng hình xương cá cùng những
vòm cổng, những bức tường đá ong già nua, vàng khé lên trong các buổi chiều
vừa trở thành di tích quốc gia - làng cổ duy nhất trong cả nước.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Lối vào Đường Lâm
Nói đến Đường Lâm là nói đến vùng đất của một cộng đồng dân cư gồm năm,
sáu làng họp lại. Không nên quan niệm Đường Lâm là một xã với sự phân chia
hành chính hiện thời do các làng: Mông Phụ, Đông Sàng, Phụ Khang, Cam
Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Văn Miếu làm nên. Bởi như thế khó có thể đánh
giá một cách tổng quát về lịch sử - văn hoá đã diễn ra trên mảnh đất này.
Đường Lâm tên nôm gọi là Kẻ Mía, có lẽ tục danh này được bắt đầu từ một cái
tên rất chữ nghĩa: Cam Giá (Mía ngọt). Cam Giá xưa kia được chia ra thành hai
''Tổng'': Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã thuộc
miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng (nay thuộc về huyện Ba Vì). Cam
Giá Hạ là xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây). Phải chăng đai đất hữu
ngạn sông Hồng từ thời thượng cổ, khi chưa có hai bờ đê sừng sững chạy dài
định vị dòng sông (đê sông Hồng trở thành hệ thống có lẽ vào thời Lý), để mỗi
khi vào mùa nước lại ào ạt đổ về ngầu đỏ phù sa, bồi đắp nên tam giác châu thố
đồng bằng Bắc Bộ mà sông Hồng là cái trục phân chia địa giới hành chính hai
tỉnh rất rõ rệt: Vĩnh Phúc - Hà Tây. Dải đồng bằng hữu ngạn sông Hồng kéo dài
từ những bậc thềm của núi Tản (Tản Viên Sơn - Núi Tổ) xoải mãi về xuôi, tạo ra
một miền phì nhiêu trù phú, một năm hai vụ bốn mùa rộn rã tiếng canh cửi tằm
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
tang, ngọt mãi đến tận bây giờ với một địa danh đã đi vào lịch sử bằng những kỳ
tích như những huyền thoại.
Đình làng Mông Phụ
Theo một số nghiên cứu đánh giá gần đây của một số học giả thì làng Mông Phụ
(thuộc xã Đường Lâm) được coi là đại diện duy nhất còn lại của những ngôi
làng trồng lúa nước Việt Nam. Đây là làng Việt cổ đá ong. Đá ong tham gia vào
việc xây dựng nên từng nếp nhà, thành giếng cho đến đường làng, ngõ xóm. Đá

ong hiện diện khắp nơi với một quy mô hoành tráng và rộng lớn, với nghệ thuật
kiến trúc thô mộc mà tinh xảo, tiêu biểu nhất là đình làng Mông Phụ. Đình
Mông Phụ đã có cách đây gần 380 năm, mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt
- Mường: đình có sàn gỗ cách mặt đất, mô phỏng kiểu kiến trúc của nhà sàn. Có
thể nói đây là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc, những nét tài hoa có một
không hai ấy còn được lưu giữ trên những bức trạm cốn và đầu dư… Tinh vi
trong từng nhát đục, song cũng cực kỳ tinh tế trong quy hoạch tổng thể mang
tính vĩ mô. Giai thoại kể rằng: Đình Mông phụ đặt trên đầu một con rồng mà
giếng làng là hai mắt. Trước cửa đình là một cái sân rộng, sân này là nơi biểu
diễn các trò khi làng vào đám. Sân đình đào thấp hơn so với mặt bằng xung
quanh, có vẻ như là một nghịch lý so với kiến trúc hiện đại, song thực ra đó lại
là một dụng ý của người xưa. Khi mưa xuống, nước từ ba phía ào ạt đổ vào sân
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
đình (nước chảy chỗ trũng), ẩn ý cho khát vọng về một đời sống ấm no. Sau đó
nước từ từ thoát ra theo hai cống nhỏ chạy dọc theo nách đình (chống thủy lôi
tâm), từ xa nhìn lại, trong mưa hai rãnh nước vẽ nên hai râu rồng vừa thật lại
vừa ảo, quả thật là một ý tưởng hết sức lãng mạn của các kiến trúc sư cổ
Không chỉ thế, sân đình còn là một cái "ngã sáu" khổng lồ, xoè ra như những
cánh hoa, quy tụ mọi con đường trong làng về trung tâm. Sự kỳ diệu về địa thế
và kiến trúc đó khiến cho người làng có thể từ đình đi đến bất cứ xóm nào trong
làng mà không ai trực tiếp quay lưng lại với hướng đình.
Nhà cổ 3 gian 2 chái ở Đường Lâm
Làng Đường Lâm còn là đất của hai vua: Phùng Hưng và Ngô Quyền. Phùng Hưng
sinh ra và lớn lên ở làng Cam Lân (xã Đường Lâm). Nửa sau thế kỷ VIII, đất
nước ta chịu ách đô hộ của nhà Tùy Đường cực kỳ hà khắc. Phùng Hưng đã
chiêu tập binh sĩ cùng nhân dân phất cờ khởi.nghĩa giành lại quyền độc lập tự
chủ (791- 802). Nhân dân tôn vinh ông là Bố Cái Đại Vương!
Một người con ưu tú khác là Ngô Vương Quyền. Ngô Vương Quyền là con trai
Châu Mục Đường Lâm Ngô Mân (Ông chính là người làng Cam Lâm). Lớn lên
ông làm nha tướng cho Dương Diên Nghệ, trấn thủ châu Hoan, Châu Ái. Sau

Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
loạn Kiều Công Tiễn ông đã trấn yên nước nhà và tiến hành cuộc kháng chiến
chống quân thù với chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng.
Giếng làng
Làng cổ vẫn còn rất đẹp và yên vắng. Chỉ có dăm cụ già chống gậy đi lại hỏi
thăm nhau, vài người chị đẩy những chiếc xe chất đầy mạ xanh non. Đến thăm
làng cổ, một mình nghe tiếng bước chân mình rộn lên trong từng ngõ nhỏ, hay
chạm tay vào lớp đá xù xì mát rượi của chiếc cổng làng duy nhất còn sót lại, đọc
mấy chữ đại chữ đại tự "Thế hữu hưng ngơi đại" (Thời nào cũng có người tài
giỏi), hẳn là ai cũng sẽ cảm thấy hình như có một điều kỳ diệu nào đó vẫn còn
tiềm ẩn dưới lớp đá dày trầm mặc tích tụ từ bao đời.
Câu 4: Năm 1010, Hoàng đế Lý Thái Tổ đã cho xây Tòa chính điện
Càn Nguyên của Kinh đô Thăng Long ở trên cao điểm nào?
Trả lời: Núi Nùng.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi đường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng sơn, Long đỗ đây đây
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Tam sơn núi đất cao tầy khán sơn
(Dạo xem phong cảnh Long Thành)
Vậy núi Nùng ở ngay trong thành cổ Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí của
nhà Nguyễn, tập II, trong mục Núi, sông, có chép: “Núi Nùng ở trong thành, có
tên nữa là núi Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh đô, dựng chính điện ở trên núi,
đời Lê gọi là điện Kính thiên, bản triều (Nguyễn) đặt làm hành cung, vẫn gọi
theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba, đổi gọi là điện Long Thiên, điện Đình ở núi
Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai con rồng, dài hơn một trượng, chế
từ đời Lý.
Tương truyền, đời Lê Thống Nguyên, nhà Mạc cướp quyền, khi Mạc

Đăng Dung theo từng bậc bước lên bệ, bị con rồng cắn xé áo long cổn, Dung tức
giận, sai người lấy búa bổ vào rồng, nay vết sứt vẫn còn!
Điện Kính thiên là nơi coi chầu của đời Lê, cũng chính là điện Càn
Nguyên của đời Lý. Hai con rồng đá hiện nay vẫn còn. Như vậy, thì núi Nùng
cũng không cao. Xét toàn bộ đất Hà Nội - Thăng Long, thì núi ở mạn Tây Bắc,
ngay trong hoàng thành, bởi đó là một nơi địa linh phong thuỷ tốt, nên mới được
dựng làm ngôi điện chính của hoàng thành.
Theo các nhà phong thuỷ (thầy địa lý) thì một ngôi dương cơ, bằng 10
ngôi âm phần; điện đặt ở chỗ này, trên núi Nùng, chính là chọn được ngôi dương
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
cơ tốt, cho nên mới trở thành kinh thành của mấy triều đại Lý Trần Lê (kể cả
nhà Hồ và nhạc Mạc sau này) Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, lại được chọn làm Thủ đô và bây giờ trở thành thành phố hoà bình, đáng
được xếp vào loại một trong những cố đô lâu đời nhất
Cái lạ của núi Nùng, còn mang ý nghĩa triết học nữa, đó là có mà như
không không mà có Đi trên nền điện Kính Thiên, tức là đặt chân lên núi Nùng, một
danh sơn của Hà Nội mà ta không biết là có núi. Và rõ ràng là đã đứng ngay trên núi mà chỉ
thấy nền điện, hoàng thành
Đất thiêng, núi thiêng mà khiêm nhường đến thế! Thiết nghĩ, sao kỷ niệm
1.000 năm Thăng Long, mà Hà Nội không dựng lại một điện Kính thiên, theo
đúng mẫu của điện Càn Nguyên đời Lý nhỉ! Từ nay đến ngày kỷ niệm, xem ra
vẫn chưa muộn!
Làm được toà điện ấy, hẳn sẽ làm nức lòng dân chúng Thủ đô và trong cả
nước Và nếu như được âm phù, dương trợ, (mà khi có tâm, hẳn sẽ được như
thế) thì vượng khí những năm sau này hẳn dồi dào hơn nữa.
Vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã là nhà chiến lược
tài ba, lại chọn nơi làm hoàng thành, chọn núi Nùng để dựng điện Càn Nguyên,
đều là những quyết định lớn, rất quan trọng Những thành quả của những năm
dựng nước của nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, đều khởi nguồn từ thành này, điện
này Bởi đây là nơi địa linh.

Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên tập I chép: “Tháng sáu, năm Kỷ
Tỵ 1029 rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên. Vua Lý Thái Tông bảo các quan
hầu rằng: “Trẫm phá điện ấy, san phẳng nền rồi, mà rồng thần còn hiện, hay là
chỗ ấy là đất tốt đức lớn dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng?” Bèn sai quan
theo quy mô rộng hơn, nhắm hai phương hướng, làm lại mà đổi tên là điện
Thiên An ” (trang 207).
Vậy điện Càn Nguyên, còn có tên là điện Thiên An, được mở rộng hơn, hướng
điện được khảo cứu kỹ lưỡng hơn, sau này trở thành điện Kính Thiên do nhà Lê
đổi tên toạ lạc trên núi Nùng
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Câu 5: Những công trình nào trong "Tứ đại khí" nước Đại Việt thời
Lý - Trần đã được tạo tác ở Thăng Long?
Trả lời: Tháp Báo Thiên
Tháp Báo Thiên gọi theo tên chùa ở phía tây hồ Lục Thuỷ ( hồ Hoàn
Kiếm). Nhẽ ra là tháp Phật như một số tháp đương thời ở các chùa Phật Tích,
Tường Long, Chương Sơn nhưng tháp Báo Thiên xây ngay trên đất bằng ở
giữa kinh thành, có số tầng chẵn (12 hoặc 30?) và nhất là ở cái tên Đại Thắng
Tư Thiên khẳng định ý nghĩa báo cáo trời chiến công lớn lao của dân tộc, cao
những vài mươi trượng tất cả biểu thị đây là công trình kiến trúc của nhà nước
mang tính chất đài kỷ niệm chiến thắng như một thứ Khải hoàn môn.
Tháp có số tầng chẵn biểu thị sự cân bằng, ổn định, tĩnh tại , bền vững như triều
đình nhà Lý đầy khí thế, sẽ tồn tại dài lâu. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba
chữ Đao Ly Thiên tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm. Đỉnh tháp
có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua. Trong
xã hội nông nghiệp xanh- sạch- đẹp, ở trên cao dường như không có bụi, hơi
nước gặp lạnh đọng lại có thể xem như nước cất tinh khiết, là tinh tuý của tự
nhiên, là lộc của trời ban. Có nhẽ vì thế, những tháp xây các thời sau không cao
lắm, trên đỉnh thường kết thúc bằng một quả hồ lô như bầu rượu, cũng là mang ý
nghĩa bình nước thiêng. Cây tháp báo Thiên đến thời Trần được Nho thần Phạm
Sư Mạnh tả lại với hình tượng thật hoành tráng:

Trấn áp đông tây cũng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
Kim cổ nan nan lập địa chùng
Dịch:
Trấn giữ đông tây vững đế kỳ
Tháp cao sừng sững thật uy nghi
Là cột chống trời yên đất nước
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì.
Cái hình ảnh "cây cột trụ chống trời, cao sừng sững vượt trội hẳn lên
trong cả không gian và thời gian để giữ vững kinh kỳ" hẳn phải nhoà trong mây,
là cây thánh nối Trời với Đất, là sự giao hoà trời cha - đất mẹ để dân tộc phát
triển, dân đông vật thịnh. Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các tác giả
sách Tang thương ngẫu lục đã chứng kiến cuộc đào nền tháp (sau khi tháp bị
quân Minh phá ở đầu thế kỷ XV) còn thấy nền tháp hình vuông, hai bên mỗi cửa
có hai pho tượng kim cương đứng trấn giữ, bên trong lòng tháp còn có các tượng
người tiên, chim muông đến cả giường, ghế, chén, bát không sao kể hết, tất cả
đều bằng đá. Cho đến cuối thế kỷ XIX, các tác giả sách Đại nam nhất thống chí
còn thấy tháp cao một trăm thước (chừng 40m), nhưng sau đó Pháp chiếm Hà
Nội đã chuyển khu đất này cho bên đạo thiên chúa xây nhà thờ lớn Hà Nội.
Câu 6: Trong khu di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Hà Nội, di sản nào là của thời Lê?
Trả lời: Bia Tiến Sỹ
Bia tiến sĩ Văn Miếu - 'pho sử đá' được vinh danh
Gọi 82 tấm bia tiến sĩ là "những trang sử bằng đá", nhà Hà Nội học
Nguyễn Vinh Phúc cho rằng, với việc được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế
giới, báu vật lịch sử của VN sẽ được biết đến rộng rãi hơn.
Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu -
Quốc Tử Giám Hà Nội được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới vào

chiều 9/3. Đây là Di sản tư liệu thế giới thứ hai của Việt Nam, sau Mộc bản
triều Nguyễn.
Trước thông tin này, ông Nguyễn Vinh Phúc chia sẻ: "Đây là thắng lợi của Việt
Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, bởi báu vật lịch sử của chúng ta đã được
thế giới biết đến. 82 tấm bia tiến sĩ là những trang sử bằng đá, lưu lại trí tuệ, văn
hóa, tâm hồn và quan điểm giáo dục của các triều đại Việt Nam, sẽ tồn tại vĩnh
viễn trong thời gian và ký ức của con người".
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ảnh: Hoàng Hà.
Được coi là pho sử đá đồ sộ, 82 tấm bia, chia làm hai hàng, đặt hai bên
Thiên Quang tỉnh, trong khuôn viên Văn Miếu Quốc Tử giám, ghi tên tuổi của
1.304 tiến sĩ đỗ đạt trong các khoa thi tổ chức từ năm 1442 đến 1779.
Nhận định về giá trị của Bia tiến sĩ Văn Miếu, ông Nguyễn Vinh Phúc
nói: "Trước hết, đây là một di tích có giá trị lịch sử, ghi danh những danh nhân,
trí thức của Việt Nam trong hơn 3 thế kỷ. 82 tấm bia cũng là tài liệu quý về địa
lý, lịch sử. Bởi địa danh thay đổi theo thời gian. Những gì còn ghi lại trong
những bia đá này ít nhiều sẽ giúp người đời sau tìm được tư liệu quý về dư địa
chí. Đây cũng là nơi thể hiện quan điểm giáo dục, đào tạo con người của các
triều đại Việt Nam, bộc lộ ngay trong tấm bia cổ nhất: 'Hiền tài là nguyên khí
quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh…'. Vì vậy, nó cũng có ý
nghĩa đề cao đạo học. Hơn nữa, mỗi một tấm bia, ở một khía cạnh nào đó, còn là
một công trình văn hóa, kiến trúc, thẩm mỹ".
Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng nhấn mạnh đến chủ trương đề cao sự học,
tôn trọng hiền tài, chăm lo giáo dục của các triều đại xưa thể hiện qua các văn
bia. Ngoài ra, ông cho rằng, một thông điệp quan trọng nữa, ghi rõ trong các tấm
bia là sự đòi hỏi nhân tài phải có đóng góp nhất định cho xã hội, tương xứng với
vinh dự ghi danh bảng vàng bia đá mà họ nhận được.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Như mọi di sản vật thể và phi vật thể khác, sự công nhận của thế giới
cũng đặt ra cho Việt Nam yêu cầu khắt khe trong việc bảo quản và phát

huy di sản. Ông Dương Trung Quốc cho rằng, những năm gần đây, Ban quản lý
di tích cũng đã thực hiện rất tốt việc bảo vệ Văn Miếu nói chung và bia tiến sĩ
nói riêng. Trước đây, 82 tấm bia từng phải nằm trầm mình trong mưa gió.
Nhưng từ năm 1993, nhờ sự tài trợ của một tổ chức nước ngoài, hai dãy mái che
đã được dựng lên để bảo vệ các cụ rùa đội bia. Bên cạnh đó, Ban quản lý cũng
thắt chặt hơn nội quy đối với khách tham quan, đồng thời có nhiều hình thức
quảng bá, tuyên truyền về Văn Miếu qua các ấn bản giới thiệu.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
và cầu may bằng cách biếu tiền cho các cụ rùa. Ảnh: Hoàng
Hà.
Tuy nhiên, trước lượng khách du lịch ngày một tăng, 82 tấm bia tiến sĩ
cũng đang đối diện với những nguy cơ hư hỏng. Sự ngưỡng vọng của thế hệ sau
dành cho truyền thống khoa cử của người đi trước đã tạo nên thói quen tín
ngưỡng ở Văn Miếu. Hàng năm, vào dịp mùa thi, hàng nghìn lượt sĩ tử đua nhau
đến sờ đầu rùa để lấy may. Nhiều người thậm chí còn ngồi, đứng lên cả các cụ
rùa. Hiện tượng đó đã khiến cho nhiều đầu rùa bị bào mòn, các dòng Hán tự bị
mờ dần. Trước thực trạng này, ông Dương Trung Quốc cho rằng, không dễ gì để
xóa bỏ niềm tin của dân chúng trong ngày một ngày hai. Điều quan trọng là phải
giáo dục để người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, có ý thức hơn trong việc bảo vệ di
sản. Để làm được điều đó, ông Quốc khẳng định, cần có hình thức giúp lớp trẻ
đọc, hiểu được thông điệp trên các tấm bia thông qua việc chuyển ngữ, phát
hành các tập sách hướng dẫn, giới thiệu về Bia tiến sĩ tại Văn Miếu.
Ông Đặng Kim Ngọc - Giám đốc Trung tâm Văn Miếu cho biết - trong hồ
sơ đệ trình lên UNESCO, Trung tâm cũng đã đề nghị Ủy ban UNESCO và
Chương trình Ký ức thế giới quan tâm giúp đỡ trong việc bảo quản 82 tấm bia
tiến sĩ - những di tích làm bằng chất liệu khá bền vững nhưng không thể vĩnh
viễn với thời gian nếu không có những phương pháp bảo vệ đúng cách.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Câu 7: Trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long có những giá trị
nổi bật toàn cầu nào?

Trả lời: Có tầng văn hóa khảo cổ học đầy và rộng nhất

Sơ đồ Hoàng thành cổ
Nơi hội tụ dấu tích nghìn năm văn hiến
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội là di tích có bề dày lịch
sử, trải dài hơn 10 thế kỷ, kể từ thành Đại La tiền Thăng Long và nhất là từ thời
vua Lý Thái Tổ (thế kỷ thứ X) đến thời đại Hồ Chí Minh. Khu di tích trung tâm
Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội có diện tích 18.395 m2, bao gồm Khu di tích
Thành cổ Hà Nội và di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu (phường Điện Biên,
phường Quán Thánh, quận Ba Đình).
Theo Giáo sư Phan Huy Lê- Chủ tịch Hội Khoa học- Lịch sử Việt Nam,
Hà Nội có khối lượng di tích được xếp hạng quốc gia rất lớn, đứng đầu cả nước với
gần 400 di tích. Nhưng trong các di tích này, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng
Long có giá trị đặc biệt quan trọng, thể hiện ở 3 điểm cốt lõi sau:
- Thứ nhất, tại đây có các di tích trên mặt đất rất quí giá như: nền điện
Kính thiên, Đoan Môn, Bắc Môn, cột cờ Hà Nội, rồi Tổng hành dinh của
Quân đội nhân dân Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh. Hệ thống các di tích và
hiện vật đã khai quật tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu càng cho chúng ta
thấy trong lòng đất ở khu vực này chứa đựng một dòng chảy văn hoá chảy suốt
cả lịch sử Thăng Long- Hà Nội, bao gồm cả thời kỳ tiền Thăng Long ngược lên
thành Đại La thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ VIII, thứ IX, đặc biệt từ khi Vua
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Lý Thái Tổ định đô Thăng Long cho đến ngày nay. Như vậy giá trị đầu tiên của
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội thể hiện ở chỗ nó gần như là
một "bộ lịch sử sống" chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử Thăng Long- Hà Nội.
- Thứ hai, đây là kinh thành- nơi qui tụ các di sản văn hoá của cả nước,
tinh hoa của nền văn hoá của cả nước. Hơn thế nữa, nơi đây không phải chỉ kết
tinh nền văn hoá của dân tộc, toả sáng ra trong nước, mà còn là nơi hấp thu các
giá trị văn hoá của khu vực và thế giới. Đây vừa là nơi kết tinh, toả chiếu nền
văn hoá lâu đời của nước Đại Việt trước đây, Việt Nam hiện nay, vừa là nơi biến

các yếu tố văn hoá ngoại sinh thành nội sinh, làm phong phú và đa dạng thêm
cho nền văn hoá dân tộc.
- Giá trị thứ ba thể hiện ở chỗ nơi đây là trung tâm quyền lực, trung tâm
chính trị của đất nước. Đây là nơi các vương triều trước đây, cũng như Đảng và
Nhà nước trong thời hiện đại đã đưa ra các quyết sách trong xây dựng đất nước,
cũng như trong bảo vệ đất nước, tạo nên các thời kỳ huy hoàng của lịch sử, vượt
lên bao khó khăn, thử thách.
Qui mô vùng bảo tồn của trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội, là
toàn bộ diện tích của khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu rộng hơn 18 ha, cùng
với khu Thành cổ được bao bọc bởi 4 con đường: phía Bắc là đường Phan Đình
Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn Tri
Phương, phía Tây là đường Hoàng Diệu. Hai khu này được kết nối với nhau. Cứ
hình dung trục trung tâm bao gồm 4 mặt phố ở phía bên này như là bìa của cuốn
sách nơi ta có thể cảm nhận khái quát nhất về trục trung tâm của cấm thành
Hoàng thành Thăng Long, thì lật giở từng trang lịch sử của khảo cổ học từ thời
Đại La, cho đến Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều có thể đọc được những dấu ấn của
di tích, của kiến trúc, của hiện vật để minh chứng cho những điều mà chúng ta
đã biết trong sử sách.
"Với trục trung tâm Hoàng thành Thăng Long và các di tích còn lại trên
mặt đất và tiềm năng trong lòng đất thì khu di tích có khả năng minh chứng làm
sáng tỏ sự hưng thịnh, sự trỗi dậy của nền văn hoá Thăng Long, phản ánh sức
sống của văn hoá dân tộc, nền văn minh Đại Việt và văn hiến Thăng Long đã
được khơi nguồn và phát triển từ đây. Đây là một khu di tích rất quan trọng để
làm sáng tỏ các giá trị văn hoá của Thăng Long- Hà Nội, của dân tộc Việt Nam
nói chung"- ông Trần Quang Dũng- Phó Giám đốc Trung tâm bảo tồn Khu di
tích Cổ Loa- Thành cổ Hà Nội nhấn mạnh.
Nhận diện quy mô kiến trúc Hoàng thành Thăng Long
Khu di tích Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu bắt đầu khai quật
từ tháng 12/2002 và được mở rộng như hiện nay vào giữa năm 2003, với mục
tiêu ban đầu là khai quật giải phóng mặt bằng để xây dựng Trung tâm Hội nghị

Quốc gia và Nhà Quốc hội. Trong 5 năm qua, các nhà khảo cổ đã tổ chức nhiều
cuộc khai quật lớn, thu được rất nhiều di vật quí giá.
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
Ngay sau khi di tích được
phát lộ, giới Khảo cổ học và Sử học
đã xác định sơ bộ khu vực này nằm
trong Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long và Cấm thành Thăng
Long thời Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc,
Lê Trung Hưng và thành Hà Nội
thời Nguyễn. Kết quả khai quật cho
thấy đây là di tích của nhiều triều
đại liên tục kế tiếp nhau trên một
phần thành cũ của Cao Vương mà
trong "Chiếu dời đô" của Lý Thái Tổ vào mùa thu năm 1010 đã nhắc tới; với
nhiều kiến trúc cùng khối lượng đồ sộ của nhiều loại di vật của nhiều thời kỳ
lịch sử khác nhau đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và đặc biệt là sự chú ý
của giới nghiên cứu trong nước và quốc tế.
Trong gần 5 năm qua, Viện Khảo cổ học đã tập hợp nhiều nhà nghiên cứu
và hợp tác với chuyên gia Nhật Bản đã nhận diện qui mô kiến trúc qua dấu tích
còn lại đã xuất lộ. Theo PGS Tống Trung Tín, Viện trưởng Viện Khảo cổ học
Việt Nam, đó là các dấu vết kiến trúc của nhiều thời kỳ của nghìn năm Thăng
Long:
- Lớp dưới cùng là hệ thống kiến trúc thời Tiền Thăng Long thể hiện rõ
qua hệ thống các cột gỗ, các nền móng kiến trúc, đường cống tiêu thoát nước,
giếng nước và di vật như gạch "Giang Tây quân", đầu ngói ống trang trí hình thú
thần, mặt hề và nhiều đồ gốm sứ có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX.
- Lớp kiến trúc thời Đại La là dấu vết kiến trúc thời Lý- Trần (thế kỷ XI-
XIV) biểu hiện rõ qua hệ thống mặt bằng kiến trúc có các trụ móng sỏi kê chân
cột, các lớp nền gạch, chân tảng đá hoa sen, sân gạch, đường cống thoát nước,

đặc biệt là các loại hình di vật trang trí trên mái kiến trúc có kích thước to lớn và
được trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Một số vị trí có dấu tích văn hoá thời Đinh- Tiền
Lê (thế kỷ X).
- Phía trên cùng là lớp kiến trúc thời Lê (thế kỷ XV-XVIII), với dấu tích
của các nền kiến trúc xây bằng gạch vồ, hệ thống giếng nước, đặc biệt là các loại
ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly trang trí rồng 5 móng chuyên dùng để lợp trên
mái cung điện của nhà vua và các loại đồ sứ ngự dụng dành riêng cho nhà vua.
Những dấu tích công trình kiến trúc tiêu biểu đã tìm thấy như: ở khu A
nằm giáp đường Hoàng Diệu, đã tìm thấy dấu tích "kiến trúc nhiều gian" thuộc
Lễ vinh danh hào khí Thăng Long -
Hà Nội
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
niên đại thời Lý- Trần, xuất lộ trong khu vực có chiều dài khoảng hơn 70 mét,
rộng 18m, thể hiện rõ qua hệ thống 40 móng trụ sỏi kê chân tảng đá cột, phân bố
thành 10 hàng, mỗi hàng 4 trụ với 9 gian nhà. Phía Tây của kiến trúc này có hệ
thống 11 cụm nền móng của loại hình kiến trúc nhỏ, được suy đoán là của 11 toà
"lầu lục giác", chạy theo hướng Bắc- Nam, dài 82m.
Kỹ thuật gia cố móng trụ bằng sỏi, gạch, ngói và gốm vỡ mang tính phổ
biến ở thời Lý- Trần là một nét điển hình trong kỹ thuật
gia cố móng trụ khi mà các công trình kiến trúc dựa trên
hệ thống khung chịu lực bằng gỗ, sức nặng của công
trình được dồn nén vào hệ thống chịu lực, sức nặng của
công trình cuối cùng dồn nén xuống chân tảng và hệ
thống móng trụ đã được gia cố bằng những vật liệu sẵn
có của khu vực Thăng Long. Mặt khác, nền móng của
các công trình kiến trúc thời Lý- Trần được xây dựng
trên nền phù sa cổ của sông Tô Lịch, sông Hồng- đã
được gia cố bằng đất sét có thể được chuyển từ nơi khác
đến. Qua nghiên cứu các dấu tích kiến trúc, các nhà
Khảo cổ cho rằng đây là những dấu tích cung điện thời

Lý- Trần có qui mô to lớn, chiều rộng của các bước gian khá lớn, từ 5,8m đến
6m. Vật liệu xây dựng các công trình kiến trúc này được chế tác ở trình độ kỹ
thuật cao, gồm các loại gạch, ngói, đồ gốm, sứ, đá các di vật trang trí kiến
trúc được chế tác cẩn thận với nhiều loại hình phong phú.
Những di vật trong khu khảo cổ học Hoàng thành Thăng Long tại 18
Hoàng Diệu là minh chứng cụ thể về trình độ phát triển cao của kinh tế, văn hoá.
Với sự tôn sùng đạo Phật thời Lý- Trần, nhiều di vật đã mang dấu ấn của Phật
giáo, từ mô hình tháp, chân tảng đá hoa sen, chim, uyên ương Rồng nằm trong
lá đề là di vật mang dấu ấn biểu tượng của thần quyền kết hợp với vương quyền.
Nhiều tiền đồng, đồ gốm sứ của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Á là bằng chứng
cho thấy Thăng Long là trung tâm giao lưu văn hoá với các nước trong khu vực
và tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại.
Nghiên cứu các dấu tích công trình kiến trúc của khu di tích Khảo cổ học
18 Hoàng Diệu cho thấy sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố tự nhiên, dựa theo tự
nhiên trong khu vực bố trí hướng của các công trình kiến trúc và qui hoạch khu
Cấm thành trên cơ sở lợi dụng, tận dụng điều kiện tự nhiên của một vùng đất
vốn có nhiều sông, ngòi, hồ, ao. Đó cũng chính là sự thể hiện một truyền thống
yêu thiên nhiên, gần gũi thiên nhiên, nhằm tạo dựng cảnh quan môi trường lý
tưởng trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, khô và lạnh về
Hiện vật khai quật tại
18 Hoàng Diệu
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
mùa đông. Hướng các cung điện, lầu gác đều tuân thủ theo hướng Bắc Nam (cửa
quay về hướng Nam theo hướng của trục chính tâm khu trung tâm Hoàng thành
Thăng Long).
Theo Giáo sư- Tiến sĩ Đỗ Hoài Nam- Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, giá trị nổi bật và tính độc đáo của Khu di tích trung tâm Hoàng thành
Thăng Long- Hà Nội là có nhiều tầng văn hoá của nhiều thời kỳ nằm chồng xếp,
đan xen nhau, tiếp nối nhau liên tục, không đứt đoạn. Các di tích đó có mối quan
hệ và sự kiên kết lẫn nhau, tạo thành một tổng thể liên hoàn rất phức tạp, nhưng

phong phú và hấp dẫn, phản ánh rõ mối quan hệ về qui hoạch đô thị và không
gian kiến trúc, cũng như sự tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử xây
dựng Kinh đô Thăng Long.
Qua hơn 5 năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ học và các nhà nghiên cứu
văn hoá - lịch sử đã khẳng định thêm và làm sâu sắc hơn các giá trị của Hoàng
thành Thăng Long. Nhiều kết quả nghiên cứu mới được công bố như: phát hiện
kiến trúc Bát giác thời Lý được các chuyên gia Việt- Nhật phán đoàn là công
trình kiến trúc kiểu điện Thiên Khánh (nơi vua nghe chính sự) ghi trong chính
sử. Các chuyên gia Nhật Bản nhiều kinh nghiệm nghiên cứu kinh thành cũng đã
tìm ra được một loại thước được sử dụng thống nhất trong xây dựng Hoàng
thành thời Lý, cho thấy mặt bằng kinh đô thời Lý có qui hoạch rất rõ ràng, qui
củ trước khi tiến hành xây dựng Tiến sĩ Bùi Minh Trí đã nhận ra được loại
gốm cao cấp nhất trong thế kỷ XV của Việt Nam được sản xuất chính tại Thăng
Long, với một kỹ thuật rất cao, mỹ thuật hoàn hảo. Đây cũng chính là gốm sứ
cao cấp xuất khẩu đi các nước Đông Nam Á và một số nước khu vực châu Á.
Những kết quả nghiên cứu này càng khẳng định qui mô và các giá trị nổi bật của
khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long./.
Câu 8: Ngày 10- 10 - 1954, đại quân ta tiến vào giải phóng Thủ đô qua
những cửa ô nào?
b.Ô Cầu Giấy. Còn có 1 tên gọi khác nữa là ô Thanh Bảo. Nay ở quãng bến xe ô tô
Kim Mã (chỗ phố Sơn Tây nối với phố Nguyễn Thái Học) chứ không phải ở chỗ cây
Cầu Giấy bây giờ. Cánh quân tiến vào giải phóng thủ đô của ta từ hướng Tây ngày 10-
10-1954 xuất phát từ địa điểm tập kết “Quần Ngựa” (nay là sân vận động Quần Ngựa)
diễu binh qua Kim Mã , Hàng Đẫy (là tên cũ của phố Nguyễn Thái Học). Cửa Nam…
vào trung tâm thành phố.
c.Ô Cầu Dền. Vị trí cửa ô này nay ở chỗ phố Huế nối với phố Bạch Mai. Ngày 10-
10-1954 cánh quân phía Nam (bộ binh) tiến vào giải phóng thủ đô của ta xuất phát từ
địa điểm tập kết “Việt Nam học xá” (nay là Phường Bách Khoa) tiến qua Bạch Mai,
Đặng Thị Yến Lan . Trường Tiểu học số 2 Hải Chánh
sang phố Huế, qua Hồ Gươm, vòng lại tiếp quản khu “ Đồn Thủy” (các bệnh viện 108

và “Hữu Nghị”), khu Đấu Xảo (Cung văn hóa Hữu Nghị) bây giờ.
Trả lời: Ô Cầu giấy.
Theo bản đồ Hà Nội năm Minh Mạng 12 (1831) thì Hà Nội có 16 cửa ô,
đặt tên theo làng theo tổng. Mỗi cửa ô thời ấy có lẽ là một chiếc cổng ngày mở
đêm đóng bởi mỗi phường như một làng, khép kín, có cây có rào, có tuần đinh
canh phòng để ngăn ngừa đạo chích và dè chừng hoả hoạn. Người Hà Nội từ
giữa thế kỷ XX trở đi đã không còn nhiều người biết đến những cửa ô đã mai
một vào thời gian, chìm đi trong quá khứ. Những cửa ô đó là: Tây Luông (sau
Nhà hát Lớn), Thuỵ Chương (đầu Quán Thánh-Thuỵ Khuê), ông Yên (Hàng
Cau-Hàng Bè), Mỹ Lộc (đầu Hàng Bạc), Trừng Thanh (Hàng Mắm), Phúc Lâm
(Hàng ậu), Thạch Khối (Hàng Than), Yên Tỉnh (dốc Hàng Than), Nhân Hoà
(Hàn Thuyên) chỉ còn được biết mang máng như những hoài niệm đẹp.
Những cái tên còn được nhiều người biết đến ngày nay là những cửa ô Yên Phụ,
ổng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Dền, ống Mác, Cầu Giấy và cửa ô còn lại cái cổng
duy nhất: Ô Quan Chưởng.
Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ tiến vào tiếp quản thủ đô Hà Nội năm
1954. Đúng 8 giờ sáng ngày 10-10-1954, bộ binh của đại đoàn này đã ào ạt tiến
vào Hà Nội từ ba hướng: bắc, tây và nam. Tuyến hành quân theo các hướng đi
qua một vài cửa ô.
Từ hướng bắc, Tiểu đoàn Bình Ca tiến vào Cầu Đuống. Một đoàn xe
GMC và 3 xe bọc thép của quân Pháp chở quân ta đến Ban Liên hiệp đình chiến
đóng tại Nhà thương Đồn Thủy (nay là Bệnh viện 108).
Từ hướng tây, các cán bộ, chiến sĩ của Đại đoàn 308 quân phục chỉnh tề, huy
hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ” cài trên ngực áo trở về trong lòng nhân dân Hà
Nội, giữa một rừng cờ hoa trong sự đón mừng nồng nhiệt của đồng bào. Anh
hùng Nguyễn Quốc Trị, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô và Tiểu đoàn
truởng Tiểu đoàn 54 Trần Đông dẫn đầu đội hình bộ binh tiến từ khu vực Mai
Dịch, qua Ô Cầu Giấy, Kim Mã, Hàng Đẫy, vườn hoa Cửa Nam, Hàng
Bông, Hàng Gai ra Bờ Hồ, qua Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, Hàng Đậu,
Cửa Bắc vào thành Hà Nội.

×