Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Báo cáo về loại gấu ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.99 KB, 18 trang )

BÁO CÁO VỀ LOÀI GẤU VIỆT NAM
NỘI DUNG BÀI BÁO CÁO
1. Đặc điểm, phân bố và hiện trạng của một số loài gấu ở Việt
Nam và trên thế giới
2. Vấn đề nuôi nhốt gấu và sự thật về vấn đề nuôi nhốt gấu.
3. Quản lý nuôi nhốt gấu của các cơ quan chức năng.
4. Hãy bảo vệ loài gấu.
Phân loại khoa học giới:
- Giới: Animalia
- Ngành: Chordata
- Lớp: Mammalia
- Bộ: Carnivora
- Họ: Ursidae
Phần 1: ĐẶC ĐIỂM, PHÂN BỐ VÀ HIỆN TRẠNG MỘT SỐ LOÀI
GẤU Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1. Gấu ngựa Selenarctos thibetanus (Cuvier).
Đặc điểm nhận biết:Gấu ngựa có bộ
lông dày, dài, thô, cứng,màu đen
tuyền. Lông mõm ngắn, mịn, màu
xám nhạt. Bên cổ có bờm lông.Dưới
cổ có yếm trắng hình chữ V.Cơ thể
nặng 150 kg.
Đặc điểm sinh thái và tập tính:Gấu
ngựa sống trong các kiểu rừng khác
nhau, thích hợp với rừng gỗ pha tre
nứa trên núi đá, ở trong các hang đá.
Dáng đi nặng nề, leo trèo tốt, khi
xuống đi thụt lùi. Gặp nguy hiểm có
thể buông mình từ cành cao rơi
xuống đất và trốn. Tính lầm lì, khi bị
tấn công trở nên rất hung dữ, sống


đơn, hoạt động cả ngày lẫn đêm. Gấu
ngựa ăn thực vật (các loại quả sung,
đa, si, vá, dâu da, bứa, trám, giẻ,
chuối, măng tre nứa, bắp ngô) và
động vật (trứng chim và chim non,
thích nhất là mật ong, nhộng và ong
trưởng thành ). Gấu ngựa sinh sản từ
tháng 10, 11 năm trước đến tháng 7,
8 năm sau, thời gian mang thai 6-7
tháng, đẻ 1 lứa/năm, 1-3 con/lứa. Gấu
con đẻ ra yếu, sau 3 năm thì trưởng
thành sinh dục.
Phân bố: Viễn Đông Liên Xô (cũ),
Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc,
Đông Dương, Thái Lan, Miễn Điện,
Assam, Bắc Ân Độ, Apganistan, Việt
Nam (các tỉnh có rừng ). (Nguồn:
ĐVR – Ts.Vũ Thị Nga)
Nguồn : Nguyễn Thượng
Chánh – www.khoahoc.net
Tình trạng bảo tồn:
Tình trạng bảo tồn
Dễ thương tổn (IUCN 2.3)
[1]
Gấu ngựa được đưa vào danh sách trong sách đỏ của IUCN (Hiệp hội bảo tồn thế
giới) như là loài dễ bị thương tổn trong số các động vật đang bị đe dọa. Chúng bị
đe dọa chủ yếu là do phá rừng và mất chỗ sinh sống.
2. Gấu chó Ursus malayanus (Raffles, 1822)
Đặc điểm nhận biết : Gấu chó là loài
gấu nhỏ nhất, có bộ lông ngắn mịn,

màu đen, mượt. Ngực có yếm hình
chữ U màu vàng. Đầu tròn, mõm
ngắn, tai tròn và nhỏ, vùng lông trắng
xung quanh mõm thường mở rộng lên
trên 2 mắt. Cơ thể dài 1.000-1.400
mm và nặng 45-60 kg, đuôi dài 30-70
mm, sọ dài 231-279 mm, gò má rộng
183-215 mm.
Đặc điểm sinh thái và tập tính :
Gấu chó sống trong các rừng cây gỗ
và có thể sống ở những nơi cao nhất.
Gấu chó leo treo giỏi, kiếm ăn chủ
yếu vào ban đêm, thích những cành
cây cao, nơi chúng làm tổ để ngủ,
thường để lại dấu khoan bằng vuốt
đặc thù trên thân cây. Thức ăn gồm
quả cây, động vật không xương sống
và động vật có xương sống nhỏ. Gấu
chó thích ăn côn trùng, đặc biệt là
ong, mối, mật ong và sâu bọ nhiều
hơn các loại gấu lớn khác, cũng có
thể ăn xác chết đã thối. Gấu chó là
loài tấn công rất nhanh nhạy vì vậy
cũng là một trong những loài thú
rừng nguy hiểm nhất. Gấu chó sinh
sản quanh năm, thường đẻ 2 con/lứa,
thời gian mang thai 3 tháng.
(Nguồn :ĐVR – Ts.Vũ Thị Nga)
Phân bố : Burma, Thái Lan,
Malaysia, Borneo, Surmata, Việt

Nam.
Nguồn : Nguyễn Thượng Chánh-
www.khoahoc.net
Tình trạng bảo tồn :
Tình trạng bảo tồn
Thiếu dữ liệu (IUCN 2.3)
[1]
Sách Đỏ Việt Nam (2000) : E
3. Gấu nâu U. arctos (Linnaeus, 1758)
Đặc điểm nhận biết: Gấu nâu có
lông màu từ vàng hoe, nâu, đen hay
tổ hợp của chúng; những chiếc lông
dài bên ngoài thông thường pha trộn
với màu trắng hay bạc, tạo ra ánh
màu "nâu xám". Gấu nâu có u bướu
to là cơ trên vai chúng, nó tạo ra sức
mạnh cho các chân trước để đào bới.
Đầu của chúng lớn và tròn với thiết
diện mặt là lõm.
Đặc điểm sinh thái và tập tính: Là
động vật ăn tạp, chúng ăn quả mọng,
rễ cây và chồi cây; nấm; cá, côn trùng
hay các động vật có vú loại nhỏ. Gấu
nâu ăn chủ yếu là thực vật, chiếm tới
75% năng lượng từ thức ăn của
chúng.
Thông thường chúng là các động vật
sống cô độc, nhưng gấu nâu tụ tập
thành bầy dọc theo các con sông và
suối trong mùa cá hồi sinh đẻ. Cứ

mỗi năm gấu cái lại sinh được từ 1 - 4
gấu con, chúng chỉ nặng khoảng 450g
khi mới sinh.
Phân bố: miền đông Alaska từ
Yukon và Lãnh thổ Tây Bắc, về phía
nam xuyên từ British Columbia cho
đến nửa phía tây của Alberta. Các
quần thể cô lập sống tại tây bắc
Washington, bắc Idaho, tây Montana
và tây bắc Wyoming. (Nguồn:
Wikipedia)
Nguồn: Wikipedia - Công viên Động
vật Pyrénées - Pháp
Tình trạng bảo tồn:
Tình trạng bảo tồn
Ít quan tâm (IUCN 3.1)
[1]
4. Gấu trúc Airulopoda melanoleuca (David, 1869)
Gấu trúc lớn hay gấu mèo lớn Trung
Quốc (Ailuropoda melanoleuca, tên
này nghĩa là "con vật chân mèo màu
đen pha trắng") là một loài thú hiện
nay được phân loại trong họ Gấu, có
nguồn gốc ở miền trung Trung Quốc.
Tên tiếng Hán của nó là đại hùng
miêu
Mặc dù được xếp vào bộ Ăn thịt,
thức ăn chủ yếu của chúng là thực
vật. Chúng ăn các cành non và lá cây,
sống chủ yếu trên các cây tre, trúc.

Ngoài ra chúng cũng ăn trứng và một
số loài côn trùng. Những thức ăn này
là nguồn cung cấp protein
Gấu trúc sinh sản kém và tỉ lệ chết
của con non rất cao. Chúng lớn chậm
và trưởng thành muộn khi đã 5 đến 7
năm tuổi. Mùa sinh sản từ giữa tháng
3 đến giữa tháng 5
Gấu trúc sống trong các khu vực
miền núi, như Tứ Xuyên và Tây Tạng
(Nguồn: Wikipedia)
Nguồn: Wikipedia
Tình trạng bảo tồn:
Tình trạng bảo tồn
Cực kì nguy cấp (IUCN 3.1)
Gấu trúc là loài đang gặp nguy hiểm do khu vực sinh sống bị thu hẹp và tỷ lệ sinh
sản rất thấp, kể cả trong tự nhiên lẫn trong tình trạng giam cầm. Khoảng 1.600 con
được coi là còn sống trong tự nhiên.
5. Gấu bốn mắt Tremarctos ornatus (Gervais, 1855)
Gấu bốn mắt còn được gọi là gấu
Andes, có lông đen với màu be đặc
trưng ngang trên mặt và phần trên
của ngực. Con đực có thể nặng tới
130 kg, và con cái là 60 kg. Gọi là
bốn mắt vì mắt gấu có một vòng
quanh bên ngoài như đeo kính.
Thức ăn cơ bản của chúng như rễ
cây, lá, chồi non, quả mọng, và đôi
khi là côn trùng, động vật gặm nhấm
và xác chết thối. Chúng cũng có vuốt

dài và sắc bén để đào rễ cây và nhổ
bật chúng lên.
Mặc dù gấu bốn mắt có xu hướng
sống cô độc để tránh cạnh tranh,
nhưng chúng là loài không có lãnh
thổ riêng. Khi bắt gặp con người hay
các con gấu bốn mắt khác, chúng sẽ
phản ứng rất hiền lành nhưng cẩn
trọng, trừ khi kẻ xâm phạm được coi
như là sự đe dọa đối với chúng.
Gấu bốn mắt cư trú xung quanh lưu
vực nhiệt đới thuộc dãy Andes ở cao
độ chủ yếu từ 1.900 - 2.400 m.
Nguồn: Wikipedia - Vườn thú
Tennōji, Osaka.
Tình trạng bảo tồn:
Tình trạng bảo tồn
Dễ thương tổn (IUCN 2.3)
Sau gấu trúc Trung Quốc chúng là loài gấu đang gặp nguy hiểm nhất trong số tất
cả các loài gấu hiện nay còn trên thế giới
6. Gấu lợn Melursus ursinus (Shaw, 1791)
Đặc điểm nhận biết:Chúng có lớp
lông dài có màu từ nâu vàng đến đen,
có mõm trắng và mũi đen. Con đực
lớn hơn con cái. Chúng dài khoảng
1,5-1,9 m, con đực có thể cao tới 1,8
m và cân nặng 80-140 kg. Con cái
nặng khoảng 55-95 kg, cao khoảng
0,6-0,9 m.
Đặc điểm sinh thái, tập tính:Chúng

chủ yếu ăn kiến và mối. Khi cần thiết
chúng có thể ăn mật ong, hoa quả,
ngũ cốc và thịt. Kẻ thù chủ yếu của
chúng là báo hoa mai, chó sói, hổ và
con người. Con người săn bắt chúng
chủ yếu là
để lấy mật, là chất có giá trị của y học
phương Đông. Gấu lợn đôi khi cũng
được sử dụng vào mục đích giải trí
như trong các rạp xiếc.
Phần lớn gấu cái đẻ vào tháng 9 đến
tháng 1. Thời kỳ mang thai kéo dài 6-
7 tháng. Thông thường gấu mẹ sinh
từ 1 đến 2 con, hiếm khi thấy 3 con.
Gấu cái thông thường tìm hang hay ổ
để đẻ.
Phân bố: Ấn Độ, Nepal, Bangladesh
và Sri Lanka
Nguồn: Wikipedia - Vườn thú quốc gia Smithsonia, Washington, D.C.
Tình trạng bảo tồn:
Phần 2:VẤN ĐỀ NUÔI NHỐT GẤU VÀ SỰ THẬT VỀ VẤN ĐỀ NUÔI
NHỐT GẤU
1. Nguồn gốc của việc nuôi nhốt gấu:
Đầu những năm 80, Bắc Hàn đã nảy ra sáng kiến trước tiên về việc nuôi gấu để
lấy mật. Thường là các thợ săn vào rừng rình bắt gấu con lúc gấu mẹ rời hang để
đi kiếm ăn. Nếu gấu mẹ trở về bất thình lình thì sẽ bị bắn chết. Gấu con đem về
thành phố và được bán lại cho các chủ nuôi. Sau thời gian nuôi dưỡng từ một hai
năm thì gấu bắt đầu bị rút mật.
Năm 1983, Nam Hàn nối gót theo Bắc Hàn và mở trại nuôi gấu.
Đến năm 1985, tới phiên Trung Quốc và năm1993 thì Việt Nam cũng nhảy vào

việc khai thác gấu để lấy mật.
Theo WSPA, hiện nay tại Á châu có lối 12.000 gấu đen bị nuôi giam trái phép để
rút mật.
2. Tình hình nuôi nhốt gấu tại Việt Nam
Việt Nam bắt đầu nuôi gấu để lấy mật
từ năm 1993.
Gấu con được các thợ săn bắt từ
trong rừng và đem lén về thành phố
bán lại cho những nơi khai thác gấu
để rút mật. Đôi khi gấu cũng được
con buôn nhập lậu từ Lào. Đây là một
hình thái kinh doanh “trái phép bị
luật pháp cấm” nhưng vẫn thấy đầy
rẫy, càng ngày càng bành trướng
thêm lên từ Bắc chí Nam
Trên 95% gấu nuôi là gấu ngựa. Số
còn lại là gấu chó Hai loại gấu này
không thể sinh sản trong điều kiện
giam hãm được. Cả hai đều thuộc
diện động vật cần phải bảo vệ vì có
nguy cơ bị tuyệt chủng và nằm trong
danh mục I của CITES. Mỗi trại nuôi
có từ 5 -10 con nếu là trại nhỏ, và trại
lớn có thể có tới 80-90 con gấu.
Theo ông Hà Công Tuấn cục phó Cục
Kiểm Lâm (BộNN&PTNT) cho biết,
năm 2003 có hàng ngàn con gấu đang
được nuôi trái phép. Việc nuôi gấu là
Tình trạng bảo tồn
Dễ thương tổn (IUCN 2.3)

[1]
vi phạm công ước CITES về buôn
bán các loài động thực vật hoang dã
đã nguy cấp, mà Việt Nam đã ký kết
cùng với 171 quốc gia khác. CITES
bắt buộc Việt Nam phải tìm cách giải
quyết vấn đề gấu nuôi, bằng không
thì sẽ bị mất quyền xuất cảng các mặt
hàng như: san hô, trai tai tượng, trăn
con, khỉ đuôi dài, ếch đông lạnh và cá
sấu.Tính ra trong cả nước hiện có
khoảng 5.000 con gấu được nuôi để
lấy mật.
Sáu điểm nóng nuôi nhốt gấu ở Việt Nam gồm có Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng,
Nghệ An, Bình Dương và TP Hồ Chí Minh. (Nguồn: Nguyễn Thượng Chánh –
www.khoahoc.net)
Animals Asia Foundation cho biết là, Việt nam hiện chỉ còn trên 100 con gấu đang
thật sự sống trong thiên nhiên.
3. Tác dụng của mật gấu
Mật gấu có chứa chất gì?
Hoạt chất chính của mật gấu là chất Tauro Ursodeoxycholic Acid (UDCA). Chất
này do gan sản xuất ra để giúp vào việc tiêu hoá thức ăn. Mật được tích trữ trong
túi mật nằm dính vào lá gan. Chỉ có loài gấu ngựa mới sản xuất được một số lượng
UDCA đáng kể mà thôi.
Mật gấu chữa được bệnh gì?
Nói chung, phía Đông y cho rằng mật
gấu rất tốt để chữa trị được rất nhiều
bệnh tật.
Theo Hải Thượng Lãn Ông, thì mật
gấu có tính hàn, làm giảm nhiệt, bớt

co giật, giải độc,trị kinh phong ở trẻ
con, trị đau bụng, trị bệnh trĩ, thoa
bên ngoài để trị mụn nhọt sưng đau,
bóp với rượu để trị chấn thương bầm
dập té ngã.
Theo Bs Phó đức Thuần, Viện y học
cổ truyền VN, mật gấu ngoài những
công dụng chữa trị những bệnh vừa
được nêu trên, nó cũng rất tốt để trị
các bệnh về mắt, vàng da, đau răng lở
miệng, viêm khớp và các bệnh ký
sinh trùng.
Ngược lại, mật gấu chó thì chứa quá
nhiều chất Chenodeoxycholic Acid
(CDCA). Chất này dùng để bôi ngoài
da thì rất tốt, nhưng nếu uống vào có
thì thể độc cho gan và gây xơ gan
Theo Tây y, thì mật gấu hay nói rõ
hơn là chất UDCA trong mật gấu có
tác dụng bảo vệ gan, chữa viêm xơ
gan, giúp làm tan sỏi mật, hạ các chất
mỡ trong máu, trị viêm gan tự miễn,
và phối hợp với thuốc khác trong việc
điều trị cancer ruột già.
Giá cả mật gấu trong nước và quốc tế
Theo Hiệp hội bảo vệ động vật hoang dã trên thế giới (WSPA/2002), một túi mật
gấu săn trong rừng được bán lậu tại Canada, Nga và Trung Quốc với giá là 650$
Tại Đại Hàn giá có thể leo lên đến 10.000$, trong khi tại Nhật bản túi mật gấu
được bán với giá 252$/ gram Tại Việt Nam, thị trường mật gấu rất thay đổi. Lúc
cực thịnh năm 2000 -2002, giá 1cc mật gấu nuôi bán lẻ vào khoảng 250.000 đồng.

Giá cả hiện giờ là 160.000-200.000 đồng/cc (Nguồn: Nguyễn Phương Dung-
Phòng truyền thông - ENV)
Giá bán lẻ thay đổi tùy theo từng quốc gia, tùy theo từng vùng và tùy theo lúc.
Thông thường thì giá một túi mật gấu rừng đắt hơn giá túi mật lấy từ gấu nuôi
Tại Trung Quốc, trong tình trạng nuôi giam, mỗi con gấu có thể sản xuất được 2kg
bột mật khô/năm. Giá 1kg bột mật khô tại Trung Quốc là 5.000 $/kg và tại các
quốc gia khác là 15.000 $/kg. Người ta tin tưởng rằng mật gấu rừng tốt hơn mật
gấu nuôi.
4. Sự thật về vấn đề nuôi nhốt gấu
Gấu là loài thú được công ước quốc tế bảo vệ. Việc săn bắt gấu và khai thác gấu
để rút mật là trái phép và đã bị nhiều tổ chức quốc tế như CITES (Convention on
International Trade in Endangered Species) cực lực tố cáo cũng như các Tổ chức
Bảo vệ Động vật Hoang dã như WSPA (World Society for the Protection of
Animals) và Tổ chức Động vật Á châu (Animals Asia Foundation) lên án thậm tệ.
Muốn có mật gấu thì thợ săn phải vào rừng giết gấu để lấy mật, đồng thời cũng bắt
luôn cả gấu con đem về thành bán lại cho người ta nuôi để lấy mật sau này.
Điều kiện nuôi gấu cũng như cách rút mật vô cùng dã man, tàn nhẫn vô nhân đạo
và rất đau đớn cho con vật. Quả thật đây là một thảm họa chung của loài gấu.
Không những chỉ có mật gấu mà thôi, đôi khi con buôn còn tàn nhẫn vô nhân đạo
hơn nữa đến mức chặt rời hai bàn tay của con vật đem bán để nấu cháo ăn cho bổ.
Giá bán tại Đông nam Á là 700 $/một bàn tay gấu mà Đông y còn gọi là hùng
chưởng.
Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra mật gấu nuôi không hề có tác dụng chữa
bệnh như quảng cáo mà thậm chí còn độc hại, do có lẫn mủ máu, dư lượng chất
gây mê, kháng sinh Ngay cả mật gấu tự nhiên cũng đã có nhiều loại thuốc thay
thế rất hữu hiệu mà không nhất thiết phải giết hại gấu để lấy mật.
Các trại gấu xoay sang móc nối với các đơn vị làm du lịch, đưa khách nước ngoài
đến tham quan và mua các sản phẩm từ gấu như chân tay, rượu gấu, mật gấu để
thu lợi bất chính
Theo TS Nguyễn Xuân Đặng, Trưởng Phòng Động vật học thuộc Viện Sinh thái

và Tài nguyên Sinh vật, Gấu ở Việt Nam sẽ nhanh chóng tuyệt chủng nếu hoạt
động săn bắt và khai thác sản phẩm từ gấu không chấm dứt.
Gấu bị nhốt riêng biệt trong lồng sắt
chật hẹp bẩn thỉu, xếp thành từng giải
dài trong những trong những gian
chuồng to lớn. Cách lấy mật vô cùng
dã man và rất đau đớn dối với loài
gấu.
(Nguồn : Nguyễn Thượng Chánh –
www.khoahoc.net)

(Nguồn: www.tintuc.timnhanh.com)
Gấu cần phải được săn sóc, chữa trị bệnh tật đến khi lại sức mới có thể thả lại vào
rừng. Vì bị nhốt lâu năm quá, gấu có thể đánh mất khả năng sinh sống trong thiên
nhiên và không còn biết cách tự kiếm ăn, vậy việc gởi gấu vào các trại cứu hộ là
điều rất cần thiết trước khi thả chúng lại trong thiên nhiên.
Rút mật gấu – Một việc làm tàn ác
Thường thì gấu bắt đầu bị rút mật khi đạt được một tuổi và mật bị rút trung bình
mỗi năm 4 lần, hoặc có khi nhiều hơn. Gấu bị nhốt thường trực trong những
chuồng sắt chật hẹp. Đây là một cực hình, là nỗi kinh hoàng và là sự đau đớn mà
con thú phải thường xuyên chịu đựng.
Cách rút mật theo kiểu VN có vẻ “khoa học” hơn so với những kiểu được Trung
Quốc thường áp dụng hiện nay.
Tại Việt Nam, trước khi rút mật người ta đánh thuốc mê cho gấu ngủ đi để dễ làm
việc.
Một chuyên viên nạp một ống thuốc mê Ketamine (Special K) có gắn sẵn kim ở
đầu vào một ống tube dài. Ketamine được thổi xuyên qua ống tube và bay cắm
phập vào thân con vật. Vài phút sau thấm thuốc, con gấu sẽ lảo đảo và té một cái
rầm trong chuồng sắt. Khi lưỡi gấu thè qua một bên đó là dấu hiệu nó đã mê rồi.
Ketamine là loại thuốc gây mê ngắn hạn. Thuốc nầy vẫn thường được sử dụng

trong lĩnh vực thú y tại Bắc Mỹ. Gấu được lôi ra khỏi chuồng, trói lại, và người ta
dùng máy siêu âm rà tới rà lui trên bụng gấu để xác định vị trí của túi mật.
Sau khi xác định rõ túi mật trên màn ảnh, người ta dùng kim dài 20 cm đâm vào
túi mật để rút mật. Vấn đề nhiễm trùng, abcès, viêm túi mật,viêm màng bụng có
thể xảy ra sau khi rút mật nếu nơi đâm kim vào hoặc dụng cụ không được khử
trùng kỹ lưỡng. Con vật đôi khi chết vì bị nhiễm trùng.
Nguồn: Báo ảnh Việt Nam

Ống tiêm, lọ thủy tinh để chiết mật sau khi hút, máy siêu âm, máy hút mật -
M.Hà- Tuổi trẻ online
Phần 3: QUẢN LÝ NUÔI NHỐT GẤU CỦA CÁC CƠ QUAN CHỨC
NĂNG
Công văn số 127 ngày 28/2/2003 của Chi cục Kiểm lâm cho biết: số lượng gấu đang bị
nuôi nhốt tại Việt Nam lên đến 2409 con so với 446 con của số liệu tháng 4/1999. Gấu
ngựa chiếm tới 96% trong số gấu bị nuôi nhốt.
Tại Nghị định số 18-HĐBT ngày 17/01/1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và Quy định
chế độ quản lý, bảo vệ trong đó nêu rõ: Các loài Gấu hiện đang sinh sống trong
Môi trường tự nhiên ở Việt Nam, được xếp loại động vật hoang dã quý hiếm (Gấu
chó: nhóm IB, Gấu ngựa: nhóm IIB), nghiêm cấm săn bắt, khai thác và sử dụng
dưới mọi hình thức. Chỉ thị số 359/1996 cấm việc nuôi nhốt gấu ở Việt Nam. Công ước
quốc tế CITES xếp 2 loài gấu trên vào danh sách các loài động vật cấm buôn bán.
Trước áp lực của CITES vào năm 2005 vừa qua ,VN đã cho gắn vi mạch chip điện
tử cho lối trên 4000 con gấu nuôi. Mục đích để dễ kiểm soát số gấu nuôi, ngăn
ngừa tình trạng thay thế gấu thường xuyên bằng những gấu mới mua để bổ xung
đàn gấu Chip, mua của Đức với kinh phí tài trợ của tổ chức WAR.Vi mạch nhỏ
như hạt gạo được gắn dưới da nơi vai gấu và có ghi đầy đủ lý lịch cần thiết của
con vật.
Tổng số gấu sau khi gắn chip trên cả nước là 4.349 con, nhiều nhất là Nghệ An
578 con, Hải Phòng 521 con, Hà Tây 551 con (Theo ông Chu Ngọc Quân,

chuyên viên Văn phòng CITES)
Trung tâm Cứu hộ Gấu Tam Đảo (Vỉnh Phú) ra đời tháng 2/2008 nhằm cải thiện
tình hình nuôi nhốt gấu. Trung tâm này nằm ở miền Bắc và do Tổ chức Động Vật
Á Châu (Animals Asia Foundation) phối hợp với Cục Kiểm Lâm Việt Nam, thực
hiện theo mô hình Trung Tâm Cứu hộ Gấu Tứ Xuyên (Trung Quốc). Hiện Trung
tâm Tam Đảo đã thu nhận trong giai đoạn đầu 80 gấu, và sẽ tăng lên 200 con trong
giai đoạn tới. Vừa qua tỉnh Kiên Giang cũng đã ký thoả thuận với Tổ chức
Wildlife At Risk (WAR) và Quỹ Bảo tồn Gấu Thế giới để thực hiện công trình
xây dựng một trung tâm cứu hộ gấu tại Hòn Me, thuộc Huyện Hòn Đất với kinh
phí nửa triệu dollars. Trung tâm bắt đầu được xây dựng từ 2/2008 đến 12/2010.
Một số hình ảnh về Trung tâm Cứu hộ Gấu Tam Đảo: (Nguồn: Báo ảnh Việt Nam)
Đoàn xe container loại 40 feet vận chuyển 19 con gấu đang trên đường từ Bình
Dương ra Trung tâm Cứu hộ gấu Việt Nam ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc).
Đội cứu hộ chuyển cá thể gấu đầu tiên vào khu cách li của Trung tâm Cứu hộ gấu
Việt Nam ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc) để các chuyên gia thú y của AAF tiến hành
kiểm tra sức khỏe.
Các chuyên gia thú y của AAF, tiến hành siêu âm
kiểm tra nội tạng và nhịp tim của một cá thể gấu vừa được cứu hộ.
Trong môi trường bán hoang dã ở Trung tâm,
gấu sẽ có điều kiện sớm hồi phục sức khỏe sau một thời gian dài bị giam nhốt.
Phần 4: HÃY BẢO VỆ LOÀI GẤU
Mật gấu thật sự có cần thiết cho chúng ta không?
Câu trả lời là KHÔNG!
Từ trước tới nay khoa học đã nghiên cứu rất tường tận về mật gấu và họ đã tìm ra
được hoạt chất chính của mật gấu là chất UCDA rất tốt cho hoạt động của gan,
giúp trị xơ gan và đồng thời có thể làm tan sỏi mật. Ngày nay chất UCDA được
tổng hợp rất dễ dàng từ mật bò, bán rất rẻ và dễ tìm trong các pharmacy, vậy cần
gì phải giết gấu làm gì.
Con buôn thiếu lương tâm và chính phủ của một số nước ở Đông Nam Á vẫn biết
rõ những điều nói trên,nhưng họ cố tình nhồi sọ dư luận, thổi phòng công dụng

của mật gấu lên vì đây là một món hàng quá béo bổ đem lại quá nhiều xu cho họ.
Đến nay, kỹ nghệ khai thác gấu để lấy mật đã sản xuất ra được một khối lượng
mật quá lớn, vượt xa nhu cầu thật sự trong dân chúng. Mật gấu thừa thải không
còn dược sử dụng trong trị liệu mà lại bị phí phạm đem sử dụng trong những việc
vô bổ không cần thiết như thêm vào trong savon, shampoo hay pha vào rượu
Chính các nhà đông y lỗi lạc tại Hồng Kông và Bắc Kinh cũng xác nhận là có hơn
54 loại thảo dược rẻ tiền và rất dễ tìm trong các tiệm thuốc Bắc, có thể dùng được
để thay thế các tính năng trị liệu của mật gấu.
Vậy tại sao phải dùng mật gấu khi chúng không thật sự cần thiết?
Hãy thay đổi nhận thức của chúng ta để cứu loài gấu thoát khỏi nguy cơ tuyệt
chủng.
Không sử dụng mật gấu và các sản phẩm làm từ gấu!
THE END
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Bài giảng Động Vật Rừng (Ts.Vũ Thị Nga)
2.
3.
4.http:// www.vfej.vn/vn/tin_ngay
5.
6.

×