Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.33 KB, 5 trang )
BỚT OTA VÀ BỚT ITO
(Nevus of Ota, Nevus of Ito)
Bớt Ota lần đầu tiên được mô tả bởi Ota và Tanino vào năm 1939, là u mô
thừa (hamartoma) của tế bào hắc tố ở hạ bì. Biểu hiện là mảng màu xanh hoặc màu
xám ở mặt (ở vùng da chi phối của nhánh mắt và nhánh hàm trên của dây thần
kinh số V), một bên hoặc hai bên cơ thể, bẩm sinh hoặc mắc phải. Ngoài biểu hiện
ở da, bệnh còn có thể biểu hiện ở mắt và niêm mạc miệng.
Bớt Ito lần đầu tiên được mô tả bởi Minor Ito năm 1954, là tình trạng tăng
sắc tố hạ bì ở vùng vai.
Dịch tễ học
Chủng tộc: Bớt Ota và Ito thường gặp nhất ở người Châu Á; ước khoảng
0,2-0,6% người Nhật có bớt Ota. Bớt Ito ít gặp hơn, mặc dù tỷ lệ chính xác chưa
biết rõ. Những chủng tộc khác có tỷ lệ mắc bệnh cao là người Phi, người Anh-
Điêng. Bớt Ota và Ito ít gặp ở người da trắng.
Giới: Bớt Ota tỷ lệ nam:nữ là 1:4,8. Bớt Ito tỷ lệ không rõ.
Tuổi: Bớt Ota có hai đỉnh: đỉnh thứ nhất là thời kỳ nhũ nhi với khoảng 50%
biểu hiện lúc sinh; đỉnh thứ hai là thời kỳ dạy thì. Có một vài ca biểu hiện chậm:
xuất hiện đầu tiên ở người lớn thậm chí người cao tuổi. Bớt Ito khởi phát lúc sinh
hoặc ngay sau đó.
Nguyên nhân: chưa rõ
Lâm sàng
Sau khi khởi phát, bớt Ota phát triển to dần và màu đậm dần; ổn định ở giai
đoạn người lớn. Màu sắc tùy từng người và môi trường như: công việc, kinh
nguyệt, mất ngủ, thời tiết nóng hoặc lạnh. Bớt Ota: dát hoặc mảng màu xanh đến
màu xám vị trí ở trán, thái dương, má, quanh mắt. Hầu hết bớt Ota ở một bên cơ
thể (90%), khoảng 5-10% bị hai bên cơ thể. Ngoài biểu hiện da, bớt Ota còn có thể
có biểu hiện tăng sắc tố ở niêm mạc miệng, ở mắt ().
Về mặt lâm sàng, bớt Ito giống bớt Ota chỉ khác vị trí.Bớt Ito là những dát
màu xanh, xám hoặc nâu ở vai, cánh tay. Bớt Ito thường biểu hiện một bên.
Điều trị
Thuốc bôi không có tác dụng điều trị, chỉ có tác dụng hóa trang để che tổn