Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.48 KB, 4 trang )
Một số kinh nghiệm từ mô hình cải
tạo đàn bò theo hướng chuyên thịt năm
2007 tại các tỉnh phía Nam
Năm 2007, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã thực hiện mô hình
Cải tạo đàn bò theo hướng chuyên thịt tại 3683 hộ thuộc 49 huyện của 12
tỉnh thành các tỉnh phía Nam đó là Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Dương,
Bình Phước, Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên
Giang,Trà Vinh và Đắklắk.
Tính đến hết năm 2007, đã có 5488 bò cái địa phương được phối
giống có chửa, đạt 72,8% kế hoạch. Tỷ lệ thụ tinh có chửa ở bò cái khi sử
dụng biện pháp thụ tinh nhân tạo (TTNT) đạt 84,6%, cao hơn 9,6% so với
yêu cầu. Đối với phương pháp nhảy trực tiếp, tỷ lệ này đạt 90%, cao hơn 5%
so với yêu cầu. Đặc biệt là trong phương pháp cải tạo đàn bò thì việc sử
dụng TTNT, phương pháp có nhiều ưu việt và thúc đẩy nhanh tiến trình cải
tạo đàn bò thịt chiếm tới 82% số bò đã mang thai. Số bò có thai do nhảy trực
tiếp chỉ chiếm 18%. Điều này cho thấy các địa phương và người dân đã nhận
thấy vai trò quan trọng của TTNT trong việc cải tạo đàn bò thịt. Tinh bò
TTNT sử dụng chủ yếu đó là Bò Brahman, Limousin, Sind, Laisind. Bò đực
giống nhảy trực tiếp chủ yếu là nhóm bò Zebu, một số tỉnh sử dụng cả bò
đực giống Brahman, Droughtmastaster, Sind X Brahman.
Hiệu quả bước đầu từ mô hình cho thấy nếu so sánh 2 bò con 01 năm
tuổi, bò được sinh ra từ TTNT đạt 100-110 kg, với giá bán (năm 2006)
khoảng 4 triệu đồng so với bò sinh ra từ bò đực địa phương (không tham gia
mô hình) có trọng lượng 70-80kg, giá bán khoảng 3 triệu đồng. Sự chênh
lệch là 1 triệu đồng, chưa kể bò sinh ra từ TTNT dễ bán hơn do nhiều thịt
hơn bò địa phương. Nếu tính tổng số bò con được sinh ra từ những mô hình