Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hội chứng giả tắc đại tràng cấp tính (Hội chứng Ogilvie) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.89 KB, 6 trang )

Hội chứng giả tắc đại tràng cấp tính
(Hội chứng Ogilvie)





Dãn đại tràng cấp tính có thể xảy ra như là một hậu quả của ba cơ chế
sau:Nhiễm độc đại tràng(biến chứng của nhiễm trùng Clostridium difficile),sự tắc
nghẽn cơ học và hội chứng giả tắc đại tràng cấp tính(Ogilvie). Hội chứng Ogilvie
là sự rối loạn đặc trưng bởi sự giãn manh tràng và bán phần đại tràng phải(mặc dù
đôi khi kéo dài đến trực tràng).

Về tần suất của bệnh,trong một nghiên cứu xem lại 400 ca lâm sàng có hội
chứng Ogilvie thì thấy 11% do chấn thương(chưa phẫu thuật),10% do nhiễm
trùng(viêm phổi…),10% do bệnh tim(suy tim,nhồi máu cơ tim),10% do bệnh sãn
phụ khoa,9% do phẫu thuật vùng bụng chậu,9% do bệnh thần kinh(Parkinson,tổn
thương tuỷ sống,xơ cúng rãi rác,Alzheimer),7% do phẫu thuật chỉnh hình,32% do
bệnh lý nội khoa kết hợp(chuyển hoá,ung thư, suy hô hấp,suy thận),12% do hậu
quả phẫu thuật(hệ niệu,ngực,thần kinh).

Về sinh lý bệnh học, cơ chế rõ ràng của sự giãn ruột xảy ra ở bệnh nhân hội
chứng Ogilvie vẫn chưa biết. Người ta nhận thấy có sự liên quan đến việc gây tê
tuỷ sống làm hư hỏng hệ thần kinh tự chủ.Ở người được gây tê sẽ xảy ra sự cắt đứt
hệ phó giao cảm từ đoạn tuỷ từ S2 đến S4 làm cho mất trương lực đoạn ruột xa và
gây nên tắc nghẽn ở đoạn ruột gần.

Hội chứng giả tắc đại tràng cấp tính này thường xảy ra ở đàn ông và ở
người trên 60 tuổi. Ói,buồn nôn,đau bụng,táo bón,và thật ngịch lý ở chỗ tiêu chảy
là những biểu hiện chính yếu đầu tiên. Bệnh nhân có thể thấy chướng bụng và cảm
giác khó thở. Khám lâm sàng sẽ thấy bệnh nhân chướng bụng,âm ruột có thể hiện


diện trong 90% trường hợp. Dấu hiệu viêm phúc mạc không hiện diện trong giai
đoạn sớm của bệnh, nếu có thì có thể là dấu hiệu của vỡ ruột tiến triển. Các giá trị
cận lâm sàng có thể thấy là sự rối loạn điện giải(hạ Kali máu,hạ Canxi máu, hạ
Magie máu). Nếu công thức máu có bạch cầu tăng, có thể là dấu hiệu của vỡ ruột
đang tiến triển chứ không phải là biến chứng của hội chứng Ogilvie. Chụp X-
quang bụng đứng không sửa soạn thấy được hình ảnh đoạn ruột giãn, thường kéo
dài từ manh trành đến đại tràng góc lách,một số ít trường hợp kéo dài đến trực
tràng,dấu Haustral thì bình thường. Chụp CT scan sau khi thụt tháo thì cần thiết
cho việc chẩn đoán xác định và loại trừ tắc ruột cơ học và nhiễm độc ruột.

XQ bụng đứng của BN hội chứng Ogilvie(ruột dãn
và ứ hơi manh tràng và đại tràng phải)

Hội chứng Ogilvie có thể nghĩ đến sau khi loại trừ được tắc ruột do nhiễm
độc hoặc tắc ruột cơ học.Bệnh nhân với tắc ruột cơ học sẽ có triệu chứng đau bụng
từng cơn,tuy nhiên có thể không có đau ở bệnh nhân lớn tuổi hoặc sau khi phẫu
thuật được dùng thuốc giảm đau gây nghiện. Trên X-quang bụng đứng không sửa
soạn có một dấu hiệu “cut-off” tức là không có hơi ở đoạn xa ruột hoặc trực
tràng,hình ảnh mức nước hơi ở ruột non chứng tỏ là tắc ruột cơ học, nhưng cũng
có thể thấy ở những bệnh nhân có hội chứng Ogilvie.

Còn ở bệnh nhân bị nhiễm độc ruột thì thể trạng kém với sốt,tim đập
nhanh.Họ thường có bệnh sử tiêu chảy phân máu hoặc có thể có triệu chứng của
bệnh viêm ruột mãn tính.X-quang bụng đứng không sửa soạn thấy hình ảnh phù nề
niêm mạc ruột,sự dày lên của thành ruột.

XQ bụng không sửa soạn của BN bị hội chứng nhiễm độc ruột do
C.difficille

Có rất ít thử nghiệm lâm sàng trong việc điều trị bệnh giả tắc đại tràng cấp

tính. Do đó,các khuyến cáo phần lớn dựa trên việc hồi cứu lại hoặc kinh nghiệm
lâm sàng. Việc xử trí gồm có:điều trị hỗ trợ;thụt tháo ruột để tăng tính nhu động
của ruột kết;nội soi đại tràng để giải áp;phẫu thuật.Một lưu đồ xử trí được cung
cấp bởi Hiệp hội nội soi tiêu hoá Mỹ để điều trị hội chứng Ogilvie.

Bệnh nhân nên được chụp X-quang bụng mỗi 12-24 giờ để đánh giá đường
kính ruột và quyết định có phải nội soi đại tràng giải áp hay là phẫu thuật.Việc
điều trị hỗ trợ bệnh nhân gồm có điều trị các bệnh có thể làm tăng nguy cơ hội
chứng Ogilvie như nhiễm trùng và suy tim sung huyết, hồi sức bệnh nhân bằng
một đường truyền dịch tĩnh mạch,tránh ăn uống,điều chỉnh rối loạn nước điện
giải,có thể đặt sonde dạ dày,ngưng các thuốc không cần thiết đặc biệt là opiates,an
thần,kháng cholinergic. Bệnh nhân nên được nằm sấp kê cao vùng hông.Tư thế
này có thể xen kẽ với tư thế nằm nghiêng trái hay phải mỗi giờ.Về dùng thuốc có
thể dùng Neostigmine – nhiều báo cáo cho rằng nó làm giảm bớt sức ép trong ruột
nhanh.Liều tiêu chuẩn là 2mg tĩnh mạch song song với theo dõi tim mạch.80-
100% bệnh nhân sẽ được giải áp.Tác dụng của thuốc có thể làm bệnh nhân nôn ói
do tăng tiết bọt,chậm nhịp tim,hạ huyết áp.Do đó cần phải có atropin để canh
giường cũng như việc lắp monitor theo dõi điện tim cho bệnh nhân. Ngoài ra có
thể dùng Erythromucin cho bệnh nhân,nó gắn với receptor Motilin ở trong ruột và
kích thích sự co cơ trơn.Có nhiều báo cáo cho thấy việc chữa trị thành công cho
bệnh nhân được truyền Erythromycin tĩnh mạch(250mg trong 250 ml nước muối
sinh lý mỗi 8h trong 3 ngày) hoặc erythromycin đường uống(250mg 4 lần mỗi
ngày trong 10 ngày).

Việc dùng nội soi giải áp còn nhiều tranh cãi,tỷ lệ thành công chiếm
khoảng 69-90%. Không có sự liên quan giữa đường kính ruột với việc giải áp,tỷ lệ
của sự giãn ruột thì quan trọng hơn cái đường kính của ruột. Tuy nhiên, một cố
gắng nội soi giải áp được chỉ định khi điều trị hỗ trợ thất bại và đường kính ruột
khoảng 11-13cm hoặc tình trạng lâm sàng xấu đi.Cần phải cân bằng nước điện giải
thì có thể không cần thiết trước khi nội soi,nhưng việc thụt tháo thì nên làm.Cuối

củng việc điều trị bằng phương pháp phẫu thuật thì hiếm khi được áp dụng.Nó chỉ
được đặt ra ở những bệnh nhân thất bại với điều trị nội khoa hoặc nội soi giải áp,ở
bệnh nhân có dấu hiệu viêm phúc mạc.

Lê Tuấn Anh Y2005
Nguồn Uptodate 18.1


×