Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân Tích Bài Đây Thôn Vĩ Dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.94 KB, 4 trang )

Hàn Mặc Tử
(1912-1940) là bút danh của Nguyễn Trọng Trí. bút danh : Phong
Trần, Lệ Thanh. Thuộc nhóm thơ Bình Định. Một cuộc đời hết sức
lãng mạn và đầy bi kịch. Một nhà thơ tài năng, cảm hứng sáng tạo
thi ca dào dạt với những tập thơ: Gái quê, Thơ điên
Phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử
rất khác lạ: bên cạnh những vần thơ điên loạn lại xuất hiện những
vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ thường như “Mùa xuân chín”,
“Đây thôn Vĩ Dạ”
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập thơ Điên. Bài thơ nói về
cảnh đẹp Vĩ Giạ với một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một hoài
niệm bâng khuâng vương vấn.
1. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Vĩ Giạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương giang, ngoại ô cố
đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử
chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời,
như một
tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.
Cảnh Vĩ
Giạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh
rạng ngời.
Là màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng,
rồi thốt
lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời
lên. Một
so sánh rất đắt gợi tả sức xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Câu thứ 4

bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ
điền”.
Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín
đáo,


duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy
là vừn
xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc

gương mặt chữ điền - 5 nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi
nhiều
thương mến bâng khuâng.
2. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…
Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có
dòng
nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng
nước
buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi
buồn.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến
“bến
sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ
đợi chờ.
“Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất
trong
thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ
mộng, tình tứ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ
đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gợi
lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng
khuâng.

3. Ai biết tình ai có đậm đà?
Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi:
“Mơ
khách đường xa, khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Giạ?
Chắc lại
là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn
không ra”.
Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người trong
hoài
niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã
làm mờ nhân
ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương
khói,
một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các
câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ
ngàng
mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác
sâu lắng,
bồi hồi, thiết tha:
“Núi Truối ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm ao cá nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”
Kết luận
“Đây thôn Vĩ Dạ”
ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình -
tình

trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha,
tình
tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn
đó,
nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa với, mênh
mông.
Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài
niệm
trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây
thôn Vĩ Dạ” là bài thơ để ta nhớ và ta thương.

×