Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ôn thi tốt nghiệp và đại học môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.22 KB, 34 trang )

GIÚP ÔN THI TỐT NGHIỆP VÀ ĐẠI
HỌC NĂM 2008.
MÔN VĂN 12.
PHẦN I: TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM.

Bài 1: TÁC GIA NGUYỄN ÁI QUỐC-HỒ CHÍ MINH.(1890-1969)
Câu hỏi:1. Trình bày những nét chính về cuộc đời,sự nghiệp sáng tác văn chương của
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
2. Quan điểm sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.( Tại sao sinh
thời Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh khơng có ý định chọn văn chương làm sự nghiệp chính nhưng
Người đã để lại một số lượng sáng tác đồ sộ-hãy giải thích)
3. Nét chính về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Định hướng trả lời:
Câu 1: Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là danh nhân văn hố,nhà chính trị,nhà hoạt động
cách mạng lỗi lạc đồng thời cũng là nhà báo,nhà văn nhà thơ lớn có vị trí đặc biệt quan trọng trong
lịch sử văn học dân tộc.
- Tiểu sử: Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 tại Nam Đàn –Nghệ An
,trong một gia đình giàu truyền thống khoa bảng,một làng q có nhiều truyền thống văn
hố,truyền thống u nước lâu đời.Lớn lên là lúc đất nước ta nằm trong vòng tay nơ lệ của Thực
dân Pháp,nhiều cuộc đấu tranh nổ ra nhưng đều thất bại.1911 Người ra đi tìm đường cứu nước, sau
nhiều năm đi nhiều nước trên thế giới của các châu lục Á,Phi,Mỹ La Tinh Nguyễn Ái Quốc-Hồ
Chí Minh đã tìm ra được con đường để giải phóng dân tộc.1930 Người thành lập Đảng cộng sản
Việt nam.1945 Người đọc Bản Tun ngơn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ.
Từ đó về sau Người ln cống hiến hết mình cho Đảng ta,nhà nước ta.
Năm 1990 nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Người Tổ chức giáo dục,khoa học và văn
hố Liên hợp quốc (UNESCO) đã suy tơn Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc,nhà văn hố
lớn”
- Sự nghiệp: Sinh thời Hồ Chí Minh khơng xem văn chương là sự nghiệp chính của mình
mà xác định văn chương là vũ khí sắc bén cho nhà cách mạng nên Người đã để lại một sự nghiệp
văn học đồ sộ,phong phú,đa dạng về thể loại,đặc sắc về phong cách sáng tạo, được viết bằng nhiều
thứ tiếng khác nhau trên ba lĩnh vực chủ yếu:


- Văn chính luận: Mục đích sáng tác để hoạt động cách mạng ,đấu tranh chống lại kẻ thù
qua từng chặng đường lịch sử khác nhau . Từ những nănm 20 của thế kỉ XX các tác phẩm chính
luận với bút danh Ngyễn Ái Quốc đăng trên báo “Người cùng khổ”,”Nhân đạo”,”Đời sống thợ
thuyền” đã ảnh hưởng lớn đến cơng chúng Pháp và các nước thuộc địa.Tiêu biểu là tác phẩm “ Bản
án chế độ thực dân Pháp”.
“Tun ngơn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử lớn lao phản ánh khát vọng Độc lập,Tự
do của dân tộc. “Tun ngơn Độc lập” có giá trị pháp lí,giá trị lịch sử ,giá trị nhân đạo,giá trị nghệ
thuật cao nhằm đề cao Chân-Thiện-Mỹ của con người.Đây là áng văn chính luận hay có cấu trúc
chặt chẽ,lí lẽ sắc bén,ngơn từ chính xác…
“Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến”là áng văn chính luận hào hùng tha thiết làm rung
động hàng triệu trái tim u nước. “Di chúc” là lời căn dặn thiết tha chân tình đối với đồng
chí,đồng bào vừa mang tính chiến lược trong sự phát triển của đất nước thấm đậm chủ nghĩa nhân
đạo,nhân văn cao cả.
1
- Truyện và kí: Truyện ngắn của Hồ Chí Minh thường ngắn gọn ,cốt truyện sáng tạo,kết
cấu độc đáo . Mỗi truyện đều có một tư tưởng riêng hấp dẫn ,ý tưởng thâm thuý ,giàu chất trí
tuệ.Tiêu biểu: “Pari”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, “Con rồng tre”, “Vi hành”, “Những trò lố
hay là Va ren và Phan Bội Châu””…
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn có những tác phẩm kí đặc sắc: “Nhật kí chìm tàu”, “Vừa đi
đường vừa kể chuyện”…
- Thơ ca: Đây là lĩnh vực nổi bật nhất có giá trị sáng tạo của Hồ Chí Minh.Thơ ca của Hồ
Chí Minh có nhiều đóng góp lớn cho nền Văn học Việt Nam hiện đại . “Nhật kí trong tù” –tập thơ
viết bằng chữ Hán (gồm 133bài) thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng, tâm hồn
của con người “đại trí,đại nhân,đại dũng”. Tập thơ kết hợp lối viết vừa cổ điển,vừa hiện đại,vừ
thép vừa tình…Thơ Hồ Chí Minh(86 bài) Thơ chữ Hán Hố Chí Minh(36 bài) đã tạo nên sự thành
công trong sáng tác của Người.
Câu 2: Quan điểm sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh thời không có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và
Người không bao giờ thừa nhận mình là nhà văn nhà thơ hay người nghệ sĩ . Nhưng do tài năng
nghệ thuật cũng như nhiệm vụ cách mạng yêu cầu Người đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị.Nói

đến quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh người đọc sẽ thấy được sự đa dạng và thống nhất.
1.Văn học phục vụ cho sự nghiệp cách mạng: Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cái bút là vũ khí
sắc bén,bài báo là tờ hịch cách mạng”.Là nhà cách mạng vĩ đại rất yêu văn nghệ Hồ Chí Minh xem
văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng . Người
đã xác định rõ vai trò to lớn của người nghẹ sĩ trong đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển xã
hội.Tinh thần đó được thể hiện rõ trong bài “cảm tưởng đọc thiên gia thi”:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Chất thép chính là xu hướng cách mạng tiến bộ,là vũ khí sắc bén chống lại quân thù theo
quan niệm của Người nhà văn nhà thơ đòng thời là chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh.
2. Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương.Mỗi
sáng tác của Người bao giờ cũng nhằm một mục tiêu cụ thể Người xác định rõ: Viết cho ai(đối
tượng),viết để làm gì(mục đích),viết cái gì(nội dung),viết như thế nào(hình thức).Bởi vậy ta không
lấy làm ngạc nhiên khi sáng tác của Hồ Chí Minh đa dạng:lúc làm văn,lúc làm thơ ,lúc viết tiếng
Hán,lúc viết tiếng Pháp,lúc tiếng Việt…ngòi bút mang đậm màu sắc cổ điển nhưng rất hiện đại.
3. Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến tính chân thật của văn chương.Theo quan niệm của
Người “văn chương phải miêu tả cho hay,cho chân thật,cho hùng hồn”. Tác phẩm phải phản ánh
được những đề tài mang tính hiện thực cao,ca ngợi những tấm gương “người tốt việc tốt,người thật
việc thật”đồng thời phê phán nhũng thói hư tật xấu.Nhà văn luôn chú ý đến hình thức biểu hiện
trách lối viết cầu kì xa lạ bệnh hình thức.văn chương luôn phát hu và giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt.Quan điểm nghệ thuật trong sáng tác của Hồ Chí Minh “thể hiện chân thật,tâm hồn
trong sáng,lối sống cao đẹp của người Việt Nam đẹp nhất,vĩ đại nhất”(Lê Duẩn)
Câu 3: Nét chính về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Tác phẩm của Hồ Chí Minh. Có phong cách đa dạng mà thống nhất kết hợp sâu sắc giữa
chính trị và văn chương,giữa tư tưởng và nghệ thuật,giữa truyền thống và hiện đại.Mỗi loại hình
văn học đều có phong cách riêng ,độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.Hồ Chí Minh là người
đầu tiên sử dung sáng tạo thành công thể văn chính luận hiện đại.
- Văn chính luận của Hồ Chí Minh bộc lộ tư duy sắc sảo,giàu tri thức văn hoá ,gắn liền
giữa lí luận và thực tiễn mang tính chiến đấu cao. Các tác phẩm đều có lập luận chặt chẽ ,lời lẽ
2

hùng hồn giàu sức thuyết phục.(Ví dụ: Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,Di
chúc…
- Truyện và kí của Hồ Chí Minh được viết với ngòi bút rất chủ động và
sáng tạo,lối kể chân thực tạo không khí gần gũi ,có khi là giọng điệu sắc sảo
thâm thuý và tinh tế.Cốt truyện đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu
xa.Chính Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho nền văn xuôi cáh mạng.
- Thơ ca của Hồ Chí Minh có phong cách đa dạng ;nhiều bài cổ thi hàm
súc uyên thâm,đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật ; những bài thơ hiện đại được
Người vận dụng nhiều thể thơ phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.
(Lưu ý :Học sinh vận dung cả ba câu trả lời để làm câu này có hiệu quả
hơn)
BÀI 2: TÁC GIA TỐ HỮU
Câu hỏi: 1. Trình bày sự nghiệp sáng tác thơ của nhà thơ Tố Hữu.( Hoặc con đường thơ
của nhà thơ Tố Hữu;hoặc nội dung các tập thơ của nhà thơ Tố Hữu)
2. Trình bày phong cách nghệ thuậ của nhà thơ Tố Hữu.
Định hướng trả lời:
1. Tố Hữu(1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành ,sinh tại Huế trong một gia
đình nhà nho nghèo .Bố là người thích sưu tầm ca dao tục ngữ ,mẹ thuộc rất nhiều làn điệu dân ca
miền Trung và rất giàu tình thương con. Sớm có ảnh hưởng lớn từ quê hương ,gia đình đã tạo cho
Tố Hữu một phong cách thơ dạt dào cảm xúc,hơn nữa nhà thơ được kết nạp vào Đảng rất sớm (khi
mới 18 tuổi)và suốt một đời phấn đấu cho lí tưởng cách mạng nên Tố Hữu được xem là “con chim
đầu đàn cho dòng văn học cách mạng”.Con đường đến với thơ của Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp
cách mạng.Các chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc gắn liền với tư tưởng và nghệ thuật
trong thơ Tố Hữu.
a. “Từ ấy”( 1937-1946) : Đây là mười năm hoạt động sôi nổi,say mê từ giác ngộ qua thử
thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử đầy biến
động.Từ ấy gồm ba phần:
- “Máu lửa” :là tiếng reo vui náo nức của một tâm hồn trẻ đang “băn khoăn tìm kiếm lẻ yêu
đời”.Nhà thơ đứng về phía nhân dân lao động,ca ngợi vẻ đẹp của họ,kêu gọi họ đấu tranh chông sự
áp bức .Giọng thơ thiết tha,chân thành,lãng mạn trong trẻo…

- “ Xiềng xích” :ghi lại quá trình đấu tranh của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù thực
dân.Đồng thời, thể hiện sự trưởng thành vững vàng của người thanh niên cộng sản qua những
chặng đường thử thách gian lao…
- “Giải phóng” : thể hiện niềm vui khi giành độc lập,cảm hứng lãng mạn dâng trào trước sự
đổi đời của dân tộc…
b. “Việt Bắc” (1947-1954): chặng đường thơ của Tố Hữu trong cuộc kháng chiến chống
Pháp,thơ hướng vào quần chúng kháng chiến với một nghệ thuật thơ giàu tính dân tộc và đại
chúng.Hình ảnh anh vệ quốc quân,chú bộ đội,người công nhân,bà mẹ Việt Bắc,cháu bé Lượm,Bác
Hồ dã được tác giả thể hiện rất thành công.
-“Việt Bắc” là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp,phản ánh những chặng
đường gian lao và anh dũng của dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn
học kháng chiến chống Pháp.
c. “Gió lộng” (1955-1961) : Thể hiện niềm vui,niềm tự hào tin tưởng ở công cuộc xây
dựng CNXH ở miền Bắc,tình cảm với miền Nam và ý chí thống nhất tổ quốc,tinh thần đoàn kết
quốc tế…
3
“Gió lộng” thể hiện rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn dồng thời thể hiện rõ
cái tôi trữ tình già dặn,sâu sắc hơn.(Ví dụ: Bài ca xuân 1961,Mẹ Tơm )
d. “Ra trận”(1962-1971), “Máu và hoa”(1972-1977):là chặng đường thơ Tố Hữu trong
những năm kháng chiến chống Mĩ quyết liệt và hào hùng của dân tộc cho đến ngày toàn thắng. Là
khúc ca ra trận,mệnh lệnh tiến công,đồng thời cũng là lời kêu gọi,cổ vũ cả dân tộc chiến đấu.Nhiều
bài thể hiện thành cong hình ảnh Hồ Chí Minh (Ví dụ: Bác ơi,Nước non ngàn dặm,Máu và hoa…)
e. “Một tiếng đờn”(1992); “Ta với ta”( 1996): khuynh hướng trữ tình chính trị với sự nhạy
cảm về vấn đề thời sự đã làm cho giọng thơ trầm lắng đậm chất suy tư…
2. Phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu:
Tố Hữu là con chim đầu đàn cho dòng văn học cách mạng,thơ của ông luôn gắn với các
chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc.Phong cách nghệ thuật trong thơ Tố Hữu đa dạng
nhưng rất thống nhất.
a. Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản ,thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng trữ
tình chính trị: Tố Hữu là một thi sĩ đồng thời cũng là một chiến sĩ,ông sáng tác thơ nhằm phục vụ

cho sự nghiệp cách mạng,cho lí tưởng của Đảng .Thơ ông là tiếng gọi đấu tranh ,là bài ca về tình
cảm lớn,lẽ sống lớn ,niềm vui lớn của dân tộc Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua. Mọi sự kiện ,vấn đề
lớn của đời sống cách mạng ,lí tưởng chính trị,những tình cảm chính trị thông qua trái tim nhạy
cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài,cảm hứng nghệ thuật thực sự. “Tố Hữu đã đưa thơ
chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”(Xuân Diệu).(Ví dụ: Từ ấy, Việt Bắc, Bác ơi…)
b. Thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Cái tôi trong thơ
Tố Hữu là cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc .Nhân vật trữ tình trong thơ Tố
Hữu là con người thể hiện tập trung ở phẩm chất giai cấp ,dân tộc mang tầm vóc l;ịch sử,tầm vóc
thời đại.Cảm hứng trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn đó là niềm vui của đất nước của lịch
sử (Ví dụ: Gió lộng,Ra trận,Chào xuân 67,68…)
c. Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình,ngọt ngào tha thiết: Thừa hưởng truyền thống quê
hương ,xứ Huế êm đềm thơ mộng nơi có những làn điệu dân ca ngọt ngào say đắm lòng người,nơi
có nhạc cung đình…Đồng thời thừa hưởng lòng say mê thơ ca của cha và các câu ca dao tục ngữ
,câu hát của mẹ. Xuất phát từ quan niệm “thơ là chuyện đồng điệu ,là tiéng nói đồng ý,đồng
tình,đồng chí…”.Thơ Tố Hữu có giọng điệu rất riêng dễ gần với mọi người.
d. Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc : Xuất phát từ quan niệm sáng tác :thơ gắn liền với
nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng vì vậy phải vận dụng thành công các thể thơ truyền thống của
dân tộc. Tố Hữu đã sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc như lục bát,song thất lục bát,bốn
chữ,năm chữ,bảy chữ và luôn sáng tạo làm phong phú thêm thể loại thơ này.Thơ Tố Hữu trở nên
dễ thuộc,dễ nhớ và rất thân quen với tâm hồn người Việt.Các biện pháp tu từ,các lối so sánh,các
phép chuyển nghĩa được nhà thơ vận dụng biến chuyển linh hoạt.Thơ Tố Hữu rấ giàu nhạc điệu,do
nhà thơ biết phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.(Ví dụ: Mẹ Tôm,Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên…)
Bài 3: TÁC GIA NGUYỄN TUÂN
Câu hỏi: 1.Trình bày những nét chính về con người của nhà văn Nguyễn Tuân( Hoặc đặc điểm về
con người của Nguyễn Tuân )
2.Phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.(Bao gồm cả Sự nghiệp sáng tác)
PHẦN II. NHẬT KÍ TRONG TÙ(HỒ CHÍ MINH)
Câu hỏi : 1. Trình bày nét chính về :hoàn cảnh sáng tác,nội dung và nghệ thuật tập “Nhật kí trong
tù”của Hồ Chí Minh.

4
2. Thiên nhiên trong tập “Nhật kí trong tù”.
3. Giá trị nhân đạo trong tập “Nhật kí trong tù”.
4. Phân tích hoặc bình giảng các bài thơ: Chiều tối(Mộ),Giải đi sớm(Tảo giải),Mới ra tù tập
leo núi(Tân xuất ngục học đăng sơn).
* Phân tích,bình giảng bài “Chiều tối”
Gợi ý:
Mở bài(HS tự làm)
HCM - một người luôn yêu đời, say mê cuộc sống, luôn nhạy cảm với thời gian. “Chiều
tối” xuất phát từ cảnh thời gian buổi chiều, qua hình ảnh cánh chim trở về chốn ngủ, chòm
mây đang lẽ loi trôi giữa bầu trời. Trên chặng đường đày ải mệt mỏi, gian lao vậy mà hồn thơ
vẫn rộng mở bức tranh thiên nhiên vẫn được vẽ nên bằng thơ:
“Quyện … trên không”
(Chim mỏi … tầng không)
Câu thơ giống như bức tranh tuyệt tác được vẽ theo lối cổ điển, trên tấm lụa bằng ngôn
từ, lời thơ uyên bác, bức tranh ấy làm cho độc giả liên tưởng đến thi ca cổ điển:
“ Chủng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
(Lý Bạch)
“Chim hôm thoi thót về rừng”
(Nguyễn Du)
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Thanh Quan)
Ở đây cánh chim bay không phải trong trạng thái bình thường mà bay chầm chậm, bay
mãi miết tới nơi rừng xanh quen thuộc. Với lối chấm phá theo bút pháp tượng trưng: tả ít gợi
nhiều, lấy động tả tỉnh, lấy cái nhỏ bé để diễn tả cái bát ngát mênh mông. Cánh chim, áng
mây chiều thể hiện nỗi cô đơn mệt mỏi gợi ta liên tưởng đến số phận con người. Các từ
“quyện”, “cô” “mạn mạn” như tô điểm cho cảnh vật thêm buồn vắng và quạnh hiu. Sự sống
đang chùng lại trước vũ trụ. Cánh chim mệt mỏi, chòm mây trôi lửng lơ cũng giống như nhà
thơ mệt mỏi bước trên đường đày không biết đâu là chỗ đứng chân qua đêm.
Trong cảnh giải đi: “Năm mươi ba cây số mỗi ngày”, người tù mệt mỏi, tâm hồn và tâm

trạng đồng điệu với thiên nhiên, quay về với thiên nhiên. Cánh chim, chòn mây mang nặng
tâm hồn thi só: Bầu trời có chim, có mây nhưng lẻ loi đơn chiếc. Cảnh buồn, người buồn nhưng
trong nỗi buồn đó ẩn chứa một khát vọng tự do như cánh chim bay trên bầu trời cao rộng.
Hai câu sau cũng nói lên sự vận động tuần hoàn của thời gian, bóng tối dần dần chuyển
giao, nhường chỗ cho ánh sáng để rồi ánh hồng vút lên.
“ Sơn thôn … hồng”
5
(Cô em … rực hồng)
Bức tranh thiên nhiên, cánh chim, mây trời giờ đây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt
ấm áp, gần gũi, quen thuộc trên mặt đất, với hình ảnh một xóm núi cô gái trong công việc lao
động bên bếp lửa gia đình mình. Câu thơ dòch sát nghóa nhưng không thể hiện được ý tứ tinh vi,
không thể hiện được cái hồn các nguyên tắc. Chữ tối thừa ra làm cho thời gian đột ngột chuyển
mạnh, cảnh vật chuyển nhanh làm mất đi cái biên độ nhập nhòa giữa sáng, tối, giữa sự sống và
cõi u tòch. Trong nguyên tác cấu trúc liên hoàn “ma bao túc - bao túc ma”đã kéo dài cái biên
độ ấy làm thành giai đoạn chờ đợi, lo âu để rồi “ánh hồng” rực rỡ xóa tan đi mọi bóng đêm.
Hình ảnh cô em xóm núi xay ngô miệt mài nơi rừng vắng đã đập vào nhãn tuyến người tù
lúc mệt mỏi cô đơn làm cho cảm xúc trào dâng thành những vần thơ tuyệt mỹ. Chất liệu bài
thơ giờ đây đã đổi thay màu sắc cổ điển. Phong vò đường thi được thay thế bằng cái nhìn hiện
đại. Thông thường phải là bếp lạnh lò tăn biểu trưng cho sự cô đơn, lẻ loi, buồn vắng mới phù
hợp với hoạt cảnh người tù, với thiên nhiên ở trên. Nhưng ở đây tác giả đặt vào một ánh hồng
làm thay đổi gam màu cổ điển, biến bài thơ có thêm sức sống mới. Khi bóng tối ngày tàn
buông xuống nhưng không gian không hề tăm tối, con người đã thắp lên ngọn lửa, đã tạo nên
ánh sáng để sưởi ấm thiên nhiên, sưởi ấm cõi lòng. Trong cảnh ngộ nỗi buồn của riêng mình
Bác vẫn tìm đến niềm vui. Niềm vui ấy xuất phát từ lao động. Đó là tình yêu, là sự sống hướng
đến ánh sáng tương lai, đến hơi ấm tình người.
Bài thơ kết thúc là một niềm tin bất diệt vào cuộc sống, niềm lạc quan hướng tới cuộc
đời tự do, bình dò, một hạnh phúc gia đình đoàn tụ của “ánh hồng” ấy chính là chất thép - là ý
chí - là ngọn lửa thắp sáng trái tim người chiến só - nghệ só, vượt lên tất cả mọi hoàn cảnh khó
khăn.
”Chiều tối” cũng như nhiều bài thơ khác trong tập NKTT luôn mượn hình ảnh “mây, gió,

trăng, hoa tuyết nói sông” trong phong cách đường thi để nói đến tâm hồn con người. Toát lên
toàn bộ bài thơ là tấm lòng rộng mở “nâng niu tất cả chỉ quên mình” hướng đến ánh sáng
tương lai. Bài thơ như hiện lên bức chân dung một con người “đại trí,đại nhân, đại dũng” đúng
nhà thơ Hoàng Trung Thông ca ngợi:
“Ngục tối trái tim càng cháy lửa
Gông xiềng không khoá nỗi lời ca”
• Phân tích, bình giảng bài Giải di sớm:
Gợi ý:
GIẢI ĐI SỚM
Tảo Giải
Giải đi sớm được ghi lại một lần trong 18 lần chuyển lao vô cùng gian khổ mà Bác phải
nếm trải. Qua đó,ta thấy hình ảnh tuyệt đẹp mang cốt cách thi nhân - chiến só của người tù.
6
Hai câu đầu là thời điểm cuộc chuyển lao diễn ra nửa đêm về sáng.
“Nhất khứ … thu san”
(Gà gáy … lên ngàn)
Dùng tiếng gà gáy để chỉ thời điểm lên đường,trong suốt “mười bốn trăng tê tái gông
cùm” ấy thấy biết bao lần HCM bò “Giải đi sớm”. Đã bao lần Người phải chòu đau khổ về vật
chất lẫn tinh thần.Nhưng lạ lùng thay sau những lần như vậy tư thế hiên ngang, cốt cách của
con người vó đại vẫn được hiện lên. Câu thơ chưa xuất hiện hình ảnh người tù mà đó là hình
ảnh thiên nhiên,cuộc sống quen thuộc. Tiếng gà gáy như có ý nghóa báo hiệu một ngày mới,
báo hiệu sự sinh sôi nảy nở. Tiếng gà gáy một lần, đêm chuyển canh trời chưa sáng. Tiếng gà
gáy, cái âm thanh quen thuộc ấy lại vang lên nơi đất khách quê người, gợi trong lòng người tù
bao nỗi niềm thương cảm nhớ nhung. Trăng, sao ở đây được nhân hóa: Chòm sao đã ôm ấp
nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu. Một nét vẻ tạo hình trong trạng thái động của thiên nhiên
làm cho cảnh trăng sao càng trở nên hữu tình. Trong khổ ải người tù không cảm thấy cô đơn
mà thả hồn ra bầu trời mênh mông hướng về núi thu,để tận hưởng vẻ đẹp của vũ trụ. Trong
nguyên tác từ “quần” là “bầy” gợi ta ấn tượng đông vui hơn chữ “chòm” trong bản dòch.Từ
“ủng” không hẳn là đưa mà con có nghóa “ôm ấp”… Tất cả như gợi lên một cảm giác không
gian vừa cao rộng, vừa yên tỉnh hoạt động. Câu thơ như hiện lên một tư thế ,tầm nhìn của thi

só: Nhìn cao vời vợi, tư thế lạc quan, ung dung tự tại. Trăng sao là bạn đồng hành của người đi
trên chặng đường gian khổ. Một nét chấm phá theo lối cổ điển: lấy động tả tỉnh, lấy ngoại
cảnh để tả tâm cảnh.
Phải có một tình yêu đời tha thiết, một bản lónh phi thường, một hồn thơ dạt dào tình yêu
thiên nhiên, người tù mới làm chủ được hoàn cảnh để cảm thụ vẽ đẹp thiên nhiên một cách tự
do. “Một nét vẽ, một câu thơ đầy ánh sáng trong một cuộc đời đầy tối tăm và cay
đắng”(Nguyễn Đăng Mạnh).
Hai câu sau là hình ảnh “chinh nhân” bất chấp hoàn cảnh hướng về ánh sáng mà đi tới.
Chinh nhân…………………….trận trận hàn
(Người đi ………………………….gió bàn)
Đêm khuya gió lạnh đến thấu xương. Cái giá lạnh của trời Bắc trong đêm thu như len tận
da thòt. Thế mà ở đây gió cứ từng trận từng trận lạnh (trận trận hàn). Điệp từ “trận trận” như
nhấn mạnh cảm giác nặng nề bởi từng đợt gió liên tiếp đang quất vào mặt. Lẽ thường tình con
người phải sợ phải run trước làn gió ghê người ấy. Nhưng ở đây HCM lại khác,với vai trò là
một tù nhân, thế mà tác giả đã gọi bằng những cách gọi trang trọng: “chinh nhân” “chinh đồ”.
Rõ ràng là đang phủ nhận hoàn cảnh thực tại khẳng đònh tư thế tự do đường đường chính chính
trên con đường lớn. Chữ “nghiêng diện” càng tô đậm tư thế hiên ngang bất khuất của chinh
nhân trên con đường đi. Hai chữ “trận” trong hình ảnh “trận trận hàn” cũng làm nổi bật tư thế
hiên ngang của người tù chiến só. Giọng điệu bài thơ đối lập với hoàn cảnh không phải tiếng
khóc đi đày mà đó là khúc ca hoành tráng của con người trên con đường hướng đến tự do.
Với bốn câu thơ tác giả như vẽ ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên. Bức tranh
ấy có trăng sao, có tiết trơiø, có con người. Ngôn ngữ giản dò súc tích không phô trương màu mè.
Âm hưởng bài thơ tươi sáng lạc quan hào hùng phóng khoáng. Tứ thơ như vượt lên hoàn cảnh
hướng tới bầu trời tự do bằng một hồn thơ mang đậm cốt cách Đường thi: tả ít gợi nhiều, lấy
7
không gian để miêu tả thời gian, dùng cái tỉnh lặng để nói chuyện động, nói bóng tối mà gợi ra
ánh sáng… Câu thơ như giúp người đọc suy nghó bao điều.
II. Phần 2 bài thơ tứ thơ thay đổi,thời gian thay đổi làm cho lòng người cũng thay đổi theo
tối của màn đêm đã nhường chỗ cho ánh sáng ,ngày mới lại bắt đầu:
“Đông phương … nhất không”

(Phương Đông… sạch không)
Cảnh vật, màu sắc không chỉ đã chuyển đổi nhanh chóng. Từ cảnh đêm tối, tiếng gà gáy
như loãng vào cái không gian giá lạnh, bầu trời chuyển sang màu hồng. Tất cả bóng tối được
xua tan, một đêm thu lạnh lẽo thực sự trôi qua. Sau này trong bài thơ “Đi thuyền trên sông
Đáy” Bác viết:
“Thuyền về trời đã rạng đông
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi”
Ở đây một cảnh đẹp cũng là một niềm vui được mở ra. Niềm vui của con người trên con
đường đi tìm chân lý, từ bóng tối chuyển dần lên ánh sáng trong tư thế lạc quan ung dung tự tại
của nhà thơ - người chiến só vó đại.
Hai câu cuối toát lên phong thái một cốt cách thi nhân rất đẹp:
“ Noãn khí … gia nồng”
( Hơi ấm … thêm nồng)
Còn nói gì thêm về nét đẹp con người, trong câu thơ ấy? “chinh nhân” giờ đây đã trở
thành “hành nhân” thư thái ung dung trên con đường rộng của mình. Trước cảnh vật của vũ trụ
bao la, một không khí ấm áp Người như quên đi tất cả mọi đau khổ, tấm lòng ấm lên, vui lên
cùng cảnh vật. Cảm hứng thi só tuôn trào trong hơi ấm nồng nàn của vũ trụ. Hơi ấm ấy như
tiếng reo vui sảng khoái.
Bất cứ ai khi ngồi ngắm cảnh buổi sáng có ánh nắng, có hơi ấm là chuyện thường nhật
hàng ngày. Nhưng đặt vào trong hoàn cảnh tác giả: bò lao tù đau khổ, đói rét … thì thật là thú
vò. Trong cô đơn ,trong cái lạnh giá của thiên nhiên, hơi ấm lòng người hiện lên,cảm xúc thì
những dạt dào. Bài thơ kết thúc không phải là một hình ảnh người tù mà đó là một thi só đang
sảng khoái trước sự biến đổi đẹp đẻ của thiên nhiên,đang nồng nàn cảm hứng thơ. Cái hứng ở
đây không phải khởi sinh từ màu hồng của thiên nhiên mà nó có từ lúc đêm khuya giá lạnh.
Lúc chuyển lao vất vả một cảm hứng lãng mạn được toát lên. Phải chăng đây là những vần thơ
thép, ý chí đấu tranh, tinh thần vượt lên tất cả của người chiến só vó đại HCM. Bài thơ ngời lên
phong thái ung dung, tâm hồn thi só lạc quan của con người “Vật chất tuy đau khổ, không nao
núng tinh thần”.
Giải đi sớm là một bài thơ đặc sắc mang phong vò Đường thi quen thuộc với hình ảnh
“mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông”. Nhưng rất hiện đại trong hình ảnh tù nhân - khách tiên

trên con đường xa ung dung, lạc quan và yêu đời trên bước hành trình từ bóng tối đi đến tương
lai ánh sáng. Bài thơ giúp ta khám phá ra được vẻ đẹp tâm hồn của: người tù - thi só - chiến só
HCM,đúng như lời của nhà thơ Tố Hữu:
“Mười bốn trăng tê tái gông cùm
8
Ôi thân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay … cánh lạc ung dung”
(Tố Hữu)
• Phân tích ,bình giảng bài thơ “Mới ra tù tập leo núi”:
Gợi ý:
MỚI RA TÙ TẬP LEO NÚI
(TÂN XUẤT NGỤC HỌC ĐĂNG SƠN)
“Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi thân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay … cánh lạc ung dung”
(Tố Hữu)
Mười bốn trăng trong nhà tù Tưởng Giới Thạch dường như thể xác HCM bò suy nhược đi
rất nhiều. Nhưng tinh thần của con người “đại trí, đại nhân, đại dũng” vẫn còn ngời sáng. Khi
được trao trả tự do Bác vẫn cố gắng luyện tập từng bước một lên núi cao, vẫn ung dung tự tại,
lạc quan tin tưởng. Hồn thơ vẫn rộng mở qua bài: “Tân xuất ngục …… san ”.
“Vân ủng…………… cố nhân”
( Núi ấp ……………… Xưa)
Thú chơi tao nhã quen thuộc của người xưa thường “yên sơn thưởng nguyệt”(lên núi
ngắm trăng). Lên núi cao để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, để bày tỏ cõi lòng. “Thơ Hồ
Chí Minh thiên nhiên độc chiến một đòa vò danh dự” thì hình ảnh núi sẽ có phần lớn trong danh
dự ấy. Bài thơ “Mới ra từ tập leo núi” cũng mở đầu bằng hình ảnh thiên nhiên cũng núi non
quen thuộc. Nhưng leo núi ở đây là “học”, sau mười bốn trăng tê tái gông cùm, chân yếu, mắt
mờ, tóc bạc phải tập đi từng bước một vậy mà hồn thơ tươi trẻ, cảm hứng thiên nhiên vẫn được
thoát lên:
“Vân ủng………………………….vô trân”

Bức tranh được cấu tạo từ ba hình ảnh thông dụng “mây, núi, nước” lấy từ chất liệu của
thi ca cổ điển. Nhà thơ đang đứng một tư thế rất cao trong cái nhìn bao quát cảnh thiên nhiên.
Trong tư thế nhìn ngang thấy mây núi trùng điệp rất gợi tình. Các điệp từ “vân”, “sơn” được
xếp đặt trong một tư thế rất độc đáo: hai chữ “vân” đóng khép hai đầu vây lấy hai chữ “sơn”
liền nhau ở giữa tạo nên một tư thế giao hoà quấn quýt. Từ “ủng” như một biện pháp nhân
hoá làm cho cảnh thiên nhiên trở lên sống động, ấm áp tình người. Phải chăng khi mới ra tù
sau những ngày dài cô đơn mòn mỏi tác giả muốn gửi gắm khát khao tình yêu thương ? Có lẽ
vì thế mà từ trên cao nhìn thấy lòng sông trong vắt kia nhà thơ muốn soi tận đáy lòng mình.
Một sự so sánh rất hay lòng sông như tấm gương để nhà thơ soi rõ lòng mình - Dùng thiên
nhiên để thanh lọc tâm hồn. Lòng sông cạnh núi non hùng vó vẫn giữ được sự trong sáng như
gương không chút bụi trần.Cũng giống như tấm lòng Hồ Chí Minh, qua bao năm tháng tù đày,
sống gần bùn nhơ của cuộc đời lần đầu tiên Hồ Chí Minh đứng giữa trời đất mênh mông để suy
9
xét chính mình. Người xưa từng nói “người nhân ưa núi, kẻ trí ưa nước”. Bác Hồ được kết hợp
cảhai. Lòng sông như gương trong vắt không chút bụi trần đem lại tươi mát cho đời,cũng giống
như tấm lòng Bác,một tấm lòng trong sáng tuyệt vời trải rộng niềm tin,hy vọng cho cả dân tộc.
Tấm lòng ấy luôn luôn rộng mở, trong sáng mang hương sắc cho đời.(HS có thể lấy những câu
thơ trong tập “Nhật kí trong tù” để chứng minh cho nỗi khổ và tâm hồn của Bác nhằm làm
sáng rõ,sâu sắc luận điểm này)
Hai câu thơ đã thể hiện rõ cái thần thái của một bậc “tiên phong đạo cốt” lấy thiên nhiên
làm điểm tựa cho tâm hồn và phần nào còn thấp thoáng tư cách của một chiến só cộng sản kiên
trinh một lòng gắn bó với đồng chí, đồng bào.Từ nơi đất khách trên đỉnh núi Tây Phong Người
không lúc nào không hướng về tổ quốc, hướng về đồng chí đồng bào đang chiến đấu vì độc lập
tự do:
“Bồi hồi …………………………cố nhân”
(mỗi hội ……………………….bạn xưa)
Tứ thơ được bộc lộ rõ, chất liệu của câu thơ được lấy từ thơ cổ. Đề cái “Đăng cao ức hữu”
(lên cao nhớ bạn) ta từng thấy rõ trong thi pháp Đường thi. Lý Bạch từng lên cao để dõi ánh
mắt theo người bạn thân thiết của mình đang ra đi về phí Tây càng xa,càng xa mãi “Cố nhân
tây từ Hoàng Hạc lâu-Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu-Cô phàm viễn ảnh bích không tận-

Duy khiến Trường Giang thiên tế lưu”. Tuy nhiên tiếng thơ là tiếng lòng của thi só,tâm trạng
của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng. Chữ “bồi hồi” được đặt ở đầu câu gắn với bước chân
của kẻ cô độc như hữu hình hóa một tâm trạng khó tả từ bên trong vọng ra. đây cảnh đẹp,
tình buồn người chạnh nhớ quê hương. Tâm hồn Bác đang hướng đến “Nam Thiên” đang nhớ
tới quốc dân đồng bào, nhớ bạn cũ, nhớ đất mẹ thân yêu. Nỗi nhớ ấy luôn canh cánh trong
lòng kể cả lúc đau khổ tại tù lao nỗi nhớ vẫn trào dâng:
“Ngày đi bạn tiễn đến bên sông
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng
Nay gặt đã xong cày đã khắp
Quê người tôi vẫn chốn lao lung”
(Nhớ bạn)
Trong thơ đường ta cũng từng bắt gặp đề tài “nhớ bạn”. Nhưng đến đây ta lại thấy một
tâm hồn đa sầu, đa tình, đa cảm đúng như lời của Phạm Văn Đồng “vì giàu tình cảm nên
Người mới đi làm cách mạng”.
(HS có thể mở rộng thêm:chất thép,chất tình;cổ điển hiện đại trong bài thơ)
PHẦN 3: TRUYỆN-VĂN XUÔI
VI HÀNH
Nguyễn Ái Quốc
II.Thực hành:
1. Những sáng tạo độc đáo của NAQ trong truyện ngắn “Vi hành”.
10
2. Nghệ thuật châm biến của truyện ngắn Vi Hành.
3. Phân tích nội dung chiến đấu được thể hiện một cách nghệ thuật trong truyện ngắn Vi
Hành ?
4. Bình giảng truyện ngắn Vi Hành.
5.Phân tích nhân vật Khải Đònh.
Gợi ý:
Truyện ngắn “Vi Hành” của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng pháp trong thời kỳ nhà văn
hoạt động ở Pari vào những năm 20 của thế kỷ XX. Bằng nghệ thuật hài hước phương Tây kết
hợp với lối châm biếm đã kích của Phương Đông nhà văn đã sáng tạo nên một thiên truyện

độc đáo nhằm vạch trần chân tướng của tên Vua bù nhìn có nhiều hành vi xấu xa làm nhục
“quốc thể”. Tính độc đáo ấy thể hiện toàn diện ở các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm.
Truyện ngắn hướng vào một vấn đề thời sự, một câu chuyện có thật. Năm 1922 thực dân
Pháp đưa tên vua bù nhìn Khải Đònh sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc đòa ở Véc Xây. Đây là
thủ đoạn chính trò của thực dân Pháp muốn lừa gạt nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp:
Rằng An Nam thuộc đòa đã quy phục lại Pháp, rằng tình hình đông dương đã êm dòu lắm, người
dân Pháp hãy ủng hộ chính phủ tập trung đầu tư khai thác tài nguyên và khai hóa văn minh xứ
sở này. Sự thật này được giới báo chí lên tiếng nhiều. Tuy viết dưới dạng truyện ngắn nhưng
tác giả tường thuật trực tiếp như một bản tin, một thiên phóng sự hóa hư cấu nên một câu
chuyện nghệ thuật khắc họa bản chất và sự thật nhân vật Khải Đònh một cách tinh tế.
Câu tứ truyện thể hiện ở ngay nhan đề Vi hành,lấy câu chuyện trang nghiêm của các bậc
Đế Vương thû xưa nhưng chứa một nội dung hoàn toàn ngược lại nhằm giễu cợt tên vua bù
nhìn. Kẻ đang vi hành trên thủ đô Pa ri hào hoa tráng lệ kia không phải là một bậc minh quân
chí lớn mà là một tên tay sai tầm thường đi vi hành để thỏa mãn dục vọng cá nhân. Làm cho
người đọc “tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi”. Nhan đề có hàm ý móa mai,châm biếm.
Cách dựng truyện của Nguyễn Ái Quốc Trong Vi Hành rất đặc biệt hiện đại. Vừa đơn
giản vừa tinh vi,giọng văn biến chuyển linh hoạt làm cho người đọc đi từ bất ngờ này đến bất
ngờ khác. Câu chuyện được kể dưới hình thức một bức thư. Đây là một thể văn thông thường
trong giao tiếp cuộc sống. Tuy nhiên có hai điều đặc biệt là hai nhân vật tôi và cô em họ và
câu chuyện trao đổi giữa họ là hư cấu 100%. Bức thư không mang lại nội dung trao đổi tâm
tình mà kể một sự việc ngẩu nhiên tình cờ bất gặp trên chuyến đi của người viết. Cấu trúc bức
thư cũng không mang bố cục thông thường mà chỉ thông qua đối thoại đàm tiếu. Mở đầu bức
thư không phải là lời thăm hỏi mà là một đoạn đối thoại đột ngột: “Chính lão ta, không phải
chính lão ta …” Một chuỗi câu vừa khẳng đònh, vừa phủ đònh nối tiếp nhau để mở màn cho câu
chuyện bán tín bán nghi về ông vua đang vi hành.
Câu chuyện tiếp tục bằng một chuỗi nhầm lẫn,từ nhầm lẫn này đến nhầmlẫn khác. Một
ông vua so sánh ngang một thằng hồ. Nhà cách mạng An Nam vô tình cũng biến thành một
ông vua. Sự thật thì chẳng đời nào có chuyện nhầm lẫn quá đáng như vậy. Từ tình huống bòa ra
một cách lô gic tác giả đã dần dần mở ra các khía cạnh của sự thật một cách thuyết phục.
Những nhầm lẫn kia chính là do các hành vi đầy xấu xa của khải đònh. Hắn vi hành chỉ để thực

hiện mục đích các nhân. Một con người chẳng có chút lòng nhan trái lại mặt mũi thì ngây ngô,
điệu bộ thì lúng ta lúng túng, quần áo thì lố lăng chẳng khác thằng “ngợm”: “Cái chụp đèn
11
chụp lên cái đầu quấn khăn, cái ngón tay thì đeo đầy những nhẫn”. Chưa hết, còn bao nhiêu
nét xấu khác: “cái mặt bủng như vỏ chanh” đeo lên người đủ cả bộ lụa là, đủ cả hạt cườm làm
cho thiên hạ phải bật cười.
Đó là sự thật về Khải Đònh có thể cho phép ai trực tiếp hoặc công khai lên án. Nhưng ở
đây nhà văn đã khéo léo giấu kín cái chủ quan của mình mà để cho người Tây tự đưa ra bàn
luận trên đất Tây. Do đó câu chuyện mang lại những hiệu quả nghệ thuật cao hơn. Nhân vật
chính không hiện diện trong truyện một cách trực tiếp mà vẫn lộ nguyên hình. Mặt khác là đối
tượng đang bò đàm tiếu mua vui cho nên nhân vật từ vai sang trọng bò hạ thấp đến mức “đáng
khinh bỉ”.
Để tấn công một cách hiệu quả vào đối tượng nhà văn đã sáng tạo một lối dẫn chuyện
hài hước nghệ thuật châm biếm sâu cay. Nghệ thuật dẫn chuyện căn bản trong tác phẩm là sử
dụng lối đối thoại đàm tiếu, toàn bộ câu chuyện là những mẫu đối thoại lệnh lạc dài dòng để
dồn chứa thông tin nhạo báng đối tượng một cách không thương tiếc. Đôi nam nữ, chuyện
nhầm lẫn vẻ ngoài của Khải Đònh với một người dân châu Á đã bàn tán đàm luận đủ thứ
chuyện. Với những tràng cười hả hê qua hàng loạt những chi tiết nhầmlẫn độc đáo. Phơi lưng
trước tiếng cười biếm họa,hoàng đế trở thành kiểu nhân vật trò chơi. Và luật chơi vừa phóng
túng vừa nghiệt ngã của thể trào phúng. Khải Đònh trong con mắt người Pháp trở thành một
con rối,một trò chơi giải trí “rẻ tiền” một vai hề làm vui mắt họ.
Bên cạnh lối đối thoại đàm tiếu tác giả còn nhân cơ hội xen vào những đoạn ngoại đề về
câu chuyện Vua Thuấn ở nước tàu, vua Pi e ở nước Nga. Họ vi hành mang lại niềm vui cho
mọi người mang ánh sáng văn minh cho đến cho xã hội. Còn Khải Đònh vi hành hoàn toàn
ngược lại. Một loạt những câu hỏi lấp lửng giả vờ của tác giả “phải chăng là, hay là…” làm cho
ngòi bút châm biến của tác giả càng sâu cay đó là cách nói vừa kín đáo vừa thâm thúy. Ngoài
cách nói móamai tác giả còn sử dụng lối viết tạt ngang. Trong khi bám sát đối tượng là Khải
Đònh tác giả còn tận dụng cơ hội mở rộng sang bọn quan thầy Pháp. Tác giả gọi bọn mật thám
là bọn “bán đế giày” và biến chúng thành tên hộ giá cho nhà cách mạng. Với ngòi bút linh
hoạt lúc nói ngược lúc nói xuôi NAQ đã tấn công trực diện vào bọn vua quan bù nhìn bán nước

và bọn thực dân cướp nước xấu xa.
Sức hấp dẫn của toàn bộ thiên truyện còn thể hiện ở cách tổ chức ngôn ngữ hài hước và
giọng văn hóm hỉnh. Để cho Khải Đònh xuất hiện trước mắt người Pháp một cách lố lăng nực
cười tác giả viết “một anh vua đến thật đúng lúc khi mà cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn
ráo như B.Đ.D vậy”. Tác giả nói bóng gió lấp lửng xa xôi,nhưng rất sâu cay làm rõ đầy đủ tất
cả những hành vi mờ ám của tên vua bù nhìn và bọn thực dân cướp nước.
Truyện ngắn Vi Hành là một minh chứng hùng hồn cho tính chiến đấu sắc bén trong ngòi
bút đầy tính sáng tạo của NAQ. Truyện được viết nhằm mục đích chính trò rõ ràng nhưng vẫn
là tác phẩm văn chương đích thực. Cách vận dụng linh hoạt biến chuyển làm cho những sự
kiện thời sự đưa vào không bò khô khan mà đầy thuyết phục. Truyện ngắn Vi hành tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật của HCM: Giản dò hàm súc giàu tính hài hước. Truyện vừa mang
tính sôi nỗi kiểu Phương Tây vừa mang tính thâm trầm sâu lắng kiểu Phương Đông. Vẻ đẹp
của hai nền văn hóa Đông - Tây được kết tinh thể hiện độc đáo trong truyện ngắn này.
12
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh
II.Thực hành:
1. Phân tích tác phẩm “Tuyên Ngôn Độc Lập”
2. Phân tích nghệ thuật viết văn chính luận trong “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Hồ Chí
Minh.
Gợi ý:
Cách Mạng tháng 8 - 1945 thành công đã chấm dứt 80 năm nô lệ dưới ách thực dân và
hơn 1000 thống trò của XHPK. Mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc cho dân tộc Việt Nam. Ngày 2 - 9 - 1945tại Quảng Trường Ba Đình-Hà Nội trước một
triệu người dân trong nước, cùng đông đảo phóng viên báo chí nước ngoài Chủ tòch Hồ Chí
Minh đã trònh trọng tuyên bố bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập không chỉ có giá trò lòch sử to lớn mà còn mang phong
cách nghệ thuật độc đáo giàu sức thuyết phục trong văn chính luận của HCM.
Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn chính luận nhưng là một áng văn chính luận đặc
biệt. Ngoài những lý lẽ,bằng chứng “không ai chối cãi được”. TNĐL còn là bài ca ca ngợi chí

anh hùng cách mạng, là hùng khí thiêng liêng của dân tộc.
Mở đầu bản Tuyên Ngôn tác giả trích dẫn trực tiếp những lời bất hủ trong bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của Mỹ và Tuyên Ngôn Nhân quyền, Dân quyền của Pháp thể kỷ XVIII làm
tựa đề:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được. Trong cái quyền ấy có quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh
phúc”.
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn tự do bình đẳng về quyền
lợi”.
Cách dẫn như vậy bản TNĐL đã đặt vấn đề đối thoại mang tính quốc tế. Trong hoàn cảnh
cách mạng mới thành công, chính quyền còn non trẻ. Đứng trước nguy cơ tái xâm lược
củaThực dân Pháp và những âm mưu gây chiến tranh của đế quốc Mỹ. Chủ tòch Hồ Chí Minh
đã thay mặt dân tộc khẳng đòng cái quyền mà chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã đưa ra
công bố với thế giới về sự xâm phạm chân lý của chúng. Đó là nghệ thuật “lấy gậy ông đập
lưng ông” một cách khéo léo. Trong tranh luận không gì thú vò và đích đáng hơn là dùng chính
lý lẽ đối thủ để thuyết phục và hạ gục đối thủ. Cách đặt vấn đề như vậy có nghóa là đặt cuộc
cách mạng nước ta và bản Tuyên Ngôn của ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng và hai bản
Tuyên Ngôn vó đại của Pháp,Mỹ- sánh ngang tầm Quốc tế.
Một cách kín đáo trong Tuyên Ngôn đó là gợi lại ý chí đấu tranh kiên cường anh dũng,
gợi lại niềm tự hàodân tộc có trong truyền thống. Đó là bài thơ thần của Lý Thường Kiệt năm
xưa trên bờ Sông Như Nguyệt. “Nam quốc sơn hà Nam đế cư-Tiệt nhiên đònh phận tại thiên
13
thư-Như hà nghòch lỗ lai xâm phạm-Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Và âm vang của tác
phẩm“Bình Ngô Đại Cáo” sau 10 năm kháng chiến chống đuổi quân Minh. “Từ Triệu, Đinh,
Lý, Trần bao đời gây lên độc lập. Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương”… Một nước nhỏ đã từng xưng “đế”, một nước nhỏ đã từng làm khiếp vía quân thù.
Một lần nữa bản Tuyên Ngôn đã gợi lên hồn thiêng sông núi, âm vang về niềm tự hào như còn
vang mãi.
Để củng cố vò trí Cách mạng của dân tộc bản Tuyên Ngôn nêu rõ: “Dân tộc ta đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là

yêu cầu đặt ra cho cuộc Cách mạng nước Mỹ năm xưa. Đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc đòa
Bắc Mỹ ra khỏi thực dân Anh. Bản Tuyên Ngôn cũng viết “Dân tộc ta đã đánh dổ chế độ quân
chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đây cũng là tinh thần cơ bản của
cuộc Cách mạng Nhân quyền, Dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.
Bên cạnh vấn đề pháp quyền mang tính nhân loại nói chung đó tác giả Tuyên ngôn đã cụ
thể hóa thành vấn đề dân tộc “Lời bất hủ ấy ở bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 ở nước Mỹ
đã suy rộng ra câu ấy có nghóa là : “Tất cả các dân tộc trên thế giớ sinh ra đều có quyền bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ýù kiến suy rộng ra
này đã tấn công thẳng vào luận điệu khai hóa của chủ nghóa thực dân cách nói ấy không chỉ
khẳng đònh ý chí độc lập dân tộc mà còn có giá trò thức tỉnh nhân loại ý thức về nỗi nhục mà
chủ nghóa Đế quốc đã áp đặt trên thế giới. Nhờ đó mà TNĐL của HCM có giá trò Quốc tế là
đòn đánh trực diện đuổi chủ nghóa thực dân.
Bản TNĐL đã đưa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ hùng hồn đanh thép với những cứ
liệu rõ ràng vạch trần tội ác của chủ nghóa Thực dân và gương cao ngọn cờ chính nghóa của
cuộc Cách mạng dân tộc.Trong khi Thực dân Pháp muốn khoe khoang và tiếp tục chiêu bài
khai hóa thì TNĐL đã vạch trần hành động trái hẳn với đạo lý và chính nghóa mà chúng đưa ra.
Trong 80 năm xâm lược nước ta chúng đã thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ chia rẽ đồng bào
dân tộc ta, tắm các phong trào yêu nước của dân tộc ta trong biển máu, thi hành chính sách ngu
dân, đầu độc mọi người bằng các tệ nạn xã hội, bằng rượu cồn thuốc phiện… vơ vét cả vật chất
của ta, làm cho con người Việt Nam ngày càng kiệt quệ về vật chất suy nhược về tinh thần.
Trong khi Thực dân Pháp muốn kể công bảo hộ thì bản Tuyên Ngôn đã hùng hồn vạch
trần tội ác của chúng vì trong 5 năm chúng hai lần bán nước ta cho Nhật.Trong khi thực dân
Pháp muốn hợp pháp hóa việc tái chiếm Đông Dương thì bản Tuyên Ngôn đã vạch ra ý đồ bất
hợp pháp của chúng: “Sự thực là từ mùa thu năm 1940 nước ta đã trở thành thuộc đòa của Nhật
chứ không phải là của Pháp nữa. Khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi
dậy dành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã dành
độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
Luận điểm này mang ý nghóa pháp lý cực kỳ quan trọng,trước tình thế chính quyền Cách
mạng còn non trẻ. Nó sẽ dần đến một luận điểm đầy thuyết phục “Bởi thế cho nên chúng tôi,
lâm thời chính phủ Việt Nam mới đại diện cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát ly hẳn quan

hệ với Thực dân pháp xóa bỏ những hiệp ước mà Pháp đã Pháp đã ký với Việt Nam, xóa bỏ
tất cả những đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Sức mạnh chính nghóa là sức mạnh
sự thật,lý lẽ không gì thuyết phục hơn là lý lẽ của sự thật. Vì thế khi viết TNĐL Chủ tòch HCM
luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”, “sự thật là”. Cuối cùng Người khẳng đònh “Nước Việt
14
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự trở thành một nước tự do độc lập”. Đấy là
điệp khúc nối tiếp nhau tăng âm hưởng hào hùng của bản Tuyên ngôn.
Còn đối với đồng bào trong nước, bản tuyên ngôn đã dùng lý lẽ chứng cứ khẳng đònh
chắc chắn quyền làm chủ đất nước của dân tộc ta. “Nếu Thực dân Pháp có tội phản bội đồng
minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật thì dân tộc Việt Nam mà đại diện là Việt Minh đã
đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng dành được chủ quyền từ tay Phát xít Nhật”.
Nếu Thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn phản động của chúng ở hành động thẳng tay
khủng bố Việt Minh thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo đối với kẻ thù đã
thất thế. “Sau vụ biến động ngày 9/3 Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên
thùy , lại cứu cho người pháp ra khỏi nhà giam Nhật bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”.
“Một dân tộc gan góc, bền bỉ đấu tranh kiên cường anh dũng, dân tộc đó phải được tự do,
dân tộc đó phải được độc lập”. Tinh thần ấy phải được khẳng đònh rõ trong bản TNĐL: Hướng
độc lập tự do là cái quyền đã có, cần có và mãi sẽ có.
Nếu “Bình Ngô Đại Cáo” xưa kia là một “áng thiên cổ hùng văn” thì cũng có thể gọi
TNĐL của HCM như vậy. Tất nhiên bản Tuyên ngôn không còn ra đời trong thời kỳ văn –sử-
triết bất phân, để đưa vào bài chính luận những hình tượng hào hùng của bài Cáo ngày xưa.
Ngày nay văn chính luận phải vận dụng thật hùng biện đòi hỏi một hệ thống lập luận chặt chẽ,
những luận điểm bằng chứng thuyết phục. Đằng sau đó mang tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn
được đúc kết trong những trang văn ngắn gọn trong sáng,đúc kết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ
đấu tranh vì độc lập tự do và nhân quyền của dân tộc và nhân loại. Bản TNĐL là một sự đóng
góp vó đại trong sự nghiệp của nhà Cách mạng, nhà yêu nước, nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh.
ĐÔI MẮT
Nam Cao
II.Thực hành:
1. Vấn đề “ đôi mắt” được đặt ra trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao như thế

nào? Ý nghóa của đôi mắt dưới việc sáng tác văn chương lúc tác giả viết truyện ngắn này và
hiện nay.
2. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao sau Cách Mạng được thể hiện như thế nào qua tác
phẩm Đôi Mắt
3. Phân tích nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi Mắt
4. So sánh cách nhìn của Hoàng và Độ
Gợi ý:
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là biểu tượng phong phú cho nghệ thuật. Trong hội họa nét
bút “điểm nhãn” là linh hồn nghệ thuật vẻ chân dung. Trong văn chương đôi mắt là biểu
tượng hấp dẫn cho văn nghệ só nơi đó đã diễn tả được những suy nghó của con người. Ca dao
từng viếtù “Mắt thương nhớ ai-Mắt không ngủ yên”. Đôi mắt hiện về trong trăn trở suy tư, trong
tiếng gọi ái tình của nhà thơ TaGo “Đôi mắt băn khoăn của em buồn ”. Quang Dũng từng viết
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới …” Nam Cao cũng nói đến đôi mắt đó là cách nhìn của hai
văn nghệ só Hoàng và Độ và cũng là tuyên ngôn nghệ thuật mới của nhà văn sau CM.
15
Toàn bộ “Đôi mắt” là hình tượng hóa quan điểm sáng tác nghệ thuật chân chính của một
nhà văn CM trong đó cơ sở quan trọng là cái nhìn đúng, cái nhìn toàn diện có chiều sâu đối với
cuộc sống con người mà trung tâm là quần chúng lao động. Cái nhìn ấy là thước đo nhân cách
của nhà văn .Đôi mắt -cái nhìn nghệ thuật đối với cuộc sống và con người của nhà văn được
Nam cao thể hiện qua câu chuyện gặp gỡ giữa hai nhân vật chính Độ và Hoàng. Cốt lõi câu
truyện khá đơn giản xoay quanh cuộc đến thăm của Độ đang làm công tác tuyên truyền kháng
chiến đến thăm nhà Hoàng- một nhà văn đàn anh giàu có từng sống ở Hà Nội nay cùng gia
đình tản cư về nông thôn sống gần những người nhà quê tích cực kháng chiến. Độ đến thăm
Hoàng với mục đích vận động kháng chiến. Anh được tiếp đãi chu đáo nhưng khi thấy cách
nhìn của văn só Hoàng khác mình anh đành “giữ kín trong lòng”.
Đây là hai cách nhìn đối lập trước hiện thực cuộc sống. Những người dân quê đi theo cách
mạng và làm cách mạng với những ưu khuyết điểm của họ. Họ có hai mặt tốt xấu cùng song
song tồn tại. Dưới đôi mắt lệch lạc của Hoàng quần chúng lao động, những người nông dân
toàn là “ngu đần , lỗ mãng, ích kỷ, tham lam bần tiện vừa ngốvừa nhặng xò”. Anh em cha con
chẳng tốt với nhau. Ông thanh niên, bà phụ nữ bây giờ lại càng nhố nhăng. Viết chữ quốc ngữ

sai vần mà hay nói chuyện chính trò rối cả lên. Hoàng đã bộc lộ tất cả những thành kiến của
mình với tầng lớp trụ cột cách mạng. Khi trò chuyện với Độ anh ta quan sát khai thác triệt để,
những ngây ngô của họ biến họ thành những kẻ “đáng khinh bỉ”. Chẳng hạn như những tục lệ
kiên kò cổ hủ của nông thôn những người ơ ûnhờ, không được sinh đẻ trong nhà, chuyện tò mò
hàng xóm được anh ta cố tình khai thác triệt để đến tàn nhẫn. Rồi chuyện dốt nát dẫn đến máy
móc trong cách hỏi đường, cách tuyên truyền mà anh ta quy cho là lôi thôi rắc rối…
Chỉ khai thác những thói hư tật xấu ấy làm cho chàng trí thức mất hết niềm tin vào tương
lai cách mạng. Theo Hoàng những người nông dân đốt nát, xấu xa vừa ngố vừa nhặng xò ấy
không thể làm cách mạng được mà cách mạng chỉ tin cậy vào vai trò cá nhân xuất chúng. Với
cách “nhìn đời một phía” Hoàng đã hùng hồn phát biểu tư tưởng sai lầm của mình “ấy đây tôi
bi quan lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông cụ …
HCM đáng lẽ phải cứu một nước như thế nào kia mới xứng tài”. Với cái nhìn này vô tình đã
biến Hoàng thành một kẻ kỳ thò dân tộc, coi thường quần chúng mang nặng tư tưởng sùng bái
cá nhân Hoàng không thấy được cái vó đại của một lãnh tụ là sự kết tinh dựa trên sức mạnh
đoàn kết quần chúng. Điều này đã đẩy Hoàng xa rời dần với quần chúng nhân dân.Hoàng có
tài bình luận bộc lộ thái độ theo kiểu chê bai một cách nồng nhiệt đến trắng trợn. Đồng minh
với mình là người vợ cùng quan điểm cùng nhìn đời một phía.
Trong cốt lõi vấn đề những điều Hoàng nói ra đều có thực ngay cả những nhân xét chính
xác về khuyết điểm của quần chúng: “Không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố không
chòu được. Tôi thấy có nhiều ông tự vệ cả vệ quốc quân nữa cứ táy máy nghòch súng lay lựu
đạn làm chết người như bỡn…Nhưng mà thôi nước mình đã vậy. Suốt đời không được mó đến
khẩu súng thì làm gì mà biết bắn. Họ đánh mãi rồi cũng biết cứ thế thì cho họ đi đánh Tây đi.
Nhưng tai hại là người ta muốn cho họ làm ủy ban nọ ủy ban kia thế mới chết người ta chứ.
Nói ví dụ ngay như cái thằng chủ tòch ủy ban khu phố Hà Nội lúc chưa đánh nhau nó là anh
chàng bán cháo lòng. Bán cháo lòng thì chỉ biết đánh tiết canh chư biết làm ủy ban thế nào mà
bắt nó làm ủy ban”. Những nhược điểm ấy là hậu quả đáng tiếc cho sự nghiệp cách mạng. Tuy
nhiên Hoàng không thấy đựơc chiều sâu triết lý của nó trong thời kỳ đầu dân tộc ta đang ở
16
trình độ thấp kém,giặc đói,giặc dốt hoành hành, hạn chế này có thể khắc phục được. Hoàng
chỉ đứng trong vỏ ốc cá nhân mà nhận xét.

Đối lập với cái nhìn mặc cảm của Hoàng là cái nhìn biện chứng của nhân vật Độ trong
đôi mắt nhân ái và độ lượng. Cũng như Hoàng Độ cũng thấy những người dân quê có sự dốt
nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhòn nhục một cách đáng thương. Nhưng quan trọng hơn là Độ nhìn
thấy được bản chất tốt đẹp của con người nhà quê. Độ đã từng ngã ngửa người ra khi thấy họ
cùng làm cách mạng và làm cách mạng một cách hăng hái lắm. Độ cũng thấy người dân quê
“răng đen mắt toét” gọi lựu đạn là nựu đạn, hát tiếng quân ca như người buồn ngủ cầu kinh.
Nhưng ra trận thì xung phong can đảm lắm. Kể cả những hiện tượng mà Độ có cảm giác như
họ là những người hèn nhát bò lính ghẹo vợ ngay trước mặt cũng đành im thin thít. Nhưng anh
cũng ngạc nhiên thần phục vì chính họ lại có mặt tại mặt trận một cách gan dạ với kỳ tích
không ngờ. Với cái nhìn đúng Độ đã thấy được người dân quê thật sự là anh hùng là niềm tin
cách mạng.Nếu đôi mắt Hoàng chỉ toàn thấy những mặt trái của người nông dân dẫn đến thái
độ khinh bỉ thì Độ có thể thông cảm cho quần chúng làm cho anh càng tin yêu vào sự nghiệp
cách mạng.
Sự khai thác hai đôi mắt, hai cái nhìn tại thái độ ấy đã giải thích từ nhân cách, điệu sống
của từng nhà văn. Trong tác phẩm bằng hồi tưởng của Độ,Nam Cao đã vạch rõ nhân cách điệu
sống của Hoàng điều đó đã tạo ra cái nhìn sai lầm của nhân vật.Trong quá khứ Hoàng là một
con người kém về nhân cách là bậc văn só đàn anh cũng là tay chợ đen tài tình. Hoàng luôn
chơi bạn và đá bạn sau lưng. Trong lúc cả nước đói khát gia đình Hoàng vẫn phong lưu “con
chó nhà anh không nhòn ăn bữa nào”ù. Sau cách mạng Hoàng vẫn thói quen ấy,ở nơi tản cư với
“căn nhà ba gian sạch sẽ,trồng hoa nuôi chó quý,hút thuốc thơm,ăn mía ướp hoa bưởi,đọc Tam
quốc chí trước khi đi ngủ…”.Cung cách sinh hoạt ấy không xấu nhưng không hợp vì cả nước
đang lo “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”,lo chuẩn bò kháng chiến trường kì,vô tình đã đẩy
Hoàng xa rời với quần chúng.Điều đáng phê phán ở nhân vật là ở nhà quê nhưng Hoàng luôn
đóng cửa kín suốt ngày,xa rời người nông dân.Hoàng chỉ giao lưu với hạng “trí thức nửa
mùa,cặn bã”.
Khác với Hoàng, Độ là một nhà văn trí thức ngày ngày hòa bình vào nông dân vào quần
chúng cách mạng. Độ khoác ba lô đi kháng chiến, làm cán bộ tuyên truyền ăn nghỉ với quần
chúng mà vẫn thấy hạnh phúc. Nam Cao đã cho độc giả thấy được hai nhân cách dẫn đến hai
đôi mắt hai cái nhìn chi phối đến cái tâm và cái tài của nhà văn. Hoàng từng là một nhà văn
bậc đàn anh. Tuy nhiên cái tâm của anh ta lệnh lạc mất cả nguồn cảm hứng nghệ thuật. Ngược

lại Độ đã nhận thức sâu sắc cái tài và cái tâm của nhà văn đã soi sáng cho chân lý nghệ thuật.
Đôi Mắt từ khi ra đời đến nay luôn có giá trò cho những ai đã và đang cầm bút. Trong
thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều nhà văn có hình tượng xa rời quần chúng.
Đôi Mắt lúc này như ánh sáng soi đường cho cái tài và cái tâm của Nghệ só. Đôi Mắt là tuyên
ngôn nghệ thuật của Nam Cao là chân lý của văn chương, chân lý ấy có giá trò đến cả hôm
nay. Khi cuộc sống ngày càng phát triển kinh tế thò trường, cuộc sống chạy đua với khoa học
kỹ thuật yếu tố cần thiết của nhà văn, nhà thơ là cái tâm và cái tài như Văn Só Độ trong tác
phẩm.
17
V CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
Đề văn:
1. Phân tích tác phẩm Vợ Chồng A Phủ của tô Hoài.
2. Giá trò hiện thực và nhân đạo của Vợ Chồng A Phủ
3. Số phận những người dân miền núi cách mạng trong chuyện Vợ Chồng A Phủ của Tô
Hoài.
4. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mò trong chuyện Vợ Chồng A Phủ (từ đầu
cho đến Mò cởi trói cho A Phủ và cả hai cùng trốn khỏi Hồng Ngài).
(C1) Cùng với tiểu thuyết “đất nước đứng lên của” Nguyên Ngọc truyện Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài (in trong tập chuyện tây bắc) là tác phẩm đồng giải nhất giải thưởng văn học
1954 - 1955. Tác phẩm xuất sắc trên nhiều phương diện, trong đó bao trùm hơn hết là giá trò
hiện thực và nhân đạo thông qua cuộc đời hai nhân vật chính: Mò và A Phủ.
(C2) Xưa nay trái tim con người vẫn thường đặc biệt thương cảm trước cái đẹp, cái yếu
đuối ngây thơ, cái thanh tao trong sáng. Hoa tàn, liễu úa, ngọc nát, châu chiếm uốn đã thấu tận
nỗi đau nhân loại. Số phận con người trong đau thương đẫm máu. Trong gian khổ khó khăn
luôn là nguồn cảm hứng cho sáng tác. Chính vì nắm bắt được quy luật ấy giúp cho Tô Hoài
sáng tác được tác phẩm Vợ Chồng A Phủ nổi tiếng.
Vợ Chồng A Phủ tố cáo sâu sắc tội ác của bọn phong kiến miền núi Tây Bắc đối với
đồng bào dân tộc vùng cao. Đồng thời nói lên được nỗi đau khổ của người dân trước cách
mạng, những con người trong khổ đau tự đứng lên giải phóng mình.

Bối cảnh câu chuyện được đặt ra trong thời gian đặc biệt. Khi xã hội thực dân cấu kết
chặt chẽ với giai cấp thống trò ở miền núi ức hiếp dân lành. Mò, A Phủ là nạn nhân chính của
xã hội ấy. Nhà tù thực dân phong kiến mà cụ thế là nhà thống Lý Pá Tra “nhà ăn của dân
nhiều, bóc lột của dân lắm ” lại bóc lột nông dân bằng roi. Khắc ngiệt thắm đẫm máu và nước
mắt của người lao động. Chúng dùng mọi thủ đoạn dã man để ức hiếp dân lành. Chúng tướt
đoạt ruộng đất, cướp của, hãm hiếp người và cay đắng hơn là cướp luôn quyền tự do của con
người.Những người lao động dưới nhà tù ấy quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ”
làm quần quật không được ngẩng đầu lên mà vẫn bò đói rét, bò cực hình. Bằng lòng thương
người cộng với ngòi bút nhân đạo sâu sắc, tài năng miêu tả tác giả dựng lên trước mắt người
đọc một bức tranh con người những bức tranh xã hội đầy rẫy sự bất công, xấu xa đê hèn.
Mò là điễn hình đặc sắc nhất về những thân phận của người nô lệ ở vùng cao. Vốn là một
cô gái con nhà nghèo, tạo hóa lại phú cho Mò một vẻ đẹp hồn nhiên trong sáng như bầu trời
Tây Bắc. Lại là người yêu đời ham sống, cộng với tài thổi sáo. Lẽ ra con người như vậy phải
được hưởng tất cả những hạnh phúc ở đời. Nhưng ngược lại Mò là một món nợ của cuộc đời Mò
không được quyền yêu mà bò cướp về làm dâu gạt nợ tại nhà thống Lý Pá Tra. Giai cấp phong
kiến đã bò lợi dụng tục lệ Phong kiến cổ hữu để bóc lột con người. Lấy chuyện nợ nần “truyền
kiếp ” gia đình thống lý Pá Tra đã bắt Mò về làm con dâu gạt nợ, về trình ma đã biến người
phụ nữ ngây thơ dễ mến bò con ma “vô hình” trói buộc cả cuộc đời. Về nhà thống Lý Pá Tra
làm vợ cho A Sử tàn ác bất lương Mò như một con vật nuôi trong nhà muốn đánh đập tùy ý. Từ
18
đấy Mò chỉ biết “đi theo đuôi con ngựa của chồng” khuôn mặt cứ buồn rười rượi, cũng không
nghỉ ngơi. Ngày nào cũng nhơ đi nhớ lại công việc giống nhau … con trâu con ngựa còn có lúc
nghỉ ngơi còn phụ nữ trong gia đình này phải làm việc suốt cả ngày. Những ngày tết, những
đêm mùa xuân về bao ngày khác chồng có thể đi chơi xuân, đi vui cùng mọi người còn Mò thì
bò hành hạ tra tấn. Người đọc sẽ nghỉ ra rằng, tâm hồn Mò sẽ bò nguội lạnh sẽ khô cằn đi bông
hoa đẹp ở nơi lớp bùn nhơ ? Nhưng ở đây hoàn toàn khác sự sống, ước mơ hiện lên trong đau
khổ. Từ trong đáy lòng nhân vật hiện lên một chút ánh sáng của niềm ham sống, của khát
vọng hạnh phúc. Như lớp tro đen tàn kia lại hiện lên ánh hồng.
Đó là khi mùa xuân về trên núi cao trên bản Mèo tươi đẹp, mùa xuân khơi gợi cho người
dân Tây Bắc một sức sống. Khi sắc xuân nở rộ “trong những chiếc váy sặc sỡ trong đám trẻ

đợi tết, trong tiếng sáo thiết tha bồi hồi khi những đôi nhân tình tìm đến nhau” Mò nghe sáo
vọng lại thiết tha bồi hồi. Mò ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo có một ý nghóa vô cùng quan trọng đối với tâm lý Mò. Ngày trước Mò thổi sáo
giỏi nhất làng, Mò thổi lá hay như thổi sáo nhiều người say mê theo tiếng sáo ấy. Bây giờ trong
hồi tưởng của Mò tiếng sáo hiện lên trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo của những đôi trai gái
vọng về trong đôi tai của Mò. Cái nồng nàn của mùa xuân được tăng lên qua hơi rượu, qua
tiếng ngừời vui say chúc tết. Mò muốn vui với mùa xuân biết bao? Thể xác Mò đang bò giam
cầm nhưng tâm hồn Mò đang hòa cùng mây trời và con người Tây Bắc. Mò cũng uống rượu Mò
lén lấy hủ rượu uống ừng ực từng bát rồi say. Hơi men ngấm dần cộng với âm thanh vui vẻ
trong ngày tết đã làm Mò như sống trong mơ, trong quá khứ, trong những ngày tươi đẹp. Tự
nhiên lòng thấy vui lên Mò chợt nghó ra rằng Mò còn trẻ. Mò muốn đi chơi tiếng sáo gọi bạn tình
đang thôi thúc quyến rũ. Đó là biểu tượng của tình yêu, tự do sự sống mà bấy lâu nay đã quên
nay trở lại. Tiếng sáomùa xuân như khởi dậy trong người con gái đau khổ kia một sức sống
tiềm tàng. Sức sống đó càng mạnh mẽ hơn khi Mò quyết đònh đi chơi hội xuân. Nhưng hiện
thực phũ phàng, ước muốn của Mò bò dập tắt khi A Sử trói đứng mình vào cột. Trong sự đau
đớn của thể xác ấy Mò vẫn sống với tinh thần bất diệt, vẫn say vẫn hướng lòng mình theo tiếng
sáo du dương. Ước mơ đơn giản của con người bò dập tắt, thể xác Mò giờ đây không bằng thân
trâu ngựa.
Người ta từng nói người có thể trói được thể xác nhưng không trói buộc tâm hồn. Lần đầu
tiên Mò vùng dậy chống lại đònh mệnh trớ trêu khi bò bắt đến nhà thống Lý Pá Tra. Mò đònh tìm
đến cái chết nhưng vì tình thương bố, thương gia đình vì tình mẫu tử Mò đành cam chòu. Sống
chòu nhòn để đến ngày “cam lai”. Đây là lần phản kháng thứ hai của nhân vật. Sức sống tiềm
tàng đấu tranh bền bó của con người lại được hiện lên. Ngòi bút nhân đạo của nhà văn đã thể
hiện đúng khát vọng của những người “dưới đây”. Đúng với chân lý tất yếu: “ở đâu đau khổ là
ở đó có đấu tranh ”.
Con người Mò mới nhìn ta thấy không có một sức sống nào nhưng không hoàn toàn như

vậy. Sức sống tiềm tàng của Mò vẫn được ngời lên qua hành động cởi trói và cứu sống A Phủ -
19
con người cùng khổ. A phủ là chàng trai mồ côi nghèo khỏe mạnh chạy nhanh như ngựa, săn
bò tót rất giỏi. Bằng sức khỏe phi thường của mình A Phủ có thể tự kiếm ăn. Nhưng hoàn cảnh
đã không để A Phủ được yên. A Phủ bò con trai nhà giàu gây sự, bất bình đánh nhau thế là A
Phủ bò bắt về làm đứa ở gạt nợ cho nhà thống Lý. Về đến nhà thống Lý Pá Tra A Phủ bò đánh
đập hành hạ và phạt vạ 100 đồng bạc trắng. A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà thống Lý. Thế là
trong nhà thống lý lại có một người bất hạnh nữa làm nô lệ. Nhà tù thống Lý Pá tra như mạng
lưới nghiệt ngã sẵn sàng tóm bắt tất cả những người lao động khốn cùng. Ở đây A Phủ cũng
giống như Mò làm việc quanh năm làm quần quật ngoài rừng mà vẫn đối xử một cách tàn tệ.
Chẳng may bò hổ ăn thòt mất con bò, A Phủ bò thống lý trói đứng suốt đêm ngoài trời giá lạnh
Thống Lý Pá Tra, A Sử cũng như bọn cường hào hách dòch trong VCAP là hiện thân của
bọn Phong kiến tay sai thực dân gian ác ở vùng cao. Chúng sẵn sàng cướp đoạt tất cả quyền
hạnh phúc, quyền làm người Mò và A Phủ là hai mảng thời điển hình cho xã hội xấu xa ấy.
Quy luật tất yếu của cuộc sống “ở đâu đau khổ là ở đó có đấu tranh ”. Khi nhìn thấy A Phủ bò
trói Mò động lòng thương. “ Trời ơi, nó bắt người ta trói đứng đến chết, nó bắt mình chết cũng
thôi … Người kia việc gì phải chết thế ”. Sức sống tiềm tàng trong sự hiện lên. Lúc đầu nàng
thờ ơ, lạnh lùng không quan tâm đến A Phủ. Nhưng Sự đồng cảm hay do chính giọt nước mắt
rơi tren gò má của chàng trai tội nghiệp kia đã đưa Mò có được quyết đònh đúng đắn. Nàng đã
cắt dây trói cho A Phủ và cũng là cắt dây trói vô hình cột từ bấy lâu nay. Thế rồi cả hai cùng
chạy đến bầu trời tự do. Ở đây tinh thần nhân đạo được đẩy đến một mức độ cao hơn. Nàng
Kiều bò xô đẩy trong cuộc sống thanh lâu nhục nhã ê chề bao lần vùng sức thoát ra. Chò Dậu
trong hoàn cảnh “tức nước vỡ bờ đã vùng lên mãnh liệt nhưng cuối cùng vẫn dừng lại ở tình
huống trời tối đen như mực như tiền đồ của chò”! Nhưng ở đây hoàn toàn khác. Bao nhiêu nhục
nhã, ê chề, bao cay đắng xót xa của thân phận con người tài sắc vẹn toàn lại không bằng kiếp
trâu ngựa. Vậy mà họ vẫn sống mảnh đời đau khổ tìm đến nhau, tự giải phóng mình.
KL: (Tự làm)
V NHẶT
Kim Lân
1. Phân tích tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân

2. Phân tích nghệ thuật dựng chuyện trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân
3. Một rong những thành công lớn nhất của nhà văn Kim Lân trong truyện Vợ Nhặt là
xây dựng tình huống truyện độc đáo. Phân tích tác phẩm để chứng minh.
4. Giá trò hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ Nhặt được thể hiện như thế nào ?
5. Phân tích tâm trạng bà cụ tí trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân.
Vợ nhặt (1462)là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân đồng thời cũng là niềm mơ ước
của nhiều người cầm bút. Lấy chất liệu từ nạn đói lòch sử khủng khiếp nhất trong thế kỷ XX.
Bằng tài năng nghệ thuật đích thực và trái tim gắn bó xót thương đối với những kiếp người
nông dân khốn khổ lam lũ Lim Lân đã viết nên tác phẩm Vợ Nhặt nổi tiếng.
20
Câu chuyện xảy ra trong một tình huống chuyện đặc biệt li kỳ đầy kòch tích. Lẽ tự nhiên
của con người khi người ta nghó đến hạnh phúc là lúc vật chất có đầy đủ, đời sống ổn đònh tuổi
xuân đương thì. Nhưng ở đây tác giả dựng lên câu chuyện hôn nhân trong một bầu khí quyển
chết chóc và thê lương. Cái sự thực về nạn đói chết chóc có một không hai trong lòch sử khi
“tiếng qua trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ gào lên từng hồi tha thiết” dọc hối về của nhà “đôi
vợ chồng mới”. Cái đói đã tràn về thật bất ngờ như một luồng thác dữ làm đảo lộn cuộc sống
xóm ngụ cư, nơi những con người nghèo khổ bò hắt hủi nhiều nhất trong xã hội thực dân. Sự
sống đang ở bên bờ vực của cái chết. Con đường đi vào làng không còn cảnh ồn ào náo nhiệt
mà thay vào đó là cảnh chết chóc thê thương, tiếng khóc của người già con trẻ, tiếng quạ kêu,
tiếng rên đói… thần chết về tới xóm ngụ cư. Người chết nằm cong queo trên đồng, dọc đường
xung quanh một màu ảm đạm, còn người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Trẻ em vô tư
hiếu động bây giờ cũng buồn ủ rũ, tiếng quạ kêu át cả tiếng người run vì đói. nh sáng mà tác
giả đưa vào câu chuyện cũng chỉ là ánh sáng của buổi chiều tà, gợi lên trong lòng người đọc
một cảm giác cõi âm lơn vởn cùng cõi dương (ánh sáng nhập nhằng vùng cõi u tòch).
Con người sống mà nhưu những hồn ma “khuân mặt hốc hác vì u tối”. Đau đớn hơn thê
thảm hơn là tiếng khóc đám ma, tiếng quạ kêu, mùi xác người chen lẫn mùi rác rưởi… với
những động từ mạnh tác giả như tố cáo mạnh mẽ tội ác tày trời của chế độ phát xít đang hủy
hoại đến tận xương tủy con người.
Trong bối cảnh đó, trong tang tóc đau thương đó Kim Lân đã đư ra câu chuyện ái tình. i
tình thách đố cả thần đói lẫn thần chết. Thần tình yêu hiện lên qua sự mai mối của bốn bát

bánh đúc mà người đẹp ăn đến nỗi suýt hụt hơi. Chẳng thơ mộng chút nào khi bi kòch giữa
hoàn cảnh và tâm lý hiện lên. Khi món quà tình yêu và quà cưới gồm “cái thúng và vài món
hàng lặt vặt”, nhưng trong hoàn cảnh đói kém nó vẫn quý hiếm. Tất cả các nhân vật hiện lên
đều có hạnh phúc tinh thần giống nhau.
Trước hết là nhân vật Tràng - Chủ thể của hành động nhặt vợ được nhà văn miêu tả khá
tinh tế với đầy đủ hai mặt nửa cục mòch, nửa liều lónh gan góc. Tràng bước vào câu chuyện như
là một con người hoang sơ ngận ngưỡng bước đi trong ánh chiều tà cùng với hình dáng được
hóa công đẽo gọt sơ sài “thô kòch” cái lưng to rộng như lưng gấu “cái đầu trọc nhẵn” “ngửa
mặt lên cười huyềnh huyệch”… Đó là mẫu người vừa sấu lại vừa thô là sự bất hạnh trong hôn
nhân gia đình, cộng với thân phận ngụ cư nghèo khổ có nghóa là anh ta tuyệt đường hạnh phúc,
thế mà bỗng nhiên Tràng lại có vợ, có tình yêu hạnh phúc là một sự lạ, mà người vợ theo lại là
lạ hơn. Thế nhưng cái lạ ấy xét trong mặt ý nghóa ấy lại vừa hạnh phúc, vừa xót xa. Hạnh phúc
vì trong con người xấu xí nghèo khổ đáng thương ấy từng có ước mơ lấy vợ mà nay đã thực
hiện. Tràng trở về trong niềm vui của bản thân, trong không khí cả nhà đang đói khổ. Cả làng
đang đối chọi với cái chết bỗng bừng lên sự sống. Xót xa vì chuyện hạnh phúc trăm năm,
chuyện cưới xin phải đặt nó vào chỗ linh thiêng trang trọng có đầy đủ trầu cau, cưới hỏi… vậy
mà ở đây lại nhặt vu vơ ngoài đường trong lúc đói khát.
Câu chuyện Tràng nhặt được vợ cũng diễn ra trong một tình huống độc đáo nhanh chóng,
nhanh chóng đến không ngờ. Trong đói khát chỉ bốn bánh đúc mà làm nên một mối tình, nồi
cơm ngày đói đủ làm nên cỗ tân hôn. Ngòi bút Kim Lân đã đạt đến một chiều sâu triết lý sâu
sắc. Khi cái dạ dày chưa đầy đủ thì tình cảm con người thường méo mó. Bốn bát bánh đúc,
niêu cháo lõng bõng, nồi cơm đắng mà gồm cả lễ cưới hỏi, thành hôn. Cái đói thần chết đang
gõ cửa từng nhà, vậy mà hạnh phúc lại hiện lên. Tràng bất chấp mọi hoàn cảnh vật chất với
21
một thái độ liều lónh để đoạt lấy hạnh phúc tinh thần. Trong đói khát người ta sẵn sàng liều
thân. Tràng vẫn vui vẻ vẫn vỗ tay vào túi “rích bố cu” và chấp nhận đèo bồng. Tình yêu họ
đến nhanh bất ngờ, qua lời bông đùa, qua những câu chuyện đùa vui vậy mà họ thành vợ
chồng. Trong sự đe dọa của cái đói, cái chết họ vẫn khát khao hạnh phúc. đây tác giả để cho
nhân vật có được niềm hạnh phúc thực sự. Sau mối tình bất ngờ và chuyện hôn nhân kỳ lạ ấy
lúc đầu Tràng lo cho bản thân. Lo miếng ăn qua ngày, nỗi lo ấy là điều bình thường. Nhưng

sau đó Tràng thấy trong con người mình hoàn toàn khác: Một cảm giác mới mẻ xâm chiếm và
thổi bùng lên sự sống vô tận. Tràng thấy người “êm ái lửng lơ như vừa mới đi trong mơ ra” “tự
hồ như bàn tay vuốt nhẹ lên sóng lưng”.
Sau đêm hạnh phúc vợ nhặt Tràng thấy yêu đời hơn, Tràng sửa lại căn nhà, lòng vò tha
trỗi dậy Tràng thấy yêu thương gắn bó với gia đình hơn. Tràng thực sự lo cho mái ấm gia đình.
Phải chăng trong đau khổ lại ẩn chứa niềm vui, trong tối tăm lóe sáng tia hy vọng. Cuối tác
phẩm Kim Lân để cho lá cờ đỏ bay phấp phới trong đầu Tràng như một dự báo tương lai giúp
cho Tràng vượt qua bao đau khổ tin vào hạnh phúc của chính mình.
Ngòi bút nhân đạo của tác giả như khám phá chiều sâu tâm hồn con người. Hình tượng
người vợ theo như là một điển hình cho thân phận người phụ nữ Việt Nam khổ đau trước những
tình thế vật chất tinh thần nghiệt ngã. Cái đói và miếng ăn đã làm cho Thò “liều lónh” phó thác
cho số mệnh, Thò liều mạng ăn bốn chiếc bánh đúc và theo không Tràng bất chấp lòng tự trọng
và danh dự. Một lời nói vô tình, một miếng ăn thường nhật Thò đã theo Tràng mặc dù chưa biết
được con người Tràng, gia cảnh của người sẽ là chồng mình. Nhưng lúc về với Tràng cái e
thẹn, ngượng ngập của người phụ nữ đã trở về: Thò cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái
nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt. Dáng vẻ ấy thật tội nghiệp đáng thương
trong đó một phần là do sự tủi khổ của hoàn cảnh vật chất. Mặt khác đó là sự duyên dáng ẩn
sâu trong tâm hồn con người hiền thục nết na.
Tình huống truyện thật bất ngờ Thò theo Tràng về làm vợ trước hết là tìm chỗ nương thân
vượt qua cái đói khủng khiếp. Nhưng về đến nhà Tràng lại ngược lại Thò không làm sao tránh
khỏi được tiếng thở dài. Cái đói chưa chắc gì đã thoát được khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng.
Nhưng ở đây dưới ánh sáng của Lý trưởng soi đường Kim Lân đã thay vào sự cô đơn lạnh lẽo
ấy bằng ngọn lửa niềm tin và hy vọng đầm ấm tình người. Cảnh tân hôn có éo le nhưng tràn
ngập hạnh phúc. Ánh sáng của ngọn đèn dầu như soi vào tâm can họ. Chỉ mấy lời đối đáp
cùng một tiếng chào “Chào U” một cái “đánh bét vào lưng” một cái củng vào trán Tràng kèm
theo một tiếng “dở” đã đem đến cho người đọc chiêm ngưỡng niềm hạnh phúc của một nàng
dâu thực sự. Đêm tân hôn đầy ái ân hạnh phúc, tiếng sét ái tình như xua tan đau khổ, nhân vật
không tên kia đã trở thành nàng tiên trong cổ tích thời hiện đại.
Chiều sâu nhân bản của câu chuyện Vợ Nhặt cuối cùng đọng lại trong ánh mắt trong con
người bà cụ Tứ. Người mẹ điển hình với những đức tính nhân hậu dòu dàng đầy vò tha của

người phụ nữ Việt Nam.
Tâm trạng bà cụ Tứ diễn ra thật phức tạp và sinh động. Đầu tiên là sự ngạc nhiên “ Phấp
phổng” khi thấy Tràng về nhà trong trạng thái hồn nhiên vui tươi như đứa trẻ. Sự hồn nhiên
trong ngày đói thì thật bất ngờ. Dường như bà thấy điều gì bất thường đang chờ đợi. Cái hay
của tác giả là dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm toàn bộ tâm trạng bà cụ được hiện ra: “Quái
sao lại có người đàn bà trong ấy nhỉ” Người đàn bà nào lại đứng ngay trên đầu giường con
22
mình thế kia. Và ngạc nhiên càng tăng lên khi người đàn bà ấy gọi mình bằng U.Người mẹ ấy
bao năm sống với con, bao lần lo lắng cho con vậy mà nay không tránh khỏi sự ngạc nhiên.
Những bước đi “lập cập”. Đến đây khi Tràng phân trần bà mới hiểu. Sự ngạc nhiên ấy được
thay bằng niềm ưu tư, sự đăm chiêu suy nghó của một người mẹ “bà lão cúi đầu nín lặng- một
sự nín lặng chứa bao suy nghó ”. Lời kể của tác giả như hóa thân vào lời của nhân vật “bà lão
hiểu rồi, lòng người mẹ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, và ai oán xót thương cho số kiếp
đứa con mình ”. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nỗi
còn mình thì … Trong khuôn mặt của bà ứa lại dòng lệ … Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
qua cơn đói khát này hay không. Trong lòng bà mang nặng một quá khứ đầy xót xa cay đắng.
Bà lão nghó đến ông lão, nghó đến gia đình … Người mẹ nhân hậu và nhạy cảm này đã dành
tình cảm không chỉ cho con mình mà còn cho cảnh ngộ trớ trêu của người đàn bà xa lạ đang
bổng dưng trở thành con dâu của mình.
Trong lo toan đúng nghóa ấy bà lão chấp nhận tất cả, chấp nhận hạnh phúc thật sự của
Tràng. Niềm vui của bà cụ Tứ được ánh lên. Bà như chia xẻ cùng niềm hạnh phúc với con
mình. Lời quyết đoán của bà là lời phán quyết với lòng thương yêu và tình cảm bao dung vô
tận “Về các con phải duyên phải kiếp với nhau thì mẹ cũng mừng lòng…” Câu nói như giải tỏa
toàn bộ căng thẳng trong tình huống truyện. Nó như trả lại danh nghóa người vợ nhặt kia thành
một nàng dâu thực sự.
Kim Lân đã mô tả thành công diễn biến tâm lý của từng nhân vật. Mỗi người một suy
nghó khác nhau. Tràng từ nghèo khó liều lónh đến hạnh phúc vì có được hạnh phúc. Người vợ
theo từ liều lónh phó thác số mệnh đến e thẹn và ngập tràn hạnh phúc. Bà cụ Tứ cũng vậy …
Mỗi người một vẻ tạo nên niềm hạnh phúc của một gia đình.
- So sánh VHHTPP

- Kết luận - Cổ tích thời hiện đại …
MÙA LẠC
Nguyễn Khải
1. Phân tích truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải
2. Phân tích đặc sắc nghệ thuật qua việc xây dựng nhân vật Đào.
3. Phân tích nhân vật Đào.
Mùa Lạc là truyện ngắn hay của Nguyễn Khải in trong tập truyện ngắn cùng tên xuất bản
năm 1960. Tác phẩm viết về số phận và đời sống con người trong những năm đầu xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Đó là niềm vui, niềm lạc quan yêu đời tin tưởng vào cuộc sống mới, con
người mới của tác giả. Một trong những nhân tố tạo nên sự thành công của tác phẩm là miêu tả
nhân vật Đào, một người phụ nữ có nhiều bất hạnh, có đời sống nội tâm phức tạp, qua bao
sóng gió cuộc đời cuối cùng tìm được niềm hạnh phúc thực sự.
Nhòp sống khẩn trương và sôi nổi trên quê hương miền Bắc những năm đầu thới kỳ xây
dựng CNXH là miếng đất màu mỡ cho cánh đồng văn học sinh sôi nảy nở, những bông lúa mới
tróu hạt và đầy hương thơm. Chế Lan Viên đã từng hướng hồn mình, hóa thân mình thành con
23
tàu lên miền quê Tây Bắc, nơi đó là “mẹ của hồn thơ”. Nguyễn Tuân dạo khắp sông Đà chiêm
ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên trời phú. Nguyễn Thành Long quan sát miêu tả những con người hy
sinh tuổi xuân làm việc cho đất nước trong “Lặng lẽ Sapa”. Mảnh đất Điện Biên xưa kia là
chiến tích lòch sử oai hùng, là nơi lửa đạn chông gai ác liệt nhất. Đó là niềm tự hào của mỗi
người dân đất Việt. Cũng chính mảnh đất đó nay là những cánh đồng lạc xanh thẳm ngút ngàn.
Đào là nhân vật rất cá biệt trên hai phương diện ngoại hình lẫn tính cách. Đào xuất hiện
giữa đám đông mà chẳng lẫn lộn với người nào. Tác giả có nhiều kỳ công để phác họa chân
dung nhân vật. Là người phụ nữ không có nhan sắc nhưng lại mang nhiều nét ấn tượng: Gò má
cao đầy tàn nhang, cái đầu nhọn, cặp chân ngắn, bàn tay to và thô, đầu tóc đỏ hoe vì sương
gió… Những nét thô kệch ấy gây cho người đọc một cảm giác thương hại cho số phận người
phụ nữ trước sự dẽo ngọt sơ sài của hóa công. Nhưng điều quan trọng hơn đó là dấu hiệu, là
sản phẩm của một thời đại khổ đau.
Đào đã từng có một cuộc sống hẩm hiu đầy bất hạnh, lấy chồng từ năm 17 tuổi, chồng lại
là một tay cờ bạc ăn chơi. Chồng chết đứa con trẻ mới lên hai cũng mất luôn. Nỗi đau chồng

chất thêm nỗi đau. Chò thấy sống trên cõi đời này thật vô nghóa. Đi phiêu bạt nhiều nơi kiếm
sống không gia đình, không nhà cửa, không quê hương. Quanh năm cứ “tối đâu là nhà, ngã đâu
là giường”. Sóng gió cuộc đời đã làm cho nhan sắc phai tàn theo năm tháng, mái tóc óng ngày
xưa nay đã khô lại đỏ đi như chết… Chính đều đó đã giúp Đào trở thành một thanh niên xung
phong lên vùng kinh tế mới.
Cảm giác đầu tiên trên giúp ta có thiện cảm với nhân vật khi bắt gặp những nét ấn tượng
về con người thông minh nhanh nhẹn: “Hai con mắt hẹp và dài đưa qua đưa lại rất nhanh”
“hàm răng khểnh của con người luôn luôn ưa đùa cợt”. Nét phác họa ấy làm cho nhân vật sống
động hẳn lên, không nhạt nhẽo vô vò mà có chiều sâu nhân bản. Bên trong con người có số
phần đắng cay ấy làm một tính cách, một tâm hồn của người phụ nữ thông minh, đa tình, đa
cảm.
Với tính cách Đào trong truyện được thể hiện đắc sắc qua ngôn ngữ nói năng, những biểu
hiện tình cảm khát khao ý chí trong quan hệ xã hội trên con đường đi tìm hạnh phúc. Nếu ví
cuộc đời con người như một dòng sông thì dòng sông của Đào quá nhiều sóng gió, bao nỗi bất
hạnh chua sót, bao phen buộc chò phải chìm nổi lênh đênh. Cuộc đời đầy bất hạnh, gia đình
đầy đau khổ, hạnh phúc bò gián đoạn nhưng Đào chưa bao giờ rơi nước mắt. Tráu lại nàng chua
ngoa đanh đá, thông minh sắc sảo. Đào hờn ghen tất cả, ăn miếng trả miếng với mọi cảnh ngộ
nhưng lại biểu hiện phức tạp. Khi thì ngoa ngoắt táo tợn khi thì tỏ vẻ bất cần, khi thì mặc cảm
đớn đau. Mỗi một lời nói giao tiếp, mỗi phản ứng của Đào đều gắn với chiều sâu văn hoá qua
con đường ca dao tục ngữ làm cho nhân vật trở nên sắc sảo giàu tâm trạng. Khi mọi người đùa
cợt gán ghép với chàng trai trẻ đẹp mã tên Huân trong đội sản xuất Đào chẳng tha mà đáp lại:
“Huệ thơm bán một đồng mưới
Huệ tàn nhò rửa giá đôi lạng vàng”
Đằng sau lời lẽ ấy là sự khẳng đònh ý thức về bản thân, về cái quyền được hưởng hạnh
phúc như bao người phụ nữ khác. Tuy nhiên lúc mặc cảm thân phận, hờn ghen với bản thân
mình Đào đã nói ra những lời lẽ thật chua xót: “Trâu quá xá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ lại còn
gì là xuân”. Những câu nói ấy như gợi lên một mảng đời đầy bất hạnh. Mới 28 tuổi đầu mà chò
từng trải qua bao cơn bão của cuộc đời vùi dập: chồng chết, con mất sống vô gia cư nay đây
24
mai đó. Đời sống không chút hy vọng cho tương lai, nhan sắc cũng phai tàn theo năm tháng.

Quá khứ đau thương ấy tạo cho Đào một tính cách đặc biệt: Sống táo bạo, liều lónh ghen tò với
mọi người hờn giận cho bản thân mình”. Chính hoàn cảnh ấy đã làm cho Đào có một đời sống
nội tâm phức tạp, đằng sau vẻ xót xa cay đắng, chán chường, tuyệt vọng ẩn chứa một khát
vọng nhất là: “khi đau ốm nằm nhớ nhà, người quen, bưng bát cơm nóng nhìn ngọn đèn dầu,
lại sực nhớ trước đây mình cũng từng có một gia đình sớm lo việc sớm tối”. Ở con người chò
chưa chắc niềm tin là sự khát khao hạnh phúc.
Trong cuộc sống lao động khẩn trương hàng ngày cạnh những chàng trai Đào luôn luôn
cảm thấy xót xa rạo rực xung tình, gương mặt ửng lên với bao nỗi niềm khó tả. Cùng vơi Huân
một thanh niên đẹp trai biết cảm thông chia sẻ, Đào hăng hái lao động cùng đồng đội gieo
mầm xanh sự sống lên mảnh đất đầy thương tích chiến tranh ngày xưa. Chò sáng tác thơ, yêu
đời hồn nhiên hơn xưa… phải chăng màu xanh của sự sống đã gieo niềm vui và tâm hồn Đào?
Lúc lên Điện Biên Đào mang một tâm lý “chim bay mãi cũng mỏi cánh, ngựa chạy mãi
cùng chồn chân”. Nhưng sống ở môi trường tập thể cạnh những con người giàu lòng nhân ái
như Lâm, Huân, Dực… Đào coi Điện Biên là quê hương thứ hai yêu dấu của mình. Hạnh phúc
mới chợt đến đó là hạnh phúc thực sự khi Đào nhận được bức thư tỏ tình của ông thiếu úy lò
gạch. Cảm giác đầu tiên đến với chò là sự giận dữ đến nỗi chò đònh xé toạc bức thư nhưng bức
thư không bò xé rách mà chỉ thấy một cảm giác êm đềm lan tỏa trong tâm hồn chò. Đào muốn
cười to một tiếng khi ước mơ hạnh phúc gia đình đã mất từ lâu nay trở lại. Những lời tỏ tình dễ
thương trong thư trở thành “tiếng nhạc ngân vang” đến những ngóc ngách sâu kín trong tâm
hồn chò “ngây ngất xao xuyến”. Mùa thu hoạch lạc năm ấy trờ thành mùa thu hoạch niềm vui
hạnh phúc của Đào. Tiếng hát của chò vang lên trên vùng đất Điện Biên đầy sương gió như
quên đi thách thức chiến tranh, không khí thi ca phủ trùm tác phẩm. Tác phẩm như vận dụng
đúng quy luật” Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện lên từ đau khổ”. Cô can đảm vượt
qua con người mới tìm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc đó được sinh ra từ lao động.
Nhân vật Đào thể hiện rõ tài năng của nhà văn mới bước vào nghề. Chính hiện thực cuộc
sống những năm đầu xây dựng CNXH ở miền Bắc mà cụ thể là vùng kinh tếå Tây Bắc đã vun
đúc cho tài năng ấy. Hơn nữa qua cuộc đời và số phận nhân vật Đào thể hiện rõ cái nhìn lạc
quan cách mạng mang tầm tư tưởng thời đại. Hãy quan tâm đến số phận con người nhất là
người phụ nữ, chia sẻ những mất mát thiệt thòi của họ lấy tình thương tập thể vun đắp cho
hạnh phúc cá nhân. Mùa Lạc đúng là mùa vui của Nguyễn Khải.

25

×